SKKN Phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, thực trạng và giải pháp
Nguồn nhân lực là một trong những thành tố quan trọng trong tiến trình phát triển của một địa phương, một quốc gia; trong đó cơ cấu nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động là vấn đề then chốt, quyết định đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và đảm bảo an sinh xã hội.
PHÂN LUỒNG HỌC SINH SAU TỐT NGHIỆP THCS TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Trương Minh Vũ - Giám đốc
Nguồn nhân lực là một trong những thành tố quan trọng trong tiến trình
phát triển của một địa phương, một quốc gia; trong đó cơ cấu nguồn nhân lực
phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động là vấn đề then chốt, quyết định đến
năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và đảm bảo an sinh xã hội. Vì vậy, từ
nhiều năm nay việc phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS luôn là vấn đề
được bàn luận, tranh luận được đưa vào nhiều nghị quyết với những giải pháp,
kiến nghị mang tính khoa học cao. Trong những năm qua trên địa bàn tỉnh
Quảng Trị với sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, sự vào cuộc của
các Sở ngành và địa phương, công tác phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS
có dấu hiệu chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, trên thực tế việc phân luồng học
sinh sau tốt nghiệp THCS vẫn còn không ít khó khăn, thách thức, chưa đạt được
mục tiêu, nếu không có những giải pháp đột phá và thực hiện quyết liệt thì có
thể thất bại.
Phân luồng học sinh sau THCS là định hướng phân bổ tỷ lệ học sinh sau
khi tốt nghiệp THCS hướng đi vào các luồng để tiếp tục học tập theo các
chương trình giáo dục khác nhau hoặc tham gia vào thị trường lao động, tùy
thuộc vào năng lực, sở trường, nguyện vọng của bản thân học sinh và điều kiện
thực tế, nhu cầu nhân lực của xã hội.
Phân luồng học sinh sau THCS có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
mỗi cá nhân và toàn xã hội, nó góp phần cung ứng nguồn nhân lực với cơ cấu
phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế, tạo cơ hội được học tập suốt đời cho mọi
người, hướng tơí xây dựng xã hội học tập.
Phân luồng sau THCS nhằm định hướng cho học sinh lựa chọn hướng đi:
1) Phù hợp với năng lực, sở trường, nguyện vọng, hoàn cảnh và đặc điểm
tâm sinh lý của bản thân học sinh, tạo cơ hội cho họ tiếp tục học tập có hiệu quả;
2) Phù hợp với yêu cầu nhân lực của xã hội, của nền kinh tế; góp phần
điều chỉnh cơ cấu trình độ và ngành nghề đào tạo nhân lực, đáp ứng nhu cầu
chuyển dịch cơ cấu nhân lực, phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong bối
cảnh hội nhập quốc tế là một nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới giáo dục qua mọi
thời kỳ;
3) Tạo điều kiện cho người học dễ dàng chuyển đổi giữa các chương trình
giáo dục, học thường xuyên, học suốt đời, góp phần từng bước xây dựng xã hội
học tập. Phân luồng học sinh sau THCS rất có ý nghĩa đối với mỗi cá nhân và
toàn xã hội. Vì vậy, vấn đề này đã được đề cập trong nhiều văn kiện của Đảng,
Nhà nước, được ngành GD&ĐT và toàn xã hội quan tâm.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (khoá VIII) về định hướng chiến lược
phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
nhiệm vụ đến năm 2000 đã xác định GD&ĐT là sự nghiệp của toàn Đảng, của
Nhà nước và của toàn dân; mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt đời;
đa dạng hoá các loại hình GD&ĐT, tạo cơ hội cho mọi người có thể lựa chọn
cách học phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của mình.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã xác định phương hướng, nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 là: “...bảo đảm công bằng về cơ hội
học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt
đời...; hoàn chỉnh và ổn định lâu dài hệ thống giáo dục quốc dân; chú trọng phân
luồng đào tạo sau THCS; bảo đảm liên thông giữa các cấp đào tạo...” . Yêu cầu
về tăng cường phân luồng học sinh sau THCS tiếp tục được đề cập tại Chỉ thị
của Bộ Chính trị số 10-CT/TW về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi,
củng cố kết quả phổ cập giáo dục Tiểu học, THCS và xóa mù chữ cho người
lớn.
Đặc biệt, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 14/11/2013 của Đảng về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã khẳng định mục tiêu: “...Bảo đảm
cho học sinh có trình độ THCS có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu
phân luồng mạnh sau THCS, THPT phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho
giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng....”.
Chủ trương phân luồng mạnh sau THCS đã được cụ thể hóa trong Chiến
lược phát triển giáo dục 2011-2020 và các văn bản pháp quy. Quyết định số
1981/QĐ-TTg ngày 18/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân đã xác định học sinh tốt nghiệp
THCS có thể học tiếp theo một trong các luồng sau: 1) Trung học phổ thông; 2)
Giáo dục nghề nghiệp (trình độ Sơ cấp, Trung cấp, Cao đẳng và các chương
trình đào tạo nghề nghiệp khác); 3) Giáo dục thường xuyên kết hợp với Giáo
dục nghề nghiệp.
Đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong
giáo dục phổ thông giai đoạn 2018-2025” trên địa bàn tỉnh Quảng Trị được cụ
thể hóa trong Kế hoạch 1967/KH-UBND của UBND tỉnh Quảng Trị ngày
08/5/2019 đã xác định mục tiêu đến năm 2020 ít nhất là 15% học sinh tốt nghiệp
THCS tiếp tục học tập tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đào tạo trình độ Sơ
cấp, Trung cấp; đối với huyện Đakrông đạt ít nhất 8%; đến năm 2025, ít nhất
25% học sinh tốt nghiệp THCS tiếp tục học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp
đào tạo trình độ Sơ cấp, Trung cấp; đối với huyện Đakrông đạt ít nhất 15%.
Thực hiện Đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học
sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018-2025” ban hành theo Quyết định
số 522/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/5/2018; Chỉ thị số 24/CT-
TTg ngày 28/5/2020 của Thủ tướng chính phủ về đẩy mạnh nguồn nhân lực có
kỹ năng nghề, góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng năng lực cạnh
tranh quốc gia trong tình hình mới; UBND tinh Quảng Trị đã ban hành Kế
hoạch số 1967/KH-UBND ngày 08/5/2019, Kế hoạch số 3882/KH-UBND ngày
24/8/2020 theo đó các Sở ngành, UBND các huyện, thị xã, thành phố đã ban
hành các kế hoạch, chương trình hành động của ngành, của địa phương một cách
kịp thời, đồng bộ, đặc biệt Hội đồng nhân dân huyện Hải Lăng đã ban hành
chính sách hỗ trợ học sinh sau tốt nghiệp THCS vừa học văn hóa vừa học Trung
cấp nghề (Nghị quyết số 22/NQ-HĐND ngày 16/7/2020); hiện nay Sở Giáo dục
và Đào tạo, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, UBND các huyện, thị xã,
thành phố đã xây dựng Quy chế phối hợp công tác hướng nghiệp và định hướng
phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS.
* Thực trạng giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
Tính đến tháng 3 năm 2021 trên địa bàn tỉnh Quảng Trị có 23 cơ sở giáo
dục nghề nghiệp: Gồm 03 trường Cao đẳng, 02 trường Trung cấp, 09 Trung tâm
GDNN-GDTX, 03 doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề và 06 đơn vị khác, ngoài
ra các Trung tâm GDNN-GDTX Đông Hà, GDNN-GDTX Hải Lăng, GDNN-
GDTX Gio Linh, GDNN-GDTX Vĩnh Linh còn liên kết với trường Trung cấp
số 9 Quảng Bình để đào tạo trình độ Trung cấp nghề cho học sinh GDTX.
Các chương trình đào tạo linh hoạt và liên thông giữa các trình độ, giữa
các ngành nghề, cơ bản đáp ứng được nhu cầu của người học; tuy nhiên sức hấp
dẫn chưa cao dẫn đến công tác tuyển sinh gặp rất nhiều khó khăn; số lượng
tuyển sinh hệ Cao đẳng, Trung cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Trị trong các năm từ
2017 đến nay con số không mấy khả quan, thiếu ổn định, bình quân khoảng 795
học sinh trên năm, riêng năm 2020 chỉ tuyển sinh được 512 học sinh (Cao đẳng:
138 học sinh, Trung cấp 383 học sinh); Kế hoạch số 28/KH-UBND ngày
05/02/2021 của UBND tỉnh giao năm 2021 là 1500 học sinh trong đó đào tạo
Cao đẳng 500 học sinh, Trung cấp 1000 học sinh. Như vậy số lượng tuyển sinh
hằng năm của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp rất nhỏ so với tiềm năng và quy
mô đào tạo dẫn đến gây lãng phí về nguồn lực, cơ sở vật chất hiện có và chỉ tiêu
năm 2021 lớn gấp 2 lần so với số lượng tuyển sinh bình quân các năm trước.
Mặc dù có nhiều chuyển biến tích cực nhưng từ thực tế cho thấy đa số học
sinh tốt nghiệp THCS học tiếp lên THPT, tỷ lệ học sinh vào học trung cấp, cao
đẳng nghề và các Trung tâm GDNN-GDTX còn thấp; còn một tỷ lệ không nhỏ
học sinh tốt nghiệp THCS tham gia thị trường lao động mà không qua đào tạo đã
gây lãng phí nguồn nhân lực và ảnh hưởng đến cơ cấu lực lượng và năng suất
lao động.
Học sinh học tại
các cơ sở GDNN,
các Trung tâm
Học sinh tham gia
thị trường lao
động không qua
đào tạo
Số học sinh
tốt nghiệp
THCS năm
học trước
Học sinh vào lớp
10 THPT
TT
Năm học
GDNN-GDTX
SL
TL
SL
TL
SL
TL
1
2
3
4
5
2016-2017
2017-2018
2018-2019
2019-2020
2020-2021
9502
9422
8480
8401
8856
8911
8877
89,24
89,16
85,26
86,15
87,89
240
303
554
557
478
2,53
3,22
5,33
5,38
4,73
782
718
977
876
730
8,23
7,62
9,41
8,46
7,23
10387
10344
10100
Từ bảng số liệu trên ta thấy, tỷ lệ học sinh sau tốt nghiệp vào “luồng” giáo
dục nghề nghiệp hằng năm có tăng nhưng không đáng kể, và thiếu ổn định; năm
2020, có 478 học sinh sau tốt nghiệp THCS học tại các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp, trong đó 290 học sinh học văn hóa kết hợp với Trung cấp nghề tại các
Trung tâm GDNN-GDTX và 188 học sinh học tại các trường Trung cấp nghề
trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, chiếm tỷ lệ 4,73% so với chỉ tiêu trong Kế hoạch
1967/KH-UBND đến năm 2020 là 15% tương ứng với 1515 học sinh. Tại huyện
Đakrông, năm 2020 số học sinh sau tốt nghiệp THCS tham gia học tại các cơ sở
giáo dục nghề nghiệp là 18 học sinh chiếm tỷ lệ 3,75 học sinh so với chỉ tiêu
trong kế hoạch là 8% tương ứng với 60 học sinh. Như vậy, chỉ tiêu phân luồng
học sinh theo Kế hoạch 1967/KH-UBND đến năm 2020 chưa đạt yêu cầu đề ra.
* Nguyên nhân dẫn đến chỉ tiêu phân luồng chưa đạt theo Kế hoạch
- Tâm lý chạy theo bằng cấp còn nặng nề. Văn hóa “khoa bảng”, “bằng
cấp” đã ăn sâu vào tiềm thức của mọi người dân; mọi phụ huynh học sinh đều
mong muốn con, em mình vào học để có tấm bằng đại học, thậm chí muốn có
bằng cấp cao hơn nữa; ngược lại không muốn con, em mình vào học các trường
thuộc hệ thống GDNN. Văn hóa đó không dễ để một sớm một chiều có thể thay
đổi.
- Còn thiếu các cơ chế phối hợp, thiếu đồng bộ và chưa quyết liệt trong
công tác quản lý nhà nước; công tác phân luồng nói chung và phân luồng học
sinh sau THCS nói riêng là vấn đề hết sức phức tạp, không chỉ là nhiệm vụ của
ngành giáo dục và đào tạo mà là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, không
chỉ là trách nhiệm điều tiết của UBND tỉnh, của các Sở ngành liên quan, mà còn
là nhiệm vụ của các trường phổ thông, của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và
giáo dục đại học, của các doanh nghiệp - đơn vị sử dụng nhân lực và của cả học
sinh, phụ huynh học sinh.
- Việc triển khai chương trình giáo dục hướng nghiệp, phân luồng học
sinh ở các trường THCS còn mang tính hình thức; trong lúc đó các Trung tâm
GDNN-GDTX được giao nhiệm vụ này còn lúng túng về hình thức, nội dung tổ
chức; đội ngũ giáo viên chưa được đào tạo bài bản, thiếu thông tin; hoạt động tư
vấn, phân luồng của các Trung tâm GDNN-GDTX còn thiếu sự ủng hộ, phối
hợp của các trường THCS và các cấp quản lý giáo dục.
- Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp còn hoạt động cầm chừng, chưa đổi mới
về phương thức tuyển sinh, cơ chế chính sách cho người học còn trông chờ vào
nguồn vốn của nhà nước, chưa đa dạng các hình thức và ngành nghề đào tạo để
tạo sức hấp dẫn cho người học.
Công tác quản lý, quản trị nhà trường, chương trình, giáo trình, cơ sở vật
chất, năng lực đội ngũ giáo viên... những kỹ năng mới nảy sinh, đòi hỏi người
lao động cần được đào tạo kịp thời và đáp ứng phù hợp nhu cầu phát triển.
Những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong Cách mạng công nghiệp 4.0 thay đổi rất
nhanh chóng trong khi trang thiết bị dạy nghề tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp
hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu về chương trình đào tạo, đặc biệt chưa
tương thích xu hướng đào tạo của quốc tế.
Trình độ ứng dụng khoa học công nghệ của các giảng viên, học viên tại
các cơ sở giáo dục nghề nghiệp còn nhiều hạn chế, chưa theo kịp xu hướng phát
triển khoa học công nghệ trong bối cảnh mới. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp
chưa gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp; chưa xây dựng các hội đồng kỹ năng
ngành với sự tham gia của doanh nghiệp trong việc hoạch định chính sách vĩ
mô, dự báo lao động, việc làm, xác định các tiêu chuẩn ngành. Đồng thời, doanh
nghiệp chưa tham gia sâu vào việc phát triển chương trình, thực tập, thực hành
trong quá trình đào tạo và đào tạo gắn kết chặt chẽ với tạo việc làm…
- Chất lượng và hiệu quả giáo dục nghề nghiệp thấp, một tỷ lệ không nhỏ
học sinh tốt nghiệp chưa đáp ứng với yêu cầu sử dụng lao động của doanh
nghiệp, chưa tự tạo việc làm dẫn đến thất nghiệp hoặc làm việc không đúng với
ngành nghề đã được đào tạo.
- Cơ hội việc làm và chính sách tiền lương đối với người đã qua đào tạo
còn hạn chế, nhu cầu sử dụng lao động có tay nghề của các doanh nghiệp trên
địa bàn tỉnh Quảng Trị chưa cao.
- Chỉ tiêu tuyển sinh vào lớp 10 các trường THPT công lập hằng năm lớn
vì vậy đa số học sinh sau khi tốt nghiệp THCS đều vào các trường THPT (bình
quân khoảng 87%).
- Ảnh hưởng của chính sách tuyển sinh Đại học; thực tiễn những năm qua,
từ khi Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện đồng thời chính sách thi tuyển sinh Đại
học với điểm sàn chung thấp và xét tuyển Đại học thông qua xét điểm học bạ
THPT thì cơ hội học sinh tốt nghiệp THPT vào Đại học mở rộng hơn, hệ lụy là
học sinh tốt nghiệp THCS, THPT vào hệ thống giáo dục nghề nghiệp thấp.
* Một số giải pháp
1. Nâng cao nhận thức của người dân và toàn xã hội về giáo dục nghề
nghiệp
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cơ
quan quản lý giáo dục các cấp, các cơ sở giáo dục phổ thông, cha mẹ học sinh và
các tầng lớp nhân dân, của xã hội về ý nghĩa, tầm quan trọng của giáo dục nghề
nghiệp đối với phát triển kinh tế, xã hội, phát triển con người; phải thực sự xem
đây là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị chứ không phải chỉ riêng ngành
giáo dục và đào tạo.
Phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị, các cấp ủy Đảng, chính quyền
các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan truyền thông để xã hội nhận
thức đúng về con đường vào Đại học không phải là con đường duy nhất của mỗi
con người; làm cho văn hóa “khoa bảng” văn hóa “bằng cấp” từng bước được
thoát ly dần trong tiềm thức của mọi người dân. Đây là một việc làm rất khó
không dễ để thay đổi ngay mà đòi hỏi phải mất nhiều thời gian và kiên trì thực
hiện đồng bộ các giải pháp phù hợp với sự vào cuộc của các cấp các ngành mà
chủ trì là ngành Giáo dục và Đào tạo.
2. Đổi mới cơ chế, chính sách; tăng cường nguồn lực tài chính, cơ sở
vật chất, thiết bị cho hoạt động tư vấn, phân luồng
Đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong
giáo dục phổ thông giai đoạn 2018-2025” trên địa bàn tỉnh Quảng Trị được cụ
thể hóa trong Kế hoạch 1967/KH-UBND của UBND tỉnh Quảng Trị, theo đó
UBND các huyện, thị xã, thành phố đã ban hành các Kế hoạch để thực hiện; tuy
nhiên để đạt được mục tiêu đề ra thì bên cạnh sự nổ lực của các cơ sở giáo dục
nghề nghiệp, các trường phổ thông thì cơ quan quản lý nhà nước các cấp cần
phải có những cơ chế, chính sách đặc thù cho từng địa phương, đơn vị để hỗ trợ,
tạo điều kiện cho người học, chẳng hạn như chính sách hỗ trợ học phí cho học
sinh vừa học văn hóa GDTX vừa học trung cấp nghề, chính sách vay vốn, tạo
việc làm cho người sau khi học nghề…đảm bảo các điều kiện về cơ sở vật chất,
trang thiết bị như hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin, cở sở dữ liệu, các phần
mềm ứng dụng và các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác tư vấn, phân
luồng.
3. Thực hiện quyết liệt công tác chỉ đạo, phát huy hết vai trò của các
cơ quan quản lý nhà nước
Đổi mới công tác chỉ đạo của các cấp quản lí giáo dục và hoạt động quản
lí giáo dục hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS của các cơ sở giáo dục
và đào tạo; về vai trò tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người
học trong hoạt động giáo dục hướng nghiệp. Tổ chức rà soát, đánh giá việc thực
hiện các thành tố của công tác giáo dục hướng nghiệp và phân luồng học sinh
hiện nay. Kế thừa phát huy những thành tựu của giáo dục hướng nghiệp và công
tác phân luồng học sinh sau trung học trong thời gian qua. Phát triển những nhân
tố mới; tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới, của các địa phương
để đổi mới hình thức, nội dung và phương pháp phù hợp với điều kiện của tỉnh
nhà.
Trên cơ sở quy chế phối hợp giữa Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội và UBND các huyện, thị xã, thành phố, các cơ quan cần
thực hiện đúng nguyên tắc phối hợp; chỉ đạo Phòng giáo dục đào tạo, Trung tâm
GDNN-GDTX, UBND cấp huyện đưa chỉ tiêu công tác phân luồng vào nhiệm
vụ phát triển kinh tế xã hội hằng năm, tăng cường kiểm tra, giám sát và định kỳ
có đánh giá, sơ kết để kịp thời biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân
thực hiện tốt nhiệm vụ đồng thời tìm ra nguyên nhân của những hạn chế tồn tại,
xác định rõ trách nhiệm của mỗi tổ chức, cá nhân để có những giải pháp khắc
phục phù hợp.
4. Đổi mới hoạt động giáo dục nghề nghiệp trong bối cảnh hội nhập
quốc tế
Để thực hiện được mục tiêu đào tạo, đáp ứng được nhu cầu của thị trường
lao động và phát triển con người thì trong thời gian tới các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, tăng cường gắn kết với doanh nghiệp, bởi chỉ có doanh nghiệp
mới định hướng đúng nhất về công nghệ, yêu cầu ngắn hạn và dài hạn đối với
đội ngũ lao động để bảo đảm doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả trong bối cảnh
hội nhập quốc tế.
Hai là, nâng cao chất lượng kỹ năng nghề cho lao động trong bối cảnh
Cách mạng công nghiệp 4.0; đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp
theo hướng mở, linh hoạt, tạo cơ hội tiếp cận đối với mọi người dân, phục vụ
học tập suốt đời.
Ba là, tăng cường tự chủ cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp; chuẩn hóa
các điều kiện bảo đảm chất lượng; tăng cường kết hợp với doanh nghiệp ở tất cả
các cấp độ, mở rộng hợp tác quốc tế để lĩnh hội những kiến thức giáo dục nghề
nghiệp tiên tiến trên thế giới.
Bốn là, từng bước xây dựng giáo dục nghề nghiệp mở trên cơ sở áp dụng
mạnh tiến bộ của công nghệ thông tin trong dạy và học, triển khai đào tạo trực
tuyến, tạo điều kiện thuận lợi để người lao động cập nhật, nâng cao kỹ năng suốt
cuộc đời.
Năm là, sớm hoàn thiện và tổ chức thực hiện khung trình độ quốc gia với
các chuẩn đầu ra được cụ thể hóa cho từng trình độ và từng ngành nghề trên cơ
sở đồng thuận của các cơ quan quản lý, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, các cơ
sở giáo dục đại học, các doanh nghiệp và các hội nghề nghiệp.
* Về chương trình, giáo trình: Xây dựng và triển khai các chương trình
đào tạo liên thông và công nhận văn bằng, chứng chỉ tốt nghiệp các chương trình
đào tạo liên thông của các cơ sở giáo dục và đào tạo. Hiện nay Bộ GD&ĐT và
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp trong lãnh đạo và chỉ đạo các cơ
sở đào tạo hợp tác, xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo liên thông.
Liên thông dọc từ THCS lên Trung cấp, từ Trung cấp lên Cao đẳng hoặc
Đại học; đồng thời, cần xây dựng các chương trình đào tạo liên thông ngang từ
chương trình đào tạo Trung cấp của một lĩnh vực/ ngành đào tạo sang chương
trình đào tạo trình độ Trung cấp của lĩnh vực/ ngành đào tạo khác /hoặt liên
thông chéo lên chương trình đào tạo Cao đẳng, Đại học của lĩnh vực/ ngành đào
tạo khác.
Tuy nhiên, để có thể thực hiện được phân luồng đào tạo theo các chương
trình đào tạo liên thông, đặc biệt là đào tạo liên thông được thực hiện ở các cơ sở
đào tạo khác nhau là vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi phải đảm bảo điều kiện là
các chương trình đào tạo liên thông và văn bằng do các cơ sở đào tạo cấp phải
được các cơ sở đào tạo công nhận lẫn nhau.
Để giải quyết vấn đề này, các Sở GD&ĐT và Sở LĐ-TB&XH cần tham
mưu với các Bộ ngành liên quan ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể; chỉ
đạo các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục Đại học trực tiếp ký kết các thỏa
thuận về phối hợp xây dựng/ công nhận chương trình đào tạo liên thông để đáp
ứng được nhu cầu người học.
Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cần mở rộng hợp tác trong xây dựng giáo
trình, tranh thủ ý kiến của các nhà khoa học, các nghệ nhân và doanh nghiệp để
xây dựng giáo trình giảng dạy đảm bảo khả thi, phù hợp với điều kiện thực tế
của địa phương.
* Về cơ sở vật chất, thiết bị và xây dựng đội ngũ: Các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp cần liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp để tiếp cận các thiết bị và
công nghệ mới, hiện đại; tăng cường giảng viên, giáo viên về thực hành tại các
doanh nghiệp để nâng cao kỹ năng nghề nghiệp. Trong thời đại khoa học công
nghệ phát triển nhanh chóng, các thiết bị luôn được thay đổi, cải tiến hiện đại;
trong lúc đó nguồn lực ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp còn nhiều hạn chế, khó
trang bị kịp thời, nếu không hợp tác với doanh nghiệp thì kỹ năng nghề của học
sinh và cả giáo viên bị lạc hậu, đi sau thời đại dẫn đến sau khi đào tạo khó đáp
ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp và thị trường lao động.
5. Đổi mới công tác quản lý, hình thức và nội dung tư vấn, phân luồng
sau THCS
Tư vấn phân luồng học sinh hiện nay đang được thực hiện ở tất cả các cơ
sở giáo dục phổ thông và các Trung tâm GDNN-GDTX; trong kế hoạch thực
hiện nhiệm vụ các năm học Sở Giáo dục và Đào tạo cũng đã đề cập đến vấn đề
này, tuy nhiên việc tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát, sơ kết tổng kết còn
mang tính hình thức, chưa được chú trọng và quan tâm đúng mức; thậm chí một
số trường phổ thông không phối hợp với các Trung tâm GDNN-GDTX để thực
hiện, còn các Trung tâm thì vẫn còn lúng túng về hình thức tổ chức, nội dung và
phương pháp tư vấn, phân luồng, thiếu đội ngũ báo cáo viên và chưa có ràng
buộc về mặt pháp lý nên chất lượng hiệu quả không cao để khắc phục những hạn
chế yếu kém trên cần tập trung một số giải pháp sau:
Một là, Sở Giáo dục và Đào tạo cần xây dựng chương trình, giáo trình về
tư vấn hướng nghiệp, phân luồng học sinh; mời các chuyên gia tập huấn để nâng
cao năng lực cho đội ngũ giáo viên làm công tác hướng nghiệp.
Hai là, các cơ quan quản lý nhà nước cần ban hành các văn chỉ đạo các cơ
sở giáo dục xây dựng quy chế phối hợp trong việc thực hiện công tác tư vấn,
phân luồng; quy định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị; định kỳ phải có
báo cáo sơ kết đánh giá việc thực hiện.
Ba là, các Trung tâm GDNN-GDTX cần đổi mới hình thức và nội dung
công tác tư vấn tránh rập khuôn, máy móc; hiện nay tại Trung tâm GDNN-
GDTX thành phố Đông Hà đã có những đổi mới đột phá và bước đầu mang lại
hiệu quả thiết thực, cụ thể: Đối với học sinh THPT tư vấn cho đối tượng lớp 12
như trước đây, chúng tôi thấy kém hiệu quả vì hiện nay ngay từ khi vào lớp 10
học sinh đã được tiếp cận về các thông tin tuyển sinh trên các phương tiện thông
tin đại chúng và từ gia đình, các em đã có định hướng từ năm lớp 11, chính vì
vậy thay vì tư vấn cho học sinh lớp 12 chúng tôi chuyển xuống lớp 11, vừa
tuyển sinh học nghề phổ thông, vừa tư vấn hướng nghiệp; mặt khác không
ngừng đổi mới nội dung chương trình, đầu tư thiết bị để hỗ trợ, chia sẽ, kết nối
thông tin, tạo hứng thú cho người học, kích thích sự sáng tạo của giáo viên. Đối
với học sinh THCS bên cạnh việc lồng ghép giáo dục hướng nghiệp vào môn
nghề phổ thông, hằng năm chúng tôi tổ thức ít nhất 01 đợt tư vấn phân cho
trường THCS, với nội dung và hình thức tổ chức rất phong phú và đa dạng, lồng
ghép với giáo dục kỹ năng sống, giá trị sống cho học sinh. Qua 2 năm thực hiện
chúng tôi nhận thấy số lượng và chất lượng tư vấn phân luồng được tăng lên rõ
rệt, có tác dụng lan toả trong học sinh, giáo viên và phụ huynh.
Bốn là, các trường THCS cần đổi mới nội dung, phương thức giáo dục
hướng nghiệp phù hợp với đặc điểm của học sinh và điều kiện của nhà trường
trong tình hình mới. Chương trình, nội dung giáo dục hướng nghiệp trong các
trường THCS là cụ thể hóa mục tiêu giáo dục hướng nghiệp theo yêu cầu phát
triển nhân lực của địa phương, đất nước trong giai đoạn mới và điều kiện của
nhà trường, đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. Lựa chọn những chương trình
giáo dục hướng nghiệp phù hợp với đặc thù chương trình giáo dục phổ thông
năm 2018 và khả năng nhận thức của học sinh là rất quan trọng và cần thiết, tạo
điều kiện cho học sinh tiếp cận với các kiến thức nghề nghiệp một cách đầy đủ,
từ đó có sự đối chiếu, lựa chọn nghề phù hợp. Đổi mới nội dung giáo dục hướng
nghiệp theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ
và định hướng ngành nghề; tăng hoạt động thực hành, trãi nghiệm và vận dụng
kiến thức vào thực tiễn. Tích cực chuẩn bị năng lực ngoại ngữ và tin học theo
hướng chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng của học sinh đáp ứng
nhu cầu nghề nghiệp trong tương lai. Cần cụ thể hóa các yêu cầu về kiến thức,
kỹ năng, thái độ của giáo dục hướng nghiệp phù hợp với từng nhóm đối tượng
học sinh để từ đó quán triệt vào các môn học. Chương trình, nội dung giáo dục
hướng nghiệp cần được thực hiện theo hướng mở, đa dạng hóa, linh hoạt, liên
thông giữa các cấp học, năng lực người dạy và người học, đặc điểm và nhu cầu
địa phương; phù hợp với các phương thức giáo dục hướng nghiệp.
6. Phát triển đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên, nhân viên làm công tác
hướng nghiệp, phân luồng
Đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên, nhân viên là lực lượng nồng cốt triển
khai nhiệm vụ giáo dục hướng nghiệp trong các nhà trường; phát triển cả về số
lượng và chất lượng đội ngũ làm công tác giáo dục hướng nghiệp trong các nhà
trường sẽ là cơ sở quan trọng để tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp, phân
luồng có hiệu quả vì các lý do sau:
Một là, xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lí trường phổ thông có năng
lực làm công tác giáo dục hướng nghiệp và phân luồng học sinh, am hiểu về tình
hình phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu nguồn nhân lực ở địa phương.
Hai là, phát triển đội ngũ giáo viên làm công tác hướng nghiệp đủ về số
lượng, có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn và năng lực sư phạm để
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người học.
Ba là, thu hút một đội ngũ cộng tác viên tư vấn nghề nghiệp với những
thành phần phù hợp tham gia vào các hoạt động giáo dục hướng nghiệp của các
trường phổ thông, trong đó quan tâm đến thành viên đến từ các cơ sở giáo dục
nghề nghiệp, các trường Đại học, các nhà máy, xí nghiệp… đóng trên địa bàn
tỉnh.
Phân luồng học sinh sau THCS là một lĩnh vực rất quan trọng trong công
tác quản lý nhà nước, cần huy động nhiều tổ chức, cá nhân tham gia trong đó
ngành giáo dục và đào tạo đóng vai trò chủ chốt, nhằm tạo nguồn nhân lực có
chất lượng đáp ứng với nhu cầu thị trường lao động, góp phần phát triển kinh tế
xã hội của địa phương, bảo đảm an sinh xã hội và phát triển con người. Để đạt
được mục tiêu đề ra thì ba thành tố cơ bản là xây dựng chính sách, cở sở vật chất
và đội ngũ giáo viên phải đồng bộ và phù hợp từng giai đoạn cụ thể; tuy nhiên
khâu tổ chức thực hiện là quan trọng nhất, quyết định đến việc thành công hay
thất bại của công tác phân luồng học sinh sau THCS; vì vậy, cần phải có những
giải pháp sáng tạo, sát với điều kiện thực tế của từng địa phương, đơn vị; tăng
cường công tác truyền thông để làm thay đổi nhận thức của người dân và toàn xã
hội về giáo dục nghề nghiệp; các ngành, các địa phương cần chia sẽ, kết nối
thông tin để đánh giá đúng thực trạng của thị trường lao động; số lượng, chất
lượng và cơ cấu nguồn nhân lực để làm tốt công tác dự báo trên cơ sở đó điều
chỉnh những chính sách phù hợp với quy luật khách quan theo cơ chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế./.
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_phan_luong_hoc_sinh_sau_tot_nghiep_thcs_tren_dia_ban_ti.pdf