SKKN Một số biện pháp giúp học sinh phòng chống bị xâm hại
Xâm hại trẻ em diễn ra với nhiều hình thức, nhiều mức độ, xuất phát do nhiều nguyên nhân. Vì vậy để bảo vệ trẻ em không bị xâm hại là một trong những vấn đề cần thiết trong xã hội hiện nay. Đây không phải việc làm dành riêng cho những người làm công tác giáo dục hay của những người làm công tác xã hội mà đó là trách nhiệm của cả cộng đồng.
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em.
MỤC LỤC
TRANG
MỤC LỤC....................................................................................................1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI............... ........................................................1
II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............................1
III. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI............................................................... .....2
IV. CÁC GIẢ THIẾT NGHIÊN CỨU.................................................. .....2
V. CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN.............................................2
VI. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN....................................................................6
B. PHẦN NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG ....................................................................................7
II. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ........................................13
1. Trang bị cho các em các kỹ năng sống.................................................13
2. Kết quả nghiên cứu...............................................................................15
3. Hiệu quả áp dụng..................................................................................19
C. PHẦN KẾT LUẬN
I. Ý nghĩa của đề tài ................................................................................22
II. Bài học kinh nghiệm.............................................................................22
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................25
1/25
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em.
SKKN VỀ PHÒNG CHỐNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM
A.PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Có thể nói tình trạng trẻ em bị xâm hại hiện nay đang ở mức báo động cấp thiết,
đang là mối lo ngại, trăn trở của ngành giáo dục, cha mẹ học sinh và toàn xã hội.
Xâm hại trẻ em ở Việt Nam diễn ra không chỉ ở các thành phố lớn mà còn có ở
các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa và xẩy ra với các em học sinh ở mọi lứa
tuổi. Trên các phương tiện thông tin về học sinh bị xâm hại gây hậu quả nghiêm
trọng và bức xúc trong dư luận xã hội.
Xâm hại trẻ em diễn ra với nhiều hình thức, nhiều mức độ, xuất phát do
nhiều nguyên nhân. Vì vậy để bảo vệ trẻ em không bị xâm hại là một trong
những vấn đề cần thiết trong xã hội hiện nay. Đây không phải việc làm dành
riêng cho những người làm công tác giáo dục hay của những người làm công tác
xã hội mà đó là trách nhiệm của cả cộng đồng.
Bản thân là một người làm công tác giáo dục, hàng ngày được chứng kiến sự
ngây thơ, hồn nhiên, trong sáng của tuổi học trò, hàng ngày cắp sách đến trường
để lĩnh hội tri thức, chuẩn bị hành trang bước vào đời. Vậy mà các em có nguy
cơ gặp phải những trường hợp đau lòng như bị xâm hại sẽ làm tổn thương đến
tâm lý của các em. Rất có thể các em sẽ trở thành những đứa trẻ hoàn toàn khác
như: thụ động, thờ ơ, lo sợ, tự kỷ...thậm chí cả cái chết. Đó là điều mà không ai
trong chúng ta mong muốn. Vì vậy, với mong muốn tìm ra những giải pháp tốt
nhất, tối ưu nhất để có thể giúp các em phòng ngừa xâm hại, tôi đã lựa chọn đề
tài: “Một số biện pháp giúp học sinh phòng chống bị xâm hại”, để góp phần
đào tạo một thế hệ trẻ thực sự năng động, tự tin và giàu bản lĩnh để có thể ứng
phó với bất kỳ tình huống nào trong cuộc sống.
II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. MỤC ĐÍCH:
- Đề tài nhằm giúp các em học sinh hiểu rõ mối nguy hiểm của xâm hại, cách bảo
vệ bản thân trước những mối nguy hiểm đó, để không có những vấn đề đáng tiếc
2/25
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em.
- xảy ra, để các em khôn lớn trưởng thành mạnh mẽ, lành mạnh và trở thành
người có ích cho đất nước.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp khảo sát, thống kê
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát qua các con số, số liệu đã thống kê.
- Phương pháp gặp gỡ, trao đổi, xin ý kiến giáo viên hướng dẫn về nhận định
thực trạng, chỉ ra nguyên nhân, hậu quả và đưa ra giải pháp với từng vấn đề cụ
thể.
III. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI:
1. ĐỐI TƯỢNG
- Các em học sinh từ 11 tuổi đến 14 tuổi ( Học sinh từ lớp 6 đến lớp 9 – Khối
THCS)
- GVCN các khối lớp
2. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu ở lứa tuổi học sinh THCS, đồng thời nghiên cứu các giá trị kỹ
năng sống cho học sinh.
- Cụ thể là lớp 7A2 và 6A3, lớp 8A5, 9A1 (180 học sinh).
- Khảo sát, đánh giá, tổng hợp, khái quát dựa trên số liệu thống kê từ 4 khối lớp
về khả năng nhận thức và bảo vệ bản thân của học sinh.
IV. CÁC GIẢ THIẾT NGHIÊN CỨU
Tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhất có thể giúp các em học sinh có những kỹ
năng, biện pháp cần thiết trong việc phòng chống khi kẻ xấu xâm hại.
Góp phần giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ năng động, tự tin, sáng tạo, đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Chúng ta có thể hiểu xâm hại trẻ em nói chung là một vấn đề rất được quan tâm
và đặc biệt hơn cả là vấn đề xâm hại tình dục trẻ em. Theo UNICEF: “ Xâm
3/25
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em.
hại tình dục trẻ em là mọi hành vi lôi kéo trẻ vào các hoạt động liên quan đến
tình dục, mà trẻ không đủ khả năng (Hoặc không hiểu), hoặc không đủ tâm thế
để đưa ra quyết định đối với các hành vi này, hoặc các hành vi đó vi phạm đến
pháp luật hay các giá trị văn hoá sở tại”.
Thực tế hiện nay, tình trạng trẻ bị xâm hại xảy ra ở mọi quốc gia trên thế giới
trong đó có Việt Nam và cả trẻ em gái và trẻ em trai đều có thể là nạn nhân. Vậy
làm thế nào để chúng ta có thể bảo vệ được các em, bảo đảm cho các em có một
cuộc sống an toàn, không có nguy cơ tiềm ẩn bị xâm hại? Đó là một vấn đề cần
được quan tâm, cần được các cấp trong xã hội chung tay giải quyết.
Trẻ em là thế hệ tương lai, là chủ nhân chính xây dựng đất nước.Vì vậy, chúng
ta phải dành cho các em những điều tốt đẹp nhất. Thế nhưng trong thời gian qua
tình hình tội phạm xâm hại trẻ em xảy ra nhiều nơi và luôn tiềm ẩn yếu tố gia
tăng. Tình trạng trẻ em bị xâm hại đang là hồi chuông báo động cho sự suy
thoái, đồi truỵ về đạo đức xã hội, gây bức xúc trong dư luận, gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đã và đang hội nhập với các nước trên thế
giới và từng bước phát triển vươn lên, những mặt tích cực của xã hội được phát
triển mạnh song những mặt trái của xã hội cũng xuất hiện nhiều gây ảnh hưởng
đến sự tồn tại, phát triển của mỗi tập thể, cá nhân trong đó có một bộ phận
không nhỏ là trẻ em. Theo xu thế phát triển của xã hội, một số gia đình bố mẹ
chỉ quan tâm, mải lo đến việc làm kinh tế mà quên mất gia đình là chiếc nôi của
trẻ, quan tâm dạy dỗ trẻ; không những thế còn có những gia đình cha mẹ nghiện
ngập, cờ bạc, rượu chè... ảnh hưởng vô cùng lớn đến tâm hồn trẻ, tới sự hình
thành và phát triển nhân cách của trẻ. Một số gia đình hoàn toàn phó mặc việc
dạy dỗ trẻ cho nhà trường và thầy cô giáo. Bên cạnh đó cũng có những gia đình
có điều kiện kinh tế, quá chiều chuộng con dẫn đến trẻ thiếu sáng tạo, luôn ỷ lại,
phụ thuộc vào người lớnvà mỗi khi gặp các tình huống khó khăn thì không biết
xử lý như thế nào, điều đó càng khó khăn trong việc tự bảo vệ bản thân mình.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
4/25
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em.
Hiện nay, việc giáo dục một số kỹ năng sống cho học sinh là một nội dung
được đông đảo phụ huynh và dư luận đặc biệt quan tâm, bởi đây là một chương
trình giáo dục hết sức cần thiết đối với học sinh và phù hợp với mục tiêu giáo
dục hiện nay, nhằm đào tạo con người với đầy đủ các mặt “Đạo đức, trí tuệ, thể
chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học phổ
thông ” để đáp ứng yêu cầu cầu của xã hội. Vì vậy trong giảng dạy, bên cạnh
việc cung cấp những kiến thức cơ bản của các bộ môn thì việc giáo dục kỹ năng
sống phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi là vô cùng quan trọng.
Lứa tuổi THCS bao gồm những em có độ tuổi từ 11 – 15 tuổi, tương ứng các em
học từ lớp 6 đến lớp 9 trường THCS. Lứa tuổi này còn gọi là lứa tuổi thiếu niên
và nó có một vị trí đặc biệt trong quá trình phát triển của các em.
Tuối thiếu niên có vị trí và ý nghĩa đặc biệt trong quá trình phát triển của cả đời
người, được thể hiện ở những điểm sau:
-
Thứ nhất: đây là thời kỳ quá độ từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành, thời kỳ
trẻ đang ở “ngã ba đường” của sự phát triển. Trong đó có rất nhiều khả năng,
nhiều phương án, nhiều con đường để mỗi trẻ em trở thành một cá nhân. Trong
thời kỳ, nếu sự phát triển được định hướng đúng, được tạo thuận lợi thì em sẽ
trở thành công dân tốt. Ngược lại, nếu không được định hướng đúng, bị tác động
bởi yếu tố tiêu cực thì sẽ xuất hiện hàng loạt các nguy cơ dẫn đến trẻ em bên bờ
của sự phát triển lệch lạc về nhận thức, thái độ, hành vi và nhân cách.
-
Thứ hai: thời kỳ mà tính tích cực xã hội của trẻ em được phát triển mạnh
mẽ, đặc biệt trong việc thiết lập các quan hệ bình đẳng với người lớn và bạn
ngang hàng, trong việc lĩnh hội các chuẩn mực và giá trị xã hội, thiết kế tương
lai của mình và những hành động cá nhân tương ứng.
-
Thứ ba: Trong suốt thời kỳ thiếu niên dều diễn ra sự cấu tạo lại, cải tổ lại,
hình thành các cấu trúc mới về thể chất, sinh lý, về hoạt động, tương tác xã hội
và tâm lý, nhân cách, xuất hiện những yếu tố mới của sự trưởng thành. Từ đó
5/25
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em.
hình thành cơ sở nền tảng và vạch chiều hướng cho sự trưởng thành thực thụ
của cá nhân, tạo nên đặc thù riêng của lứa tuổi.
- Thứ tư: tuổi thiếu niên là giai đoạn khó khăn, phức tạp và đầy mâu thuẫn
trong quá trình phát triển. Ngay các tên gọi của thời kỳ này: thời kỳ “quá độ”,
“tuổi khó khăn”, “tuổi khủng hoảng”… đã nói lên tính phức tạp và quan trọng
của những quá trình phát triển diễn ra trong lứa tuổi thiếu niên. Sự phức tạp thể
hiện qua tính hai mặt của hoàn cảnh phát triển của trẻ. Một mặt có những yếu tố
thúc đẩy phát triển tính cách của người lớn. Mặt khác, hoàn cảnh sống của các
em có những yếu tố kìm hãm sự phát triển tính người lớn: phần lớn thời gian các
em bận rộn, ít có nghĩa vụ khác với gia đình; nhiều bậc phụ huynh quá chăm sóc
trẻ, không để các em phải chăm lo cho việc gia đình…Chính vì vậy, việc rèn một
trong những kỹ năng phòng chống xâm hại đối với trẻ em là một việc làm thực
sự cần thiết và có ý nghĩa trong tình hình hiện nay. Hơn thế nữa đây không phải
là một nhiệm vụ quan trọng mà những người làm công tác giáo dục cần quan
tâm mà đó là vấn đề của toàn xã hội.
Thực tế khó có thể đánh giá hết những ảnh hưởng do việc xâm hại trẻ em
gây ra. Việc trẻ em bị xâm hại đã để lại những vết thương không thể phai mờ
trong gia đình, dòng họ nạn nhân, trong ký ức cộng đồng nơi trẻ bị gây hại mà
nạn nhân cùng sinh sống, để lại hậu quả lâu dài đến sức khoẻ cũng như sự phát
triển toàn diện của trẻ. Việc trẻ bị xâm hại đã để lại những vết thương không
phai mờ trong cuộc đời các em. Đã nhiều năm nay chúng ta coi việc giáo dục trẻ
em là trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội.Công tác bảo vệ trẻ em
cũng cần phải thực hiện như vậy. Việc đấu tranh chống xâm hại trẻ, cần tập
trung vào biện pháp phòng ngừa. Công tác truyền thông cần được làm đồng bộ,
có sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Đối tượng đầu tiên cần phải
tuyên truyền là trẻ em. Các em cần được trang bị đầy đủ kiến thức cần thiết để
bảo vệ mình tránh khỏi các hình thức bị lạm dụng. Để làm được điều này, chính
các bậc cha mẹ, nhà trường và các cơ quan chức năng cũng cần cập nhật kiến
thức về các thủ đoạn, hình thức xâm hại mới.
6/25
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em.
Trên thực tế, nhiều học sinh ở các trường nói chung và học sinh trường THCS
Phương Liệt nói riêng các em còn hạn chế những kỹ năng trong cuộc sống như:
Kỹ năng nhận thức, kỹ năng kiểm soát, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng hợp tác,
kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, kỹ năng chia sẻ thông tin.... Vì vậy mà còn nhiều
học sinh chưa mạnh dạn, thiếu tự tin khi phải ứng phó với những tình huống khó
lường trong cuộc sống. Hơn lúc nào hết, các em cần được quan tâm, giáo dục,
truyền thụ những kiến thức về kỹ năng sống, kỹ năng phòng chống xâm hại ....
Có như vậy mới phần nào hạn chế được tình trạng một số em xa lánh với môi
trường sống thực tế và thiếu sự tương tác giữa con người với con người, kỹ năng
xã hội của các em ngày càng thiếu và yếu. Điều đó sẽ dẫn đến tình trạng học
sinh dễ bị kẻ xấu dụ dỗ và rất có thể sẽ bị xâm hại. Ngoài những kiến thức phổ
thông, các em cần học điều gì để giúp các em hội nhập với xã hội, trở thành
công dân có ích cho cộng đồng. Đây cũng chính là những băn khoăn, trăn trở
được đặt ra đối với mỗi giáo viên- những người làm công tác giáo dục hiện nay.
VI. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN
- Từ ngày 12/9/1016 đến 16/9/2016: Lập đề cương, xây dựng kế hoạch.
- Từ ngày 19/9/2016 đền 8/10/2016: Nghiên cứu và áp dụng.
- Từ ngày 10/1/2017 đến 28/2/2017: Tổng kết và hoàn tất đề tài.
7/25
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em.
B.PHẦN NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG MÂU THUẪN
1. THỰC TRẠNG
Như chúng ta đã biết mục tiêu của giáo dục THCS là:
Giáo dục THCS nhằm giúp học sinh củng cố, phát triển những kết quả của giáo
dục Tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu
về kĩ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học Trung học phổ thông, trung cấp học
nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Mục tiêu tổng quát đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo có những nội
dung mới so với mục tiêu lâu nay đã xác định:
Về mục tiêu đào tạo con người: Vừa đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện, yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả,
đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; vừa đảm bảo phát huy tốt nhất
tiềm năng riêng của mỗi cá nhân. ꢀ
Về mục tiêu hệ thống: Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy
tốt, học tốt, quản lí tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lí, gắn với xây
dựng xã hội học tập; chuẩn hoá, hiện đại hoá, dân chủ hoá, xã hội hoá và hội
nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa và bản sắc dân tộc. Tạo chuyển biến căn bản mạnh mẽ về chất lượng, hiệu
quả, giáo dục đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục
Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
UNESCO đề xướng 4 mục đích học tập: Học để biết, học để làm, học để chung
sống, học để tự khẳng định mình. Trong khi, nhà trường của chúng ta hiện nay
đang nặng về: Học để biết, nghĩa là về cơ bản chỉ đạt được một trong bốn mục
đích của UNESCO.
Các chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh vực này đều khẳng định tình trạng
xâm hại tình dục trẻ em trên thực tế luôn cao hơn nhiều so với các số liệu
thống kê chính thức. Cụ thể như sau:
8/25
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em.
12 số liệu thống kê từ các báo cáo điều tra, nghiên cứu được chị Jayneen
Sanders chia sẻ với mong muốn như một thông tin đánh động tới các bậc cha
mẹ, những người chăm sóc và các giáo viên về vấn đề nhức nhối này. Cuối mỗi
thông tin là nguồn trích dẫn:
1. Khoảng 20% bé gái (1/5) và 8% bé trai (1/12,5) bị xâm hại tình dục trước
tuổi 18. (Pereda và các cộng sự, 2009)
2. 95% những trẻ bị xâm hại tình dục là nạn nhân của một người chúng biết và
tin tưởng. (NAPCAN 2009)
3. Trong số những kẻ xâm hại tình dục trẻ em dưới 6 tuổi, 50% đối tượng là các
thành viên trong gia đình. Những người trong nhà cũng chiếm 23% trong số
những kẻ xâm hại tình dục trẻ em độ tuổi 12-17. (Snyder, 2000).
4. Lứa tuổi dễ bị tổn thương nhất trong các vụ xâm hại tình dục là từ 3-8 tuổi.
Phần lớn các vụ xâm hại tình dục trẻ em bắt đầu xảy ra trong độ tuổi này.
(Browne & Lynch, 1994).
5. Nam giới chiếm 90% trong số các đối tượng gây ra những vụ xâm hại tình
dục, trong khi nữ giới chiếm 3,9%. Ngoài ra còn khoảng 6% đối tượng xâm hại
thuộc về "giới tính không xác định". (McCloskey & Raphael, 2005).
6. Khoảng 40% trẻ em bị những đứa trẻ lớn hơn (hoặc khỏe mạnh hơn) xâm hại
tình dục (Finkelhor, 2012). Cùng với việc lan tràn các hình ảnh khiêu dâm hiện
nay, người ta còn thấy các vụ xâm hại tình dục trẻ em, cụ thể là những vụ việc
mà thủ phạm gây án là những đứa trẻ lớn hơn hoặc là anh/chị em họ của nạn
nhân, cũng xảy ra ngày càng nhiều. 23% trẻ em trong độ tuổi 10-17 đều đã tiếp
xúc với các hình ảnh khiêu dâm ngoài ý muốn. (Jones L. và các cộng sự, 2012).
7. 84% các vụ việc trẻ em dưới 12 tuổi bị xâm hại tình dục xảy ra tại nơi ở.
(Snyder, 2000).
8. Trong số các vụ việc trẻ bị xâm hại tình dục được trình báo với cơ quan chức
năng, có tới 98% các vụ việc lời khai của trẻ em được xác định là sự thật. (Hội
đồng bảo an trẻ em bang bang New South Wales, tổ chức Dympna House trích
dẫn năm 1998).
9/25
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em.
9. 1/3 người lớn sẽ không tin nếu trẻ em nói với họ về việc chúng bị xâm hại
tình dục. (Quỹ trẻ em Úc, 2010).
10. 73% trẻ em bị xâm hại tình dục sẽ không nói với bất cứ ai về sự việc này
trong ít nhất 1 năm. 45% sẽ không nói với ai trong 5 năm. Một số em sẽ không
bao giờ tiết lộ sự thật. (Broman-Fulks và các cộng sự, 2007)
11. Những trẻ em từng bị xâm hại tình dục có nguy cơ tự tự cao hơn 10-13 lần
so với những trẻ em bình thường. (Plunkett A, O’Toole B, Swanston H, Oates
RK, Shrimpton S, Parkinson P 2001).
12. Trẻ em không sống cùng cha mẹ (trẻ em được nhận làm con nuôi) có nguy
cơ bị xâm hại tình dục gấp 10 lần so với những đứa trẻ sống cùng cha mẹ ruột.
Trẻ em sống cùng với cha/mẹ có một bạn tình khác sống chung trong nhà có
nguy cơ bị xâm hại tình dục cao nhất. Nguy cơ này ở chúng cao gấp 20 lần so
với những đứa trẻ sống cùng cha mẹ ruột. (Sedlack và các cộng sự, 2010).
Riêng ở Việt Nam:Theo số liệu thống kê từ Bộ Lao động, Thương binh và Xã
em. Tính trung bình, cứ 8 giờ trôi qua lại có một trẻ em Việt Nam bị xâm hại.
Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng con số này chỉ là những vụ việc được báo
cáo, còn rất nhiều vụ nạn nhân bị chính kẻ xâm hại dọa dẫm hoặc vì lý do nào
đó đã không được thống kê.
Trên thế giới, theo thống kê của Hiệp hội Quốc gia Phòng chống Bạo hành trẻ
em (NSPCC), độ tuổi trung bình của trẻ em bị xâm hại tình dục là 9 tuổi. Cứ 4
bé gái thì có 1 bé bị xâm hại tình dục, 6 bé trai thì có 1 bé bị xâm hại tình dục.
Vấn nạn này có xu hướng gia tăng đối với trẻ em nam. Tại Việt Nam, trước đây
trẻ bị xâm hại thường là 13-18 tuổi thì nay xuất hiện nhiều vụ việc ở lứa tuổi 5-
13.Đáng chú ý, 93% thủ phạm có mối quan hệ quen biết với nạn nhân, trong đó
47% kẻ xâm hại là họ hàng, người trong gia đình nạn nhân.
10/25
Sáng kiến kinh nghiệm về phòng chống xâm hại trẻ em.
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm lại là giáo viên Tổng phụ trách đội TNTP Hồ
Chí Minh, là giáo viên chủ nhiệm lớp, do vậy bản thân tôi có nhiều thời gian và
cơ hội gần gũi với các em thông qua các hoạt động Đội. Chính vì vậy tôi nhận
thấy kỹ năng sống, kỹ năng phòng ngừa xâm hại cho học sinh là vô cùng quan
trọng. Bởi trên thực tế chỉ có một số học sinh có hành vi, thói quen, kỹ năng tốt.
Còn phần lớn các em còn ngại nói, ngại viết, khả năng tự học, tự tìm tòi còn hạn
chế.
Thực tế hàng ngày, hàng giờ trên đất nước ta còn xảy ra biết bao nhiêu hiện
tượng trẻ em bị xâm hại và không ai trong chúng ta có thể khẳng định rằng tất cả
học sinh của chúng ta đều được an toàn. Rất có thể có một tỷ lệ nhỏ các em học
sinh bị xâm hại nhưng các em đều không dám nói với bố mẹ, thầy cô, người
thân, bạn bè... các em đều tự mình giải quyết hoặc chịu đựng từ đó ảnh hưởng
trực tiếp tới sức khoẻ, tinh thần và kết quả học tập của các em. Bởi thủ phạm
xâm hại các em có thể là người thân của gia đình, người quen,hàng xóm thân
thiết, bạn bè của cha mẹ hoặc tin cậy. Và thủ phạm có thể tìm mọi cách để tạo
dựng mối quan hệ thân thiết, gần gũi với trẻ và gia đình các em để tiến hành
hành vi xâm hại trẻ. Có thể nói xâm hại trẻ em là một hành vi vi phạm pháp luật
Việt Nam. Tất cả trẻ em đều có thể có quyền được bảo vệ khỏi mọi hình thức
xâm hại, đặc biệt là xâm hại tình dục.
Trong việc phát hiện, ngăn chặn và giải quyết hành vi bạo lực giới thì giáo
dục nhà trường đóng vai trò chủ đạo, giáo dục gia đình đóng vai trò then chốt và
sự cộng hưởng của xã hội giữ vai trò quan trọng. Phải tăng cường sự phối hợp
giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó, mỗi nhân tố cần làm tốt vai trò và
trách nhiệm của mình, đặc biệt là giáo dục gia đình vì mỗi gia đình là một đơn vị
độc lập trong khi các nhà trường là một tập thể có hệ thống, có chế tài quản lý và
giám sát của cơ quan chức năng, gia đình cũng chính là tế bào của xã hội.
11/25
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp học sinh phòng chống bị xâm hại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
skkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_phong_chong_bi_xam_hai.docx