SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ 5-6 tuổi trong trường Mầm non
Nhắc đến tuổi thơ ai cũng gắn liền với con trâu, cánh đồng và cánh diều thả gió với những trò chơi dân gian đầy lý thú. Thế nhưng, ngày nay, các em ở một xã hội công nghiệp, chỉ quen với máy móc và không có khoảng thời gian chơi cũng là một thiệt thòi.
I.TÊN ĐỀ TÀI: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức trò chơi dân gian
cho trẻ 5-6 tuổi trong trường Mầm non”.
II. PHẦN MỞ ĐẦU:
1.Lý do chọn đề tài:
Nhắc đến tuổi thơ ai cũng gắn liền với con trâu, cánh đồng và cánh diều thả gió
với những trò chơi dân gian đầy lý thú. Thế nhưng, ngày nay, các em ở một xã hội
công nghiệp, chỉ quen với máy móc và không có khoảng thời gian chơi cũng là một
thiệt thòi. Thiệt thòi hơn khi các em không được làm quen và chơi những trò chơi
dân gian của thiếu nhi ngày trước, không chỉ có ở các thành phố mà còn ở cả các
vùng quê với tốc độ phát triển của công nghệ thông tin cùng những trò chơi hiện
đại. Vì vậy việc đưa trò chơi dân gian vào trường học mang một ý nghĩa thiết
thực, nó không chỉ góp phần rèn luyện sức khỏe mà còn giúp trẻ phát triển kĩ
năng sinh hoạt, làm việc theo nhóm. Qua đó giúp các em hiểu và tìm về cội nguồn
qua những trò chơi dân gian là một việc làm cần thiết. Song, làm thế nào để tổ
chức các trò chơi dân gian thực sự có hiệu quả, tạo được hứng thú, lôi cuốn hấp dẫn
trẻ, giúp trẻ được quay về cội nguồn bản sắc dân tộc là một điều mà tôi luôn băn
khoăn suy nghĩ. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao hiệu
quả tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ 5-6 tuổi trong trường mầm non” nhằm góp
phần nhỏ bé của mình đưa các trò chơi dân gian vào trường học nhiều hơn nửa, để
thỏa mản nhu cầu vui chơi của trẻ và giữ gìn được những bản sắc văn hóa của dân
tộc.
2. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ thực tiễn dạy trẻ làm quen với trò chơi dân gian trong chương trình
chăm sóc giáo dục trẻ mẩu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Bến Quan và các buổi
tham dự chuyên đề, tiết mẫu tôi đã chọn nghiên cứu và áp dụng đề tài “Một số biện
pháp nâng cao hiệu quả tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ 5-6 tuổi trong trường
mầm non”, nhằm mục đích giúp trẻ biết đến các trò chơi dân gian nhiều hơn, tham
gia vào các trò chơi dân gian một cách tích cực và hứng thú, thuộc được các bài
đồng dao trong các trò chơi để từ đó phát triển đức trí thể mỹ, giúp trẻ phát triển
toàn diện và biết giữ gìn, phát huy những bản sắc văn hóa của dân tộc.
3. Đối tượng nghiên cứu :
Trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi (Lớp mẩu giáo 5 – 6 tuổi A2) và các hoạt động giáo dục
giúp trẻ làm quen với trò chơi dân gian ở trường Mầm non Bến Quan.
4. Phương pháp nghiên cứu:
4. 1. Phương pháp nghiên cứu lý luận .
Phân tích tổng hợp các tài liệu có liên quan đến thực tiễn và công tác tổ chức trò
chơi dân gian cho trẻ mầm non.
4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
* Phương pháp điều tra: Điều tra về mức độ trẻ biết về trò chơi dân gian.
1
- Tìm hiểu các biện pháp tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ đạt kết quả cao nhất.
* Phương pháp quan sát: Quan sát cách trẻ chơi, cách tham gia vào trò chơi, sự
hứng thú tích cực của trẻ.
* Phương pháp đàm thoại: Đàm thoại với các đồng nghiệp để trao đổi các kinh
nghiệm hay trong tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ.
- Đàm thoại với phụ huynh để tìm hiểu đặc điểm của trẻ khi ở gia đình, trao đổi
cách tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ để cùng phối hợp thực hiện.
- Đàm thoại trực tiếp với trẻ trong quá trình thực hiện các biện pháp giáo dục.
* Phương pháp trực quan: Bao gồm phương pháp làm mẫu, quan sát
* Phương pháp thực hành: Bao gồm các phương pháp trò chơi, giao nhiệm vụ…
* Phương pháp toán học: Xử lý những số liệu khảo sát, kết quả, mức độ đạt được,
để rút ra kinh nghiệm hay cho vấn đề nghiên cứu.
5. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu:
* Phạm vi: Nghiên cứu thực trạng tổ chức trò chơi dân gian ở lớp mẫu giáo 5 - 6
tuổi A2 trường mầm non Bến Quan năm học 2018– 2019
* Kế hoạch :
Thời gian thực hiện bắt đầu từ tháng 8 năm 2018 đến tháng 4 năm 2019.
- Tháng 8: Nghiên cứu lý luận của đề tài
- Tháng 9: Nghiên cứu thực trạng và giải pháp tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ 5-
6 tuổi ở trường mầm non Bến Quan.
- Từ tháng 9/2018 đến tháng 4/2019: Áp dụng các giải pháp đã nghiên cứu vào thực
tiễn công tác chăm sóc giáo dục trẻ nhằm tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ 5-6 tuổi
một cách có hiệu quả cao nhất.
- Tháng 4: Đánh giá, viết báo cáo.
III. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận về vấn đề tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ mẩu giáo 5 – 6 tuổi
Ở lứa tuổi mẫu giáo, vui chơi là hoạt động chủ đạo.Thông qua hoạt động vui
chơi, trẻ phát triển trí tuệ, thể chất, tình cảm quan hệ xã hội, qua đó nhằm phát triển
toàn diện nhân cách cho trẻ.Chính vì vậy, giáo viên cần tổ chức cho trẻ chơi các trò
chơi nói chung và trò chơi dân gian nói riêng. Bộ giáo dục và đào tạo phát động
phong trào: " Xây dựng trường học thân thiện - Học sinh tích cực" và đã qua 10
năm thực hiện trong đó có nội dung đưa trò chơi dân gian vào trường học. Nhưng
làm thế nào để tổ chức được các trò chơi dân gian thực sự có hiệu quả, lôi cuốn và
hấp dẫn được trẻ là một bài toán khó với các giáo viên, đặc biệt là các giáo viên
mầm non. ( Vì khả năng chú ý có chủ định của trẻ mầm non còn kém. Trẻ dễ dàng
tham gia vào trò chơi nhưng cũng nhanh chán, nhanh bỏ cuộc ). Vì thế, việc tổ
chức các trò chơi dân gian có hiệu quả thì chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ mầm
non ngày một nâng cao, đạt được mục tiêu đề ra không phụ lòng tin của các bậc
phụ huynh và sự mong muốn của xã hội.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
.
2
Trường mầm non Bến Quan là một ngôi trường thân thiện với đội ngũ cán bộ
giáo viên nhân viên nhà trường là những người có tâm huyết yêu nghề mến trẻ,
chúng tôi luôn mong được cống hiến tâm huyết của mình cho sự nghiệp trồng
người. Việc tổ chức các trò chơi dân gian cho trẻ từ nhiều năm nay đã được nhà
trường chú trọng và coi đây là nội dung quan trọng trong chương trình giáo dục trẻ.
Bản thân tôi luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để tổ chức có hiệu quả các trò
chơi dân gian giúp trẻ ngày càng tích cực tham gia vào trò chơi, tạo ra một hoạt
động thật bổ ích đó là điều không đơn giản. Khi thực hiện đề tài này, tôi gặp những
thuận lợi, khó khăn sau:
2.1.Thuận lợi:
Được sự quan tâm của BGH nhà trường của bộ phận chuyên môn nhiệt tình
chỉ bảo giúp đở tôi trong công tác ,tạo điệu kiện cho tôi được tham gia các lớp bồi
dưỡng chuyên môn, các lớp tập huấn hè để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ.
Bản thân được phân công dạy lớp 5-6 tuổi A2, độ tuổi dễ dàng tiếp thu lĩnh
hội trò chơi thuận lợi hơn những độ tuổi khác trong nhà trường.
Lớp tôi được trang bị khá đầy đủ trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi, nhất là các
đồ dùng đồ chơi phục vụ cho việc tổ chức các trò chơi dân gian.
Hoạt động Bé với các trò chơi dân gian ở trường đã thu hút sự quan tâm của
phụ huynh nên phụ huynh đã nhận thức rất rõ tầm quan trọng của trò chơi dân gian
đối với trẻ, phụ huynh đã chú ý đến việc hướng dẫn cho con em mình chơi ở nhà.
Điều may mắn nhất là tôi được sống trong tập thể đội ngũ đoàn kết, yêu
thương, quan tâm giúp đỡ nhau trong cuộc sống cũng như trong công việc, cùng
nhau học hỏi, trao đổi kinh nghiệm. Từ đó tôi học được những điều hay lẽ phải,
những kinh nghiệm quý báu. Bản thân tôi yêu nghề, mến trẻ, có ý thức vươn lên, cố
gắng rèn luyện bản thân trong mọi lĩnh vực, luôn có ý thức cố gắng rèn luyện về
chuẩn mực đạo đức, nhân cách, hành vi để làm gương cho trẻ noi theo.
2.2. Khó khăn:
Lớp có một số cháu quá hiếu động như cháu: Thế Đức, Quang Dũng khả
năng tập trung chú ý chưa cao hay quậy phá. Bên cạnh đó, lớp lại có một số cháu
khá nhút nhát, thể trạng yếu không thích tham gia các hoạt động tập thể như cháu
Minh Hằng,Văn Cường...có trẻ khuyết tật về nhận thức là cháu Bảo Ngọc.
Một số trẻ sinh ra trong gia đình làm ăn buôn bán, một số thì do kiện kinh tế
gia đình khó khăn, một số chỗ ở gia đình diện tích chật hẹp nên ít có thời gian cho
trẻ hoạt động giao tiếp với các trò chơi dân gian ở nhà. Vì vậy trẻ còn nhút nhát,
chưa thực sự hòa mình tham gia vào các trò chơi mà lớp tổ chức, chưa tích cực chủ
động để thực hiện công việc, chưa cố gắng để hoàn thành nhiệm vụ của mình để
tìm ra kết quả, trẻ còn phụ thuộc nhiều vào cô giáo.
Số lượng các trò chơi dân gian Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng
nhưng không phải trò chơi nào cũng phù hợp với trẻ mầm non, nhiều trò chơi có
luật chơi khó, cách chơi phức tạp, không thể áp dụng cho trẻ.
3
Trẻ trong cùng một độ tuổi, nhưng lại có mức độ nhận thức và khả năng chú
ý chủ định khác nhau. Đối với lớp của tôi nhiều trẻ còn lạ lẫm với loại hình trò chơi
này.
Khả năng chú ý có chủ định của trẻ còn hạn chế, trẻ dễ dàng nhập cuộc chơi
nhưng cũng nhanh chóng tự rút ra khỏi trò chơi nếu nó không còn hứng thú.
Thời gian tổ chức cho trẻ chơi rất hạn hẹp vì một trò chơi không thể diễn ra
trong suốt cả một hoạt động của trẻ mà nó chủ yếu được lồng ghép và tích hợp vào
các hoạt động khác.
Do vậy,với vai trò của giáo viên chủ nhiệm bản thân tôi luôn trăn trở tìm tòi
phối hợp cùng với giáo viên cùng đứng lớp để đưa trò chơi dân gian đến gần với trẻ
và trẻ ngày càng hứng thú , tích cực tham gia vào các trò chơi dân gian
2.3. Kết quả khảo sát ban đầu
Đối với trường chúng tôi, qua hàng năm nhà trường đã bám sát các văn bản
hướng dẫn của các cấp nên đã xây dựng kế hoạch lồng ghép các trò chơi dân gian
vào chương trình chăm sóc giáo dục trẻ, tổ chức nhiều hoạt động bổ ích lồng ghép
với tổ chức các trò chơi giân gian cho trẻ thu hút sự hứng thú tham gia tích cực của
trẻ trong nhà trường.
Để có cơ sở cho việc nghiên cứu của mình, tôi tiến hành điều tra, khảo sát tình
hình của trẻ ở lớp tôi đầu năm. Qua điều tra khảo sát kết quả cho thấy như sau:
STT Nội dung tiêu chí khảo sát
Số trẻ đạt Tỉ lệ %
1
2
Trẻ hứng thú tham gia vào trò chơi dân gian
Kỹ năng chơi các trò chơi dân gian
25/36
15/36
69,4%
41,6%
3
Trẻ tham gia chơi tích cực vào trò chơi dân 19/36
gian trong các hoạt động
52,7%
4
Thuộc lời các bài ca dao, đồng dao trong các trò 16/36
chơi dân gian.
44,4 %
Từ thực tế trên, là giáo viên chủ nhiệm lớp tôi băn khoăn suy nghĩ, làm thế nào
để tìm ra giải pháp, những cách làm hay để tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ được
tốt, đưa chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ trong nhà trường đạt kết quả
cao và tôi đã sử dụng một số biện pháp và cách làm sau:
3. Các giải pháp, biện pháp tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ 5-6 tuổi:
3.1. Lựa chọn trò chơi dân gian phù hợp với độ tuổi và khả năng nhận thức
của trẻ.
Trò chơi dân gian vô cùng phong phú và đa dạng, nhưng không phải trò chơi
nào cũng phù hợp với trẻ nhỏ. Vì vậy, trước khi lựa chọn các trò chơi dân gian cho
trẻ, tôi phải nghiên cứu và tìm hiểu kĩ xem nội dung của trò chơi đó có phù hợp với
lứa tuổi mầm non và trẻ có thể chơi được những trò chơi đó hay không. Lựa chọn
cho trẻ chơi các trò chơi có luật chơi và cách chơi đơn giản, dễ nhớ, dễ hiểu hoặc
4
trò chơi đó có hơi khó hay đơn điệu thì khi chơi tôi có thể thay đổi hình thức thật
linh hoạt. Chính vì thế trò chơi phải được lựa chọn cho phù hợp với độ tuổi trẻ.
Ví dụ:
- Với trẻ lứa tuổi nhà trẻ và mẫu giáo bé (từ 2 - 4 tuổi) khả năng chú ý chủ
định của trẻ còn kém, nhận thức còn đơn giản, trẻ chỉ có thể chơi những trò chơi
đơn giản giúp trẻ củng cố tư duy, ngôn ngữ và những kỹ năng cần thiết cho trẻ
như trò chơi “Tập tầm vông”, “Kéo cưa lừa xẻ”, “Nu na nu nống”, “Trốn
tìm”, “Chi chi chành chành”, “lộn cầu vồng”
- Với trẻ mẫu giáo nhỡ và mẫu giáo lớn (từ 4-6 tuổi) khả năng chú ý có chủ
định và nhận thức của trẻ đã hơn nhiều so với lứa tuổi trước, trẻ có thể chơi được
những trò chơi dài hơn và khó hơn và trò chơi phải giúp trẻ phát triển tư duy, sự
linh hoạt, sáng tạo, gây được hứng thú và thu hút sự tham gia của trẻ. Vì vậy, tôi
lựa chọn những trò chơi dân gian cho trẻ như “Chơi nhảy lò cò”, “Chơi chuyền”,
“Ô ăn quan”, “Nhảy dây”, “ bịt mắt bắt dê”...
Trẻ chơi trò chơi “Ô ăn quan” trong giờ Chơi ngoài trời
3.2. Chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi, lời đồng dao và địa điểm trước khi tổ chức cho
trẻ chơi:
* Chuẩn bị đồ dùng:
Đồ dùng, đồ chơi của các trò chơi dân gian vô cùng phong phú và đa dạng
mang tính đặc trưng và được thiết kế dựa vào cách chơi và luật chơi của từng trò
chơi. Mỗi trò chơi dân gian có một hoặc nhiều loại đồ dùng, đồ chơi mà thiếu nó thì
trò chơi không thể tiến hành được.
Ví dụ: Trò chơi “Chơi chuyền” đòi hỏi phải có 10 que chuyền và một đồ vật
có dạng khối cầu như quả cam, quả cà…Chính vì vậy, trước khi tổ chức cho trẻ
chơi một trò chơi dân gian nào đó, tôi cần tìm hiểu kĩ lưỡng về luật chơi, cách chơi
5
cũng như việc có hay không có đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trò chơi, để từ đó
chuẩn bị đầy đủ những yếu tố cần thiết cho trò chơi.
* Dạy trẻ học thuộc lời đồng dao trong trò chơi:
Một đặc điểm đặc trưng của trò chơi dân gian là khi chơi trẻ không chỉ đơn
thuần thực hiện các vận động của mình mà vừa chơi vừa hát hoặc đọc lời bài đồng
dao đó. Song không phải bài đồng dao nào cũng có ý nghĩa, cũng hợp với tư duy
hồn nhiên của trẻ và mang đến sự vui tươi, nhí nhảnh, nhộn nhịp trong trò chơi.
Ví dụ: Trò chơi Chi chi chành chành trẻ vừa chơi vừa đọc:
“Chi chi chành chành
Cái đanh thổi lửa
Con ngựa đứt cương
Ba vương ngũ đế
Bắt dế đi tìm
Ù à ù ập”...
Trò chơi chỉ được tổ chức khi trẻ đã thuộc lời đồng dao. Chính vì vậy, tôi
thường cho trẻ làm quen với lời đồng dao của các trò chơi dân gian trước khi
hướng dẫn trẻ chơi vào các thời điểm trong ngày của trẻ như hoạt động chiều, hoạt
động ngoài trời... Khi trẻ đã thuộc lời đồng dao, tôi tổ chức cho trẻ chơi các trò
chơi tương ứng với lời đồng dao đó. Vì thế trẻ chơi rất hứng thú và tích cực tham
gia vào trò chơi.
* Chuẩn bị địa điểm:
Mỗi trò chơi dân gian có một cách chơi và luật chơi khác nhau. Có những trò
chơi vận động mang tính tập thể rất cao thường có số lượng người tham gia chơi
lớn và đòi hỏi địa điểm chơi phải có diện tích rộng như trò chơi “Kéo co”; “Rồng
rắn lên mây”; “ Thả đỉa ba ba”...
Nhưng lại có những trò chơi hay chơi theo nhóm nhỏ như “Chi chi chành
chành”; “Ô ăn quan”;“Chuyền thẻ”; “Ô ăn quan”, “chồng nụ chồng hoa”...
Do đó tôi cần nắm rõ cách chơi, luật chơi, đặc điểm của từng trò chơi để từ
đó lựa chọn địa điểm phù hợp.
Ví dụ:
Với hoạt động chơi ngoài trời nên lựa chọn những trò chơi mang tính vận
động nhằm tận dụng không gian rộng và thoáng để rèn luyện và phát triển thể lực
như trò chơi “Kéo co”; “Bịt mắt bắt dê”; “Rồng rắn lên mây”...
Với hoạt động chơi hoạt động ở các góc tôi lựa chọn những trò chơi nhẹ
nhàng đòi hỏi tư duy của trẻ như “Ô ăn quan”, “Kéo cưa lừa xẻ”, “Chơi chuyền”…
Với hoạt động học và hoạt động chơi, hoạt động theo ý thích chủ yếu diễn ra
trong phòng, nhóm lớp nên tổ chức các trò chơi tỉnh nhằm phát triển nhận thức cho
trẻ như trò chơi “Ô ăn quan”; “Tập tầm vông”, Chơi chuyền”,
Với hoạt động chơi ngoài trời, hoạt động mọi lúc mọi nơi, tôi tận dụng các
mô hình ngoài trời mà nhà trường đã xây dựng để tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi
như “kéo co”, “Ném còn”, “Trồng nụ, trồng hoa”, “bịt mắt bắt dê...” từ đó trẻ được
6
làm quen với những nét văn hóa dân gian và tái hiện lại những trò chơi dân gian
của quê hương.
Góc dân gian của lớp
3.3. Tổ chức các trò chơi phù hợp với tính chất của hoạt động:
Mỗi hoạt động của trẻ đều đạt được một mục đích nhất định, vì thế hoạt động
nào cũng có tính chất riêng của nó. Nếu như hoạt động chung được tổ chức nhằm
cung cấp các kiến thức cho trẻ thì hoạt động ngoài trời lại giúp trẻ được hòa mình
vào thiên nhiên, khám phá các hiện tượng tự nhiên, phát triển thể chất; hay trong
hoạt động góc trẻ lại được mở rộng thêm về kinh nghiệm sống và kỹ năng chơi
theo nhóm. Do đó, giáo viên cần chú ý lựa chọn và tổ chức các trò chơi dân gian
phù hợp với tính chất hoạt động từng chủ đề.
Với hoạt động chơi ngoài trời: Tôi tận dụng không gian thoáng mát để tổ
chức cho trẻ chơi các trò chơi vận động nhằm rèn luyện phát triển thể lực như trò
chơi “Rồng rắn lên mây”, “Bịt mắt bắt dê”, “Nhảy dây”, “Nhảy lò cò”...
Với hoạt động chơi hoạt động ở các góc: Tôi tổ chức những trò chơi theo
nhóm nhỏ trong không gian hẹp như trò chơi “Ô ăn quan”, “Chơi chuyền”, “Kéo
cưa lừa xẻ”...
Với hoạt động học và hoạt động chơi, hoạt động theo ý thích: Tôi lựa chọn
trò chơi tỉnh phát triển nhận thức cho trẻ như trò chơi “chi chi chành chành”, Tập
tầm vông”...
Đặc biệt, khi tích hợp trò chơi dân gian trong hoạt động học, giáo viên cần
lựa chọn trò chơi phù hợp với đặc điểm môn học.
Ví dụ: - Với lĩnh vực thể chất: Tôi lựa chọn các trò chơi vận động nhằm rèn
luyện thân thể khỏe mạnh, hoạt bát và năng động. Nhiều trò chơi đòi hỏi trẻ phải
mạnh mẽ, nhanh tay, nhanh mắt, nhanh miệng. Trẻ phải có sức khỏe mới có thể vui
chơi và ngược lại vui chơi giúp cho trẻ thêm khỏe mạnh và năng động.
Hoặc với trò chơi “Rồng rắn lên mây” khi trẻ hát xong khúc cuối “Xin khúc
đuôi - Tha hồ thầy đuổi”, lập tức trẻ làm “đuôi” (đứng sau cùng) phải chạy thật
nhanh, nếu không sẽ bị “thầy” tóm lấy, sau đó có thể bị thay người khác hoặc lại
phải làm “thầy” để đi đuổi trẻ khác.
7
Trẻ chơi “ Rồng rắn lên mây” trong giờ Chơi,hoạt động theo ý thích.
Trò chơi “Trồng nụ, trồng hoa” có nhiều nấc chơi nho nhỏ, từ bàn một, bàn
hai...đến bàn mười từ một nụ, một hoa...đến tám hoa. Để chơi trò chơi này trẻ phải
vượt qua dần các nấc, hết nấc này mới đi tiếp nấc sau. Như vậy đòi hỏi trẻ phải có
tính kiên trì, cẩn thận, khéo léo mới đi được từ đầu đến cuối trò chơi.
Với trò chơi “Chi chi, chành chành” đòi hỏi trẻ phải có phản ứng nhanh
nhạy, linh hoạt, phối hợp tốt giữa tay, mắt, lời nói, vì đến cuối bài “Ù à, ù ập” mà
trẻ không rút tay ra kịp thì ngón tay sẽ bị giữ lại, như thế là thua.
- Với lĩnh vực phát triển nhận thức khám phá khoa học hoặc làm quen với
toán hay lĩnh vực phát triển ngôn ngữ làm quen với văn học, khi lựa chọn các trò
chơi cần đáp ứng các tiêu chí sau:
+ Nhằm phát triển nhận thức cho trẻ
+ Phát triển ngôn ngữ
+ Rèn luyện trí nhớ, khả năng tư duy
+ Cung cấp kỹ năng hoạt động theo nhóm, kỹ năng sử dụng đồ dùng đồ
chơi...
Ví dụ:
+ Trò chơi "Chuyền thẻ” là một trò chơi dân gian dạy trẻ làm toán cộng hay
trừ, đó là bài tập đếm từ 1-10 của trẻ. Trẻ nhóm các nhóm theo trật tự cao dần lên
và cộng lại trong phạm vi 10: bắt đầu từ bàn một “cái mốt, cái mai, cái trai, cái
hến...” sau đó là nhóm đôi “Đôi tôi, đôi chị...”, nhóm ba “Ba lá đa, ba lá đề...”, và
nhóm cao hơn “Tám quả trám, hai lên chín...” Qua đó giúp trẻ đếm thành thạo
trong phạm vi 10.
+ Trò chơi “Chong chóng” giúp trẻ có thể hiểu được cách sử dụng năng
lượng thiên nhiên trong cuộc sống, hiểu được ý nghĩa của gió, tăng cường kỹ năng
sống về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
- Với lính vực phát triển thẩm mỹ (giáo dục âm nhạc): nên chọn các trò chơi
có giai điệu và lời hát như trò chơi “Tập tầm vông”…
8
Khi lựa chọn trò chơi dân gian cho hoạt động chung cần lựa chọn phù hợp
chủ đề, đề tài bài dạy.
Ví dụ: Với chủ đề “Thế giới động vật” nên lựa chọn trò chơi như “Bịt mắt
bắt dê”, “thả đĩa ba ba”, “Xỉa cá mè”...
Với chủ đề “Thế giới thực vật” nên lựa chọn trò chơi như “Trồng nụ trồng
hoa”,
Với chủ đề “Tết và mùa xuân” nên lựa chọn trò chơi như “Đu quay”, “Ném
còn”, “Múa lân”, “Bịt mắt đánh trống..."
3.4. Động viên trẻ tham gia tích cực trong trò chơi:
Trò chơi dân gian đã được chú trọng và chiếm lĩnh một cách hiệu quả hoạt
động học tập, vui chơi của trẻ ở trường mầm non. Khi chơi trò chơi dân gian trẻ
cảm thấy thoải mái, tự tin, tự nhiên, không đòi hỏi kỹ năng phức tạp, các hành động
minh họa linh hoạt. Một ưu thế của trò chơi dân gian chính là ở chỗ nó có thể dung
nạp tất cả những ai muốn chơi, không quy định số người chơi, càng đông càng tốt.
Vì vậy tôi luôn khuyến khích, động viên trẻ cùng chơi bằng cách trao đổi, bàn bạc
và thăm dò ý kiến trẻ trước, để tạo tính tích cực chủ động của trẻ trong quá trình
chơi, làm cho trò chơi mang tính tập thể cao.
Ví dụ: Trò chơi “Bịt mắt bắt dê”, mỗi khi có một người vào thêm, vòng chỉ
rộng ra một chút nhưng trò chơi không thay đổi.
Hoặc trò chơi “Rồng rắn lên mây” thêm một người thì cái đuôi dài thêm và
tất cả mọi người đều được chơi, được chạy như nhau.
Trong khi chơi, mọi trẻ đều bình đẳng như nhau, nếu trẻ nào ích kỷ, chơi
không đúng luật chơi, chen lấn các bạn sẽ bị tập thể phê phán, từ đó tinh thần tập
thể của các trẻ được nâng cao.
Trò chơi dân gian thường gắn với các bài đồng dao, vì vậy thông qua các trò
chơi dân gian trẻ rèn luyện kỹ năng đọc, thể hiện cảm xúc và cũng đã rèn luyện cho
những trẻ nhút nhát hòa đồng hơn với các bạn trong lớp.
9
Trẻ chơi “nu na nu nống” trong giờ Chơi hoạt động ở các góc
3.5. Tuyên truyền, phối hợp với cha mẹ:
Bên cạnh việc dạy trẻ ở trường, tôi cũng chú trọng đến việc trao đổi với phụ
huynh để cùng phối hợp tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ có kết quả cao nhất.Để tổ
chức lồng ghép trò chơi dân gian vào các hoạt động của trẻ phong phú tôi đã tổ
chức các trò chơi khuyến khích với các bậc phụ huynh cùng tham gia, cổ vủ, động
viên trẻ từ đó giúp phụ huynh hiểu được các cách chơi, luật chơi để tổ chức cho trẻ
chơi .Bên cạnh đó giáo viên luôn chủ động phối hợp với phụ huynh thông qua các
cuộc họp phụ huynh, các hội thi, để tuyên truyền, cùng với phụ huynh tổ chức trò
chơi dân gian cho trẻ ở nhà.
Tuyên truyền các bậc phụ huynh thấy tác hại của việc xem ti vi và điện thoại quá
nhiều mà hảy chú trọng tổ chức những trò chơi dân gian bổ ích cho trẻ ở nhà như
nhảy lò cò, chơi chuyền, nhảy dây….
4.Kết quả:
Sau một năm học tôi thấy trẻ của lớp tôi có những thay đổi rõ rệt, rất hứng
thú tham gia vào các hoạt động, các trò chơi đặc biệt là trò chơi dân gian,giờ đây
các bé đều rất vui vẻ tự tin khi đến lớp, thân thiết nhau hơn, cùng chơi với nhau
những bạn chơi tốt giúp đở những bạn chơi chưa tốt,chưa tích cực. Qua quá trình
thực hiện với những biện pháp và cách làm trên, việc tổ chức các trò chơi dân gian
vào các hoạt động của trẻ ở lớp tôi đạt được những kết quả đáng phấn khởi, cụ thể:
4.1.Đối với trẻ:
- 100% trẻ rất yêu thích và hứng thú tham gia vào các trò chơi dân gian ở lớp.
- 100% trẻ được mở rộng kiến thức và có thêm rất nhiều hiểu biết về các trò chơi
dân gian, các phong tục truyền thống của dân tộc.
10
- Trẻ nhanh nhạy trong các tình huống, trẻ đã biết tự tổ chức những trò chơi dân
gian đơn giản với các bạn trong lớp.
Đặc biệt, thông qua các trò chơi dân gian, nhận thức và thể lực của trẻ được nâng
lên rõ rệt. Trẻ nhanh nhẹn, tự tin hơn khi giao tiếp với mọi người xung quanh.
Trò chơi dân gian đã giúp trẻ trong lớp thêm gắn bó với nhau, nâng cao tinh thần
đoàn kết và ý thức tập thể của lớp.Với những biện pháp trên khi thực hiện tại lớp
tôi đạt được một số kết quả như sau:
STT Nội dung tiêu chí khảo sát
Số trẻ đạt Tỉ lệ %
1
2
Trẻ hứng thú tham gia vào trò chơi dân gian
Kỹ năng chơi các trò chơi dân gian
36/36
31/36
100%
86,1%
3
Trẻ tham gia chơi tích cực vào trò chơi dân 34/36
gian trong các hoạt động
94,4%
4
Thuộc lời các bài ca dao, đồng dao trong các trò 32/36
chơi dân gian.
88,8 %
Nhìn vào các bảng trên ta thấy trẻ có sự khác biệt rõ ràng giữa số liệu đầu
năm và cuối năm trẻ đã có kỷ năng chơi các trò chơi dân gian phù hợp với lứa tuổi,
thuộc lời các bài đồng dao, ca dao khi tham gia vào các trò chơi, chơi tích cực và
hứng thú. Mức độ đạt được cuối năm so với đầu năm cao hơn nhiều. Điều này
chứng tỏ các biện pháp đưa ra có được những kết quả nhất và có thể áp dụng cho
nhiều năm học tiếp theo.
4.2. Đối với giáo viên:
Có thêm nhiều kinh nghiệm trong việc sưu tầm, lựa chọn các trò chơi dân gian
để tổ chức cho trẻ phù hợp.
Giáo viên linh hoạt, sáng tạo hơn trong việc tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ
và có thể lồng ghép các trò chơi đó vào hoạt động khác với nội dung phù hợp.
Đồng thời tạo được sự thân thiện, gần gũi với trẻ vừa là người hướng dẫn vừa là
bạn chơi của trẻ.
Giáo viên đã trở nên năng động, tự tin, linh hoạt hơn khi tổ chức các hoạt
động tập thể.
4.3. Đối với phụ huynh:
Phụ huynh rất phấn khởi và quan tâm hơn về việc tổ chức các trò chơi dân
gian cho trẻ trường cũng như ở nhà. Đồng thời tự nguyện đóng góp nguyên
liệu, phế liệu để cô và cháu cùng chuẩn bị đồ dùng cho các hoạt động.
IV. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1.Kết luận:
Ở lứa tuổi mẫu giáo, vui chơi là hoạt động chủ đạo.Thông qua hoạt động
vui chơi, trẻ phát triển trí tuệ, thể chất, tình cảm quan hệ xã hội, qua đó nhằm phát
triển toàn diện nhân cách cho trẻ.Chính vì vậy, giáo viên cần tổ chức cho trẻ chơi
các trò chơi nói chung và trò chơi dân gian nói riêng nhằm thỏa mãn nhu cầu vui
chơi giải trí và có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành kĩ năng sống cho trẻ.
11
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ 5-6 tuổi trong trường Mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_to_chuc_tro_choi_dan.docx