SKKN Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - Dân ca trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS
Văn học, một môn học chứa đầy những nội dung phong phú, đa dạng về văn hóa, sự sống, tinh thần, tư tưởng cùng tâm hồn của con người trong thế giới từ xưa đến nay. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói “Văn học nghệ thuật là một thứ vũ khí vô song”.
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận.
Văn học, một môn học chứa đầy những nội dung phong phú, đa dạng
về văn hóa, sự sống, tinh thần, tư tưởng cùng tâm hồn của con người trong thế
giới từ xưa đến nay. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói “Văn học
nghệ thuật là một thứ vũ khí vô song”. Văn học là tấm gương phản ánh hiện
thực xã hội, là món ăn tinh thần không thể thiếu của mỗi người. Nó làm cho
tâm hồn ,tư tưởng, tình cảm thêm phong phú, biết nhạy cảm trước cái đẹp, cái
thiện của cuộc đời. Biết loại trừ cái xấu, cái ác trong cuộc sống.
Như chúng ta đã biết, vấn đề dạy tác phẩm văn học theo đặc trưng thể
loại, theo thi pháp học hiện đại cho đến nay vẫn chưa hề cũ. Vì dạy tác phẩm
văn chương theo đặc trưng thể loại, theo thi pháp học hiện đại là một trong
những yêu cầu cần thiết và quan trọng. Nói như Giáo sư Trần Đình Sử thì
“Thi pháp học hiện đại đem lại một lĩnh vực lí thuyết và văn hóa cảm nhận
giúp cho người đọc hiểu văn tinh tế hơn, sâu sắc hơn và có ý thức hơn”. Bởi
lẽ “Thi pháp là khoa học nghiên cứu các hình thức, các dạng thức, các phương
tiện, phương thức tổ chức tác phẩm sáng tác ngôn từ, các kiểu cấu trúc, các
thể loại tác phẩm nhằm nắm bắt các hiện tượng của ngôn từ văn học”
(V.Vinogra dốp). Như thế, nghiên cứu đặc trưng thể loại, nghiên cứu thi pháp
học hiện đại để áp dụng trong quá trình giảng dạy là rất cần thiết. Nó khẳng
định được cách đi đúng hướng trong việc cải tiến, đổi mới phương pháp nội
dung dạy - học Ngữ văn ở THCS theo chương trình SGK mới hiện nay.
Chúng ta biết rằng, SGK Ngữ văn mới hiện nay được biên soạn theo
chương trình tích hợp, lấy các kiểu văn bản làm nơi gắn bó ba phân môn
(Văn - Tiếng Việt - Tập làm văn), vì thế các văn bản được lựa chọn phải vừa
tiêu biểu cho các thể loại ở các thời kì lịch sử văn học, vừa phải đáp ứng tốt
cho việc dạy các kiểu văn bản trong Tiếng Việt và Tập làm văn. Vì vậy SGK
Ngữ văn 7 hiện nay có cấu trúc theo kiểu văn bản, lấy các kiểu văn bản làm
trục đồng quy. Ở chương trình Ngữ văn THCS, các em được học 6 kiểu văn
Page 1/25
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS
bản: Tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh và điều hành. Sáu kiểu
văn bản trên được phân học thành hai vòng (vòng 1: lớp 6 – 7; vòng 2; lớp 8 –
9) theo nguyên tắc đồng tâm có nâng cao. Ở lớp 7 các em học ba kiểu văn
bản: biểu cảm, nghị luận và điều hành. Trong đó học kỳ I chỉ tập trung một
kiểu văn bản là biểu cảm. Chính vì vậy mà SGK Ngữ văn 7 đã đưa những tác
phẩm trữ tình dân gian (cụ thể là ca dao – dân ca) nhằm minh họa cụ thể, sinh
động cho kiểu văn bản biểu cảm giúp các em dễ dàng tiếp nhận (đọc, hiểu,
cảm thụ, bình giá về ca dao – dân ca một thể loại trữ tình dân gian).
2. Cơ sở thực tiễn.
a) Về phía học sinh:
- Chưa thực sự yêu thích ca dao – dân ca.
- Còn nhầm, chưa phân biệt được cao dao – dân ca.
- Cứ thấy thể thơ 6/8 là xếp vào ca dao (cả tục ngữ).
- Chưa có kỹ năng phân tích ca dao, một loại thơ dân gian với những
đặc trưng riêng về thi pháp.
b) Về phía giáo viên:
Chưa nghiên cứu đặc trưng thể loại của ca dao – dân ca. Phương pháp
dạy ca dao – dân ca còn chung chung cũng giống như phương pháp giảng dạy
thơ trữ tình.
II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI:
Trong việc giảng dạy phân môn văn hiện nay không ít giáo viên loay
hoay lúng túng trước tác phẩm nghệ thuật và tài liệu hướng dẫn (hình như
hướng dẫn một đường mà tác phẩm lại gợi cho giáo viên một ấn tượng khác).
Không ít những giờ dạy học tác phẩm văn chương đã diễn ra khá bài bản, giáo
viên đã đi hết một quy trình (theo trình tự các đề mục) mà ta chưa yên tâm
chút nào, hình như có một cái gì đó sâu thẳm lớn lao ở tác phẩm ... do mở
nhầm cửa, người dạy, người học đã chưa đi đến được cái đích cuối cùng.
Nguyên nhân chính là chưa xác định kĩ đặc trưng thể loại, chưa nghiên cứu kĩ
thi pháp học hiện đại của tác phẩm với tính chất nội dung cơ bản của nó,
nghĩa là không “chính danh” và đã không “chính danh” thì việc phân tích
có sắc sảo đến đâu cũng chỉ là võ đoán. Chính vì vậy mà tôi đã chọn đề tài
Page 2/25
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS
này với mục đích là cùng tìm hiểu về đặc trưng của ca dao – dân ca trên cơ
sở của thi pháp học hiện đại. Từ đó để định hướng phương pháp giảng dạy ca
dao – dân ca nhằm cá thể hóa việc học, đưa học sinh trở thành nhân tố cá
nhân tích cực, chủ động, tự giác tham gia vào việc tìm hiểu những văn bản ca
dao – dân ca, khám phá chân lí và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Tôi đã vận dụng chuyên đề “Đổi mới phương pháp dạy học văn” và áp
dụng vào phương pháp giảng dạy ca dao – dân ca trong chương trình Ngữ văn
7 – THCS.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Tìm hiểu bằng cách đọc, nghiên cứu tài liệu về phương pháp giảng
dạy tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại. Các bài viết có tính chất khoa
học và đã thành giáo trình giảng dạy.
2. Tham khảo ý kiến cũng như phương pháp giảng dạy các tác phẩm
thuộc thể loại trữ tình của đồng nghiệp thông qua các buổi học chuyên đề, dự
giờ thăm lớp.
3. Lấy thực nghiệm việc giảng dạy văn học ở trên lớp những bài ca dao
– dân ca đặc biệt là những bài giàu giá trị nghệ thuật và đánh gái kết quả nhận
thức của học sinh, để từ đó tìm hiểu nguyên nhân rút ra hướng rèn luyện học
sinh.
V. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU:
1. Phạm vi nghiên cứu:
Nhằm đi sâu vào một vấn đề và chỉ dừng ở mức độ sáng kiến kinh
nghiệm nên tôi chỉ giới hạn đề tài trong phạm vi nghiên cứu việc dạy học các
văn bản ca dao – dân ca trong chương trình Ngữ văn THCS. Với phạm vi
nghiên cứu hẹp như vậy, tôi hi vọng sẽ thu được nhiều kết quả khả quan, góp
phần thực hiện nhiệm vụ giáo dục của một nhà giáo trong giai đoạn mới.
2. Kế hoạch nghiên cứu:
§Ó lµm tèt viÖc đổi mới phương pháp dạy học văn khi giảng dạy ca dao
dân ca trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS cÇn cã mét qu¸ tr×nh
chuÈn bÞ cña b¶n th©n ng-êi d¹y (vÒ kü n¨ng lµm viÖc víi m¸y tÝnh, s-u tÇm
t- liÖu cã liªn quan, kü n¨ng so¹n gi¸o ¸n ®iÖn tö....)
Page 3/25
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS
KÕ ho¹ch nghiªn cøu ®Ò tµi còng ®-îc x¸c ®Þnh theo mét qu¸ tr×nh tuÇn
tù . B¾t ®Çu tõ sù trang bÞ nh÷ng kiến thức cÇn thiÕt ca dao – dân ca ®Ó cã thÓ
¸p dông kĩ năng tìm hiểu các văn bản ca dao – dân ca cho các em.... vµo nhiÒu
giê d¹y. Råi tõ nh÷ng giê d¹y cô thÓ ®óc rót kinh nghiÖm sao cho qu¸ tr×nh
thùc hiÖn ngµy cµng ®¹t hiÖu qu¶ cao. Nãi c¸ch kh¸c, kÕ ho¹ch nghiªn cøu ®Ò
tµi ®-îc tiÕn hµnh song song víi qu¸ tr×nh gi¶ng d¹y trong thùc tÕ.
\
Page 4/25
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. NHỮNG NỘI DUNG LÍ LUẬN LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐẾN VẤN
ĐỀ NGHIÊN CỨU:
1. Khái niệm ca dao – dân ca.
Theo SGK Ngữ văn 7 tập 1 trang 35 đã nêu khái niệm về ca dao – dân
ca như sau:
- Ca dao – dân ca là tên gọi chung của các thể loại trữ tình dân gian kết
hợp lời và nhạc, diễn tả đời sống nội tâm của con người.
- SGK cũng phân biệt hai khái niệm ca dao và dân ca.
+ Dân ca là những sáng tác dân gian kết hợp lời và nhạc.
+ Ca dao là lời thơ của dân ca.
2. Nhìn chung về các loại ca dao – dân ca.
Lịch sử sinh thành, phát triển của ca dao, dân ca rất lâu dài, phong phú,
phạm vi các hiện tượng ca dao dân ca của cộng đồng người Việt nói riêng
cũng như các dân tộc nói chung rất rộng lớn, đa dạng. Việc phân loại, phân kì
và vùng ca dao – dân ca là biện pháp cần thiết không thể thiếu khi tìm hiểu về
ca dao – dân ca.
Các thể loại văn học dân gian nói chung cũng như các thể loại ca dao –
dân ca nói riêng đều là sản phẩm của lịch sử, gắn bó với đời sống của con
người trong những thời gian nhất định, Do ca dao – dân ca có những đặc điểm
tương đồng và khác biệt với nhau nên việc phân loại ca dao – dân ca cũng có
những điểm chung, riêng tương ứng.
3. Các loại ca dao và dân ca chủ yếu.
a) Dân ca.
(1) Đồng dao
(2) Dân ca lao động
(3) Dân ca nghi lễ
(4) Hát ru
(5) Dân ca trữ tình
(6) Dân ca trong kịch hát dân gian
Page 5/25
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS
b) Ca dao
(1) Ca dao trẻ em
(2) Ca dao lao động
(3) Ca dao nghi lễ phong tục
(4) Ca dao ru con
(5) Ca dao trữ tình
(6) Ca dao trào phúng
Trong nhà trường THCS – THPT chủ yếu học sinh được học phần lời ca (tức
là ca dao) nên đề tài này tôi chủ yếu đề cập đến ca dao.
4. Đặc trưng của ca dao – dân ca.
4.1. Hệ đề tài.
Vì là phần lời của những câu hát dân gian nên ca dao thiên về tình cảm và
biểu hiện lòng người, phản ánh tâm tư, tình cảm, thế giới tâm hồn của con
người. Thực tại khách quan được phản ánh thông qua tâm trạng con người, nó
thể hiện vẻ đẹp trang trọng ngay trong đời thường con người.
4.2. Chức năng.
Là “tấm gương của tâm hồn dân tộc” là “một trong những dòng chính của
thơ ca trữ tình” (F.He ghen).
4.3. Đặc điểm thi pháp.
a) Ngôn ngữ trong ca dao.
Nói đến thi pháp ca dao, trước hết phải nói đến phương tiện chủ yếu của
ca dao, tức là ngôn ngữ. Bởi vì ca dao là phần lời của dân ca, cái yếu tố nhạc
điệu, động tác có vai trò rất quan trọng trong dân ca, còn ở phần lời thơ thì vai
trò chủ yếu thuộc về ngôn ngữ, các yếu tố khác đều trở thành thứ yếu. Chính
vì vậy mà ca dao có khả năng sống độc lập ngoài ca hát (tức là ngoài sự diễn
xướng tổng hợp của dân ca) và trở thành nguồn thơ trữ tình dân gian truyền
thống lâu đời và phong phú nhất của dân tộc.
Ngôn ngữ trong ca dao đậm đà màu sắc địa phương, giản dị, chân thực, hồn
nhiên, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Ví dụ như bài ca
dao:
Page 6/25
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS
“Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông”.
Thân em như chẽn lúa đòng đòng
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai
(Trong đó ni = này; tê = kia: tiếng địa phương miền Trung)
Có nhiều bài ca dao được lan truyền nhanh chóng trở thành tiếng nói riêng
của nhân dân nhiều địa phương khác nhau nhờ sự thay đổi địa danh là chủ
yếu. Ví dụ:
Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Ai vô xứ Huế thì vô ...
b) Thể thơ trong ca dao.
Ca dao là phần lời của dân ca, do đó các thể thơ trong ca dao cũng sinh ra
từ dân ca. Các thể thức trong ca dao cũng được dùng trong các loại văn vần
dân gian khác (như tục ngữ, câu đố, vè ...) . Có thể chia các thể thơ trong ca
dao thành bốn loại chính là:
- Các thể văn
- Thể lục bát
- Thể song thất và song thất lục bát
- Thể hỗn hợp (hợp thể).
Trong SGK Ngữ văn 7 tập I các bài ca dao được đưa vào chủ yếu là thể
lục bát (mỗi câu gồm hai dòng hay hai vế, dòng trên sáu âm tiết, dòng dưới
tám âm tiết nên được gọi là “thượng lục hạ bát”). Đây cũng là thể thơ sở
trường nhất của ca dao. Thể thơ này được phân thành hai loại là lục bát chính
thể (hay chính thức) và lục bát biến thể (hay biến thức). Ở lục bát chính thể,
số âm tiết không thay đổi (6 + 8), vần gieo ở tiếng thứ sáu (thanh bằng), nhịp
thơ phổ biến là nhịp chẵn (2/2/2...), cũng có thể nhịp thay đổi (3/3 và 4/4) . Ở
lục bát biến thể, số tiếng (âm tiết) trong mỗi vế có thể tăng, giảm (thường dài
hơn bình thường).
Ví dụ: Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát
Đứng nên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông
(12 âm tiết)
Page 7/25
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS
c) Kết cấu của ca dao.
* Thể cách của ca dao.
“Phú”, “tỉ”, “hứng” là ba thể cách của ca dao (cách phô diễn ý tình).
- “Phú” ở đây có nghĩa là phô bày, diễn tả một cách trực tiếp, không
qua sự so sánh.
Ví dụ:
Cậu cai nói dấu lông gà
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
- “Tỉ” nghĩa là so sánh (bao gồm cả so sánh trực tiếp - tỉ dụ và so sánh
gián tiếp - ẩn dụ).
Ví dụ:
Thân em như trái bần trôi,
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu ?
- “Hứng” là cảm hứng. Người xưa có câu “Đối cảnh sinh tình”. Những
bài cao dao trước nói đến “cảnh” (bao gồm cả cảnh vật, sự việc) sau mới bộc
lộ “tình” (tình cảm, ý nghĩa, tâm sự) đều được coi là làm theo thể “hứng”.
Ví dụ:
Ngó lên nuộc lạt mái nhà,
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu.
* Phương thức thể hiện.
Những bài ca dao trong SGK Ngữ văn 7 chủ yếu có ba phương thức thể
hiện đơn là:
- Phương thức đối lập (đối thoại), chủ yếu là bộ phận lời ca được sáng
tác và sử dụng trong hát đối đáp nam nữ, bao gồm cả đối thoại hai vế và một
vế.
Ví dụ: Đối thoại hai vế:
Ở đâu năm cửa nàng ơi
Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng ?
Page 8/25
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS
Sông nào bên đục, bên trong ?
Núi nào thắt cổ bồng mà có thanh sinh ?
Đền nào thiêng nhất xứ Thanh
Ở đâu mà lại có thành tiên xây ?
Thành Hà Nội năm cửa nàng ơi
Sông lục đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng
Nước sông Thương bên đục bên trong,
Núi Đức Thánh Tản thắt cổ bồng lại có thánh sinh
Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh
Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây”
- Phương thức trần thuật (hay kể chuyện trữ tình, khác với trần thuật
trong các loại tự sự).
Ví dụ:
Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống uống rượu la đà,
Chim ri ríu rít bò ra lấy phần.
Chào mào thì đánh trống quân
Chim chích cởi trần, vác mõ đi giao”
- Phương thức miêu tả (miêu tả theo cảm hứng trữ tình, khác với miêu
tả khách quan trong các thể loại tự sự).
Ví dụ:
Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Ai vô xứ Huế thì vô ...
- Ngoài ra còn có cả ba phương thức kép là (trần thuật kết hợp với đối
thoại, trần thuật kết hợp với miêu tả; kết hợp cả ba phương thức).
- Do nhu cầu truyền miệng và nhu cầu ứng tác, nhân dân thường sử
dụng những khuân, dạng có sẵn, tạo nên những đơn vị tác phẩm hoặc dị bản
hao hao như nhau.
Page 9/25
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS
Ví dụ: “Thân em như”... (“hạt mưa sa”, “hạt mưa rào”, “tấm lụa
đào”, “trái bần trôi”...)
d) Thời gian và không gian trong ca dao.
* Thời gian:
- Thời gian trong ca dao vừa là thời gian thực tại khách quan vừa là
thời gian của tưởng tượng, hư cấu mang tính chất chủ quan của tác giả.
- Ca dao có rất nhiều câu mở đầu bằng hai tiếng “chiều chiều”, “Chiều
chiều xách giỏ hái rau”, “Chiều chiều ra đứng bờ sông”, “Chiều chiều lại nhớ
chiều chiều”... “Chiều chiều” có nghĩa là chiều nào cũng vậy, sự việc diễn ra
lặp đi lặp lại.
- Ngoài ra thời gian trong ca dao còn sử dụng hàng loạt những trạng
ngữ (hay cụm từ) chỉ thời gian như: “bây giờ”, “tối qua”, “đêm qua”... thì ai
cũng hiểu là người nói đang ở thời điểm hiện tại để nhớ và nhắc lại chuyện
vừa xảy ra chưa lâu. Nhìn chung thời gian trong ca dao trữ tình là thời gian
nghệ thuật mang tính tượng trưng, phiếm chỉ (hay phiếm định). Vì thế nó phù
hợp với nhiều người, ở nhiều địa điểm và thời điểm khác nhau.
* Không gian:
- Không gian trong ca dao cũng vừa là không gian thực tại khách quan,
vừa là không gian trong trí tưởng tượng mang tính chất tượng trưng của tác
giả.
- Khi không gian thuộc về “đối tượng phản ánh, miêu tả thì là không
gian thực tại được tái hiện trong ca dao”. Ví dụ: xứ Huế, xứ Thanh, sông Lục
Đầu, sông Thương ... và những nơi khác trong ca dao, nhất là cao dao về
phong cảnh và sản vật các địa phương.
Ví dụ:
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.
Cũng giống như thời gian, khi không gian được nói đến như một yếu tố
góp phần tạo nên hoàn cảnh, trường hợp để tác giả bộc lộ cảm nghĩ (trực tiếp
hoặc gián tiếp) thì đó là không gian mang tính chất tượng trưng do tác giả
tưởng tượng, hư cấu hoặc tái tạo theo cảm xúc thẩm mỹ của mình. Ví dụ:
Page 10/25
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS
những hình ảnh về không gian, địa điểm mang tính chất tượng trưng, phiếm
chỉ, thường xuyên xuất hiện trong ca dao trữ tình (“cánh đồng”, “thác”,
“ghềnh”, “bờ ao”, “mái nhà”, “ngõ sau”...). Ngay cả những địa điểm có thực
khi vào ca dao trữ tình cũng mang tính chất tượng trưng.
d) Thủ pháp nghệ thuật chủ yếu:
Những bài ca dao được đưa vào SGK Ngữ văn 7 có nhiều thủ pháp nghệ
thuật khác nhau (mang nét đặc trưng của ca dao truyền thống). Ở đây tôi chỉ
đề cập đến những thủ pháp chủ yếu.
- So sánh là thủ pháp nghệ thuật được dùng thường xuyên, phổ biến nhất,
bao gồm so sánh trực tiếp (tỉ dụ), so sánh gián tiếp (ẩn dụ). Tỉ dụ là so sánh
trực tiếp, thường có những từ chỉ quan hệ so sánh: như, như là, như thể ... đặt
giữa hai về (đối tượng và phương tiện so sánh).
Ví dụ:
- Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
- Thân em như chẽn lúa đòng đòng
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.
- Yêu nhau như thể chân tay
Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy.
- Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông.
- Còn ở ẩn dụ (so sánh ngầm) thì không những không có quan hệ từ so
sánh mà đối tượng so sánh cũng được ẩn đi, chỉ còn một vế là phương tiện so
sánh (ở đây đối tượng và phương tiện so sánh hòa nhập làm một). Do vậy mà
hình thức ẩn dụ hàm súc hơn tỉ dụ.
Ví dụ bài ca dao sau là tập hợp bốn hình ảnh ẩn dụ, mỗi hình ảnh ám chỉ
một cảnh ngộ đáng thương của người lao động:
Thương thay thân phận con tằm
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ
Thương thay lũ kiến tí ti,
Page 11/25
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - Dân ca trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
skkn_doi_moi_phuong_phap_day_hoc_cac_tac_pham_ca_dao_dan_ca.doc