SKKN Xây dựng câu hỏi theo hướng phát huy năng lực tự lực của học sinh trong dạy các bài 14, 16- Sinh học 6
Với hệ thống kiến thức có mối liên hệ chặt chẽ như vậy giáo viên có thể xây dựng được hệ thống câu hỏi một cách đa dạng, phù hợp với trình độ nhận thức của nhiều đối tượng học sinh. Vì vậy để nâng cao chất lượng dạy học thì biện pháp xây dựng câu hỏi là rất phù hợp và có tiềm năng lớn, có tính khả thi cao.
MỤC LỤC
MỤC
NỘI DUNG
TRANG
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN
2
2
4
I
Cơ sở lí luận.
II
Phương pháp tiếp cận tạo ra sáng kiến
III
Mục tiêu
4
5
CHƯƠNG II: MÔ TẢ SÁNG KIẾN
I
1
2
Nêu vấn đề của sang kiến kinh nghiệm
Phân tích đánh giá thực trạng vấn đề
Tồn tại, hạn chế
5
5
5
3
4
Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế.
Phân tích và chỉ ra tính cấp thiết cần tạo ra sáng kiến
Giải pháp để thực hiện sang kiến kinh nghiệm
Thực trạng của vấn đề
6
6
II
1
6
6
2
Các biện pháp thực hiện để xây dựng câu hỏi
11
3
Xác định hiệu quả của những câu hỏi đề xuất
Khả năng áp dụng, nhân rộng
15
16
III
IV
Giải pháp tổ chức thực hiện
17
CHƯƠNG III : KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
18
18
18
I
Kết luận
II
Ý kiến đề xuất kiến nghị
-1-
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Bộ môn sinh học ở trường trung học cơ sở có vai trò rất quan trọng, nó cung
cấp cho người học những kiến thức cơ bản về sinh vật và môi trường. Trên cơ sở
đó giáo dục, khơi dậy những tình cảm, tư tưởng, đạo đức làm chuẩn mực cho
mọi hành vi trong cuộc sống, góp phần phát triển toàn diện nhân cách học sinh.
Trong quá trình dạy học môn sinh học tại trung học cơ sở Lang Sơn bản thân
tôi đã cố gắng đi sâu vào tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của
quá trình dạy và học để từ đó có biện pháp khắc phục cũng như tìm tòi, vận
dụng nhiều biện pháp khác nhau vào việc hướng dẫn học sinh khám phá những
tri thức mới. Từ đó nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn sinh học. Ở trường trung
học cơ sở Lang Sơn, đa số học sinh còn e ngại và chưa có nhiều sự say mê về bộ
môn sinh học, cho nên việc ghi nhớ các kiến thức về môn sinh học còn nhiều
hạn chế. Thực tế đó đặt ra một vấn đề là người giáo viên phải làm sao giúp học
sinh có hứng thú, hiểu, nhớ các nội dung của bài học và biết vận dụng vào thực
tiễn.
Trong quá trình dạy học môn sinh học lớp 6 tôi thấy một vấn đề đặt ra là
trong quá trình học tập, đa số học sinh còn thụ động, mà yêu cầu mới đòi hỏi các
em phải là chủ thể của hoạt động học, nên giáo viên cần hướng cho các em hoạt
động nhiều hơn việc dạy học “nêu vấn đề” hết sức quan trọng. Gây hứng thú
cũng là một biện pháp quan trọng trong việc dạy và học môn sinh học hiện nay
vì biện pháp này nó thể hiện trên các mặt tư tưởng tình cảm, nhận thức và hành
động trong các hoạt động dạy và học song sự hứng thú trong nhận thức không
phải là sự ngẫu hứng, tuỳ thích mà là sự định hướng có lựa chọn, nhằm mục
đích nắm vững kiến thức học tập một cách sâu sắc và toàn diện đồng thời giúp
người học biết vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống.
Với việc nghiên cứu sáng kiến này, tôi mong muốn sẽ góp phần vào giúp
giáo viên tiến hành một giờ dạy học hiệu quả tốt hơn, học sinh tích cực, chủ
động trong việc tiếp thu lĩnh hội kiến thức bài học nhiều hơn và đây cũng là lí do
tôi chọn chuyên đề này.
Trong tình hình xã hội hiện nay, với sự bùng nổ của thông tin; khoa học
phát triển như vũ bão đã tác động mạnh mẽ và làm thay đổi lớn đến các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Trước yêu cầu đổi mới của thời đại, đòi hỏi phải đổi mới
mục tiêu, phương pháp dạy học để giải quyết vấn đề cấp bách đặt ra. Việc cải
tiến và đổi mới phương pháp dạy học luôn luôn được Đảng và nhà nước ta hết
sức quan tâm. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị
lần thứ VIII Ban chấp hành Trung ương khóa XI đó là : “ Đổi mới căn bản, toàn
diện Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”
Như vậy đổi mới phương pháp dạy học không chỉ đơn thuần là dạy những
vấn đề gì mà còn phải dạy như thế nào. Phải dạy cho học sinh phương pháp tự
-2-
học, phát huy cao độ năng lực tự học của học sinh đáp ứng được mục tiêu giáo
dục đề ra.
Vì vậy đổi mới phương pháp dạy học theo hướng đề cao vai trò chủ thể
hoạt động của học sinh trong học tập là một vấn đề cấp thiết hoàn toàn phù hợp
với xu thế phát triển của thời đại.
Để hình thành kiến thức, kỹ năng, thái độ và phát huy năng lực tự lực tích
cực của học sinh có nhiều phương pháp dạy học khác nhau và có nhiều biện
pháp thực hiện. Một trong những biện pháp có hiệu quả là giáo viên xây dựng hệ
thống câu hỏi theo hướng phát huy năng lực tự lực của học sinh. Khi soạn giáo
án việc xây dựng câu hỏi được giáo viên thường xuyên tiến hành và tiến hành ở
hầu hết các chương các bài với nhiều môn học khác nhau.
Việc xây dựng câu hỏi trong mỗi nội dung là công cụ đắc lực, là phương
tiện sư phạm hữu hiệu thúc đẩy hoạt động nhận thức của học sinh, xây dựng câu
hỏi tốt, tạo điều kiện tốt để bài dạy thành công. Việc thường xuyên xây dựng và
sử dụng câu hỏi sẽ đưa học sinh vào những tình huống có vấn đề cần giải quyết,
mà muốn giải quyết được những vấn đề đó học sinh phải tích cực vận động linh
hoạt, sáng tạo những kiến thức đã có để trả lời.
Vì vậy tăng cường xây dựng câu hỏi là việc làm cần thiết và cấp bách đối
với mỗi giáo viên hiện nay.
Nội dung chương trình sinh học 6 nói chung. Đặc biệt là các bài 14, 16
được trình bày theo cách tạo thuận lợi cho việc đổi mới phương pháp dạy học
tăng cường hoạt động tích cực của học sinh, cấu trúc bài rất chặt chẽ vừa đảm
bảo tính hệ thống, vừa mang tính kế thừa, phù hợp với trình độ nhận thức của
học sinh.
Với hệ thống kiến thức có mối liên hệ chặt chẽ như vậy giáo viên có thể
xây dựng được hệ thống câu hỏi một cách đa dạng, phù hợp với trình độ nhận
thức của nhiều đối tượng học sinh. Vì vậy để nâng cao chất lượng dạy học thì
biện pháp xây dựng câu hỏi là rất phù hợp và có tiềm năng lớn, có tính khả thi
cao.
Từ thực tiễn giảng dạy kết hợp với dự giờ của đồng nghiệp tôi nhận thấy
hiện nay giáo viên đã và đang đổi mới phương pháp dạy học thể hiện ở cả khâu
soạn bài và lên lớp.
Tuy vậy muốn đổi mới phương pháp thì cần có những biện pháp cụ thể thì
giáo viên còn lúng túng đặc biệt là biện pháp xây dựng câu hỏi giáo viên thường
sử dụng những câu hỏi có sẵn, nhiều khi chưa sát với đối tượng học sinh, không
kích thích phát huy được năng lực tự lực sáng tạo của học sinh, chưa định hướng
vào giải quyết các vấn đề hay, khó mới làm cho học sinh thụ động trong việc
lĩnh hội kiến thức.
Từ thực tế đó với mong muốn nhỏ bé và việc tìm tòi các biện pháp thích
hợp nhằm phát huy tính tích cực, năng lực tự lực, sáng tạo của học sinh là lí do
tôi chọn Sáng kiến kinh nghiệm "Xây dựng câu hỏi theo hướng phát huy năng
-3-
lực tự lực của học sinh trong dạy các bài 14, 16- Sinh học 6" Với việc nghiên
cứu chuyên đề này, tôi mong muốn sẽ góp phần vào giúp giáo viên tiến hành
một giờ dạy học hiệu quả tốt hơn, học sinh tích cực, chủ động trong việc tiếp
thu lĩnh hội kiến thức của bài học.
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN TẠO RA SÁNG KIẾN
Trong việc thực hiện nghiên cứu một vấn đề sáng kiến, chúng ta cần thực
hiện nhiều phương pháp, trong sáng kiến này tôi cũng sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu như: Tìm hiểu các thông tin, tài liệu, điều tra thực tế, thống kê,
phân tích, đánh giá, phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phương pháp thực
nghiệm sư phạm trên đối tượng học sinh lớp 6 trường trung học cơ sở Lang Sơn.
Những phương pháp tiếp cận này đã giúp tôi hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm
"Xây dựng câu hỏi theo hướng phát huy năng lực tự lực của học sinh trong
dạy các bài 14, 16- Sinh học 6".
III. MỤC TUÊU
Tên sáng kiến kinh nghiệm đã nói rõ phần nào về đối tượng, phạm vi
nghiên cứu của sáng kiến. Trình bày những vấn đề về vai trò của giáo viên trong
dạy học môn sinh học để nâng cao chất lượng của bộ môn và những biện pháp
giúp bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu thích bộ môn sinh học trong chương trình
trung học cơ sở.
Đồng thời người giáo viên phải xác định được đối tượng người học và tìm
hiểu cũng như nắm bắt, phân tích được thực trạng để từ đó có những cách thức,
biện pháp trong đổi mới phương pháp dạy học, tránh nhàm chán trong tiết học,
tạo hứng thú học tập bộ môn.
Ngoài ra sáng kiến còn đề cập một số cách thức và biện pháp bồi dưỡng
phát triển kĩ năng tự học và từ đó dễ dàng ghi nhớ kiến thức của bộ môn sinh
học.
Từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn sinh học ở nơi tôi
đang công tác ở đó là trường trung học cơ sở Lang Sơn.
Khi chọn hướng nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm "Xây dựng câu hỏi
theo hướng phát huy năng lực tự lực của học sinh trong dạy các bài 14, 16-
Sinh học 6" với mục đích giúp học sinh nhớ, hiểu nội dung bài học. Qua đó yêu
thích môn học để từ đó phát huy hơn nữa vai trò trung tâm của học sinh. Đồng
thời giúp các em rèn luyện khả năng phân tích, tổng hợp, đánh giá một kiến thức
bộ môn sinh học.
Ngoài ra với mục đích để trao đổi với đồng nghiệp để cùng nhau tìm tòi,
xây dựng cho câu hỏi ngày càng hoàn thiện hơn trong quá trình áp dụng sáng
kiến này.
-4-
CHƯƠNG II : MÔ TẢ SÁNG KIẾN
I. NÊU VẤN ĐỀ CỦA SÁNG KIẾN.
1. Phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề
Bộ môn sinh học ở trường phổ thông với nhiệm vụ cung cấp một khối
lượng kiến thức tương đối phong phú cần đặt ra yêu cầu cao mới thực hiện được
nhiệm vụ đó, mặt khác do đặc trưng của bộ môn sinh học nó gây ra nhiều khó
khăn cho quá trình nhận thức của các em học sinh.
Đa số học sinh có cố gắng trong quá trình tiếp thu bài giảng cũng như hình
thành và rèn luyện kĩ năng của mình.
Một số học sinh có khả năng tiếp thu nhanh kiến thức đồng thời các em có
ý thức tốt việc học bộ môn sinh học.
Chất lượng dạy học môn sinh học hiện nay đặt ra vấn đề cần suy nghĩ. Số
lượng học sinh say mê yêu thích môn sinh học còn ít.
Có nhiều phụ huynh và học sinh coi môn sinh học là một môn học “phụ”.
Nhận thức của các em học sinh về bộ môn, các em không nhớ hoặc nhớ không
chính xác về các đặc điểm cấu tạo và hình thái.
2. Các tồn tại, hạn chế
Việc học sinh chưa tích cực học môn sinh học nói trên là đúng nhưng
không phải do bản thân bộ môn sinh học gây ra mà chính là do quan niệm và
phương pháp dạy học của chúng ta chưa đáp ứng được nhu cầu của người học
hay nói cách khác là giáo viên chưa gây được hứng thú học tập trong giờ học bộ
môn sinh học.
Mặc dù đa số giáo viên đều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy
và học bộ môn sinh học, song khi lên lớp hầu hết giáo viên giảng bài các kiến
thức bài giảng đều trùng khớp với sách giáo khoa không có sự cải tiến về
phương pháp dạy học.
Cách dạy đôi khi nêu kiến thức của bài học nên học sinh không tập trung
trong việc học tập.
Trong khi đó một số thầy cô giáo khi lên lớp ở các giờ học vẫn còn lúng
túng trong việc truyền thụ kiến thức cơ bản cho học sinh.
Lý do khác nữa dẫn đến học sinh không ham thích học tập bộ môn sinh học
là do chúng ta còn thiếu nhiều phòng thực hành, phòng chức năng đồng thời còn
hạn chế trong kinh nghiệm dạy học, trong sử dụng phương pháp dạy học đặc thù
của bộ môn nên từ đó chưa gây cho học sinh hứng thú thực sự để nâng cao chất
lượng bộ môn, trong khi nhà trường hiện nay vẫn còn thiếu nhiều phương tiện
dạy học cụ thể như: băng đĩa Video, mô hình tranh ảnh tư liệu về bộ môn sinh
học đặc biệt là phòng thực hành bộ môn sinh học.
-5-
Nhìn chung cơ sở vật chất của nhà trường còn nhiều hạn chế nên đã một
phần nào đó ảnh hưởng đến hiêu quả dạy học của các môn học nói chung và
môn sinh học nói riêng.
Kết quả học tập bộ môn ở nhiều em còn thấp do học sinh chưa biết cách
học tập bộ môn, khả năng tự học còn yếu.
Học chủ yếu mang tính trả bài đối phó.
Học sinh còn ngại học các môn thuộc lòng, chưa thực sự chăm chỉ chưa
phát huy hết năng lực của người học, chưa có phương pháp tự học có hiệu quả.
3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế:
Về phía giáo viên, trước đây khi dạy tôi chủ yếu giúp học sinh hiểu được
nội dung trong sách giáo khoa. Coi nhẹ việc hệ thống kiến thức cho các em.
Khi phát huy vai trò của học sinh trong dạy học chủ yếu là qua hệ thống
câu hỏi, thảo luận nhóm, hỏi đáp, trao đổi.
Nhưng chỉ vậy thì tính độc lập với giáo viên của các em vẫn chưa cao, chưa
phát huy được khả năng phản biện của người học.
Về phía học sinh, vốn kiến thức còn hạn chế, nên đã ảnh hưởng đến khả
năng hiểu khái niệm hình thái cấu tạo cảu các cơ quan.
Có nhiều nguyên nhân, song tôi chỉ trình bày một cách ngắn gọn một số
nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến tình trạng đó.
Thứ nhất, trong nhận thức chung, chúng ta còn xem nhẹ môn học môn
sinh học, coi môn sinh học là “môn phụ”. Cho nên học sinh chưa thật sự ý thức
trong việc học tập bộ môn sinh học này.
Thứ hai, chương trình học và việc giảng dạy bộ môn sinh học còn nhiều
vấn đề tồn tại: chúng ta thấy rằng từ sau đổi mới chương trình và sách giáo khoa
thì “dung lượng” kiến thức nhiều mà “thời lượng” thì quá ít từ đó dẫn đến
phương pháp giảng dạy thiên về đọc chép, mà ít chú ý đến rèn luyện phát triển
khả năng tư duy thực hành của học sinh.
Thứ ba, nhiều giáo viên bộ môn sinh học năng lực chuyên môn còn hạn
chế.
4. Phân tích, đánh giá và chỉ ra tính cấp thiết cần tạo ra sáng kiến.
Đứng trước thực trạng như vậy, bản thân tôi thấy cần phải có những
phương pháp giúp học sinh nâng cao khả năng tích cực học tập bộ môn từ đó
bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu mến môn học. Đồng thời nâng cao chất lượng
dạy và học bộ môn sinh học ở trường trung học cơ sở hiện nay.
II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN SÁNG KIẾN
1. Thực trạng của vấn đề
1.1. Khái niệm về câu hỏi
-6-
Khái niệm về câu hỏi đã xuất hiện từ thời triết học cổ Hy Lạp, Arixtot là
người đầu tiên đã phân tích câu hỏi dưới góc độ logic ông cho rằng đặc trưng
của câu hỏi là buộc người bị hỏi phải lựa chọn cách hiểu này hay cách hiểu khác
(câu hỏi lựa chọn).
Nghiên cứu của Arixtot được cụ thể hoá theo công thức sau:
Câu hỏi = cái đã biết + cái chưa biết (cần tìm)
Câu hỏi thuộc phạm trù khả năng chứa đựng cả hai yếu tố: sự có mặt của cái
không rõ và nguyện vọng nhu cầu của người muốn hỏi.
Câu hỏi là một dạng cấu trúc ngôn ngữ, diễn đạt một yêu cầu, một đòi hỏi,
một mệnh đề diễn đạt bằng ngôn từ nhằm yêu cầu giải quyết.
Tuy có nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm câu hỏi nhưng đều có
điểm chung làm thành đặc trưng của câu hỏi: Sự xuất hiện cái không rõ và một
yêu cầu phải giải quyết.
Sự tương quan giữa cái đã biết và chưa biết thúc đẩy việc mở rộng hiểu
biết của con người. Để hiểu biết thêm về vấn đề nào đó con người phải xác định
rõ cái mình đã biết và cái mình chưa biết từ đó mới đặt câu hỏi: cái gì ? như thế
nào ? vì sao? lúc này câu hỏi thực sự trở thành nhiệm vụ của quá trình nhận
thức. Câu hỏi chịu ảnh hưởng của động cơ, nhu cầu hiểu biết của con người
ngày càng lớn thì việc đặt ra câu hỏi ngày càng nhiều. Vì vậy trong câu hỏi luôn
chứa đựng động cơ, nhu cầu của con người muốn hỏi. Trong dạy học việc xác
định những điều đã biết, chưa biết hoặc còn đang nghi ngờ để đặt ra những câu
hỏi phù hợp là điều không thể thiếu.
1.2. Vai trò của câu hỏi
Câu hỏi là phương tiện dùng trong dạy và học, là nguồn để hình thành
kiến thức, kỹ năng cho học sinh.
Khi tìm được câu trả lời là người học đã tìm ra được kiến thức mới, rèn
được kỹ năng xác định mối quan hệ, đồng thời sử dụng được những điều kiện đã
cho, như vậy là vừa củng cố kiến thức, vừa nắm vững và mở rộng kiến thức.
Câu hỏi là phương tiện để rèn luyện và phát triển tư duy.
Khi trả lời câu hỏi học sinh phải phân tích xác định mối quan hệ, so sánh,
đối chiếu những điều đã cho và những điều cần tìm đòi hỏi phải suy nghĩ logic.
Người học phải luôn luôn suy nghĩ do đó tư duy được sự phát triển cũng
qua việc tìm câu trả lời mà lôi cuốn thu hút người học vào nhiệm vụ nhận thức
do đó người học luôn cố gắng.
Câu hỏi phát huy năng lực tự lực nếu được giáo viên sử dụng thành công
còn có tác dụng gây được hứng thú nhận thức khát vọng tìm tòi dựa trên năng
lực tự lực cho học sinh.
-7-
Cho phép giáo viên thu được thông tin ngược về chất lượng lĩnh hội kiến
thức của học sinh. (không chỉ là chất lượng kiến thức mà cả về chất lượng tư
duy).
Những thông tin này giúp giáo viên điều chỉnh quá trình dạy học một cách
linh hoạt.
Câu hỏi phát huy năng lực tự lực được sử dụng phổ biến thích hợp cho
hầu hết các bài và thường được sử dụng phối hợp với các phương pháp dạy học
khác góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
1.3. Các loại câu hỏi
Câu hỏi vô cùng đa dạng, trong dạy học câu hỏi được sử dụng trong nhiều
trường hợp.
Tuy nhiên trong dạy học không phải với nội dung nào của bài học đều có
sẵn những câu hỏi phù hợp với mọi đối tượng học sinh.
Vì vậy trong những trường hợp khác nhau giáo viên phải tự xây dựng câu
hỏi để hướng dẫn học sinh tự nghiên cứu để phát hiện kiến thức. Khi lựa chọn và
xây dựng câu hỏi giáo viên phải nắm vững các dạng câu hỏi.
Câu hỏi chỉ phát huy được tác dụng dạy học khi ta sử dụng câu hỏi phù
hợp với mục tiêu bài học đồng thời vừa sức đối với học sinh.
Có những câu hỏi sau:
1.3.1. Câu hỏi để kiểm tra kết quả thực hiện mục tiêu bài học, bao gồm có
những loại sau:
Câu hỏi để kiểm tra sự ghi nhớ kiến thức đã học.
Câu hỏi để kiểm tra sự nắm vững bản chất của kiến thức (nghĩa là nêu lại,
giải thích nội dung kiến thức đã hội đỉnh).
Câu hỏi kiểm tra vận dụng kiến thức vào giải quyết một nhiệm vụ nhận
thức mới.
Câu hỏi để kiểm tra sự nắm vững nội dung của kiến thức nghĩa là xác
định được vai trò, ý nghĩa của kiến thức trong lí luận và thực tiễn.
Câu hỏi để kiểm tra thái độ, hành vi sau khi học tập bao gồm một chủ đề
nào đó.
1.3.2. Câu hỏi để hình thành, phát triển năng lực nhận thức bao gồm
nhưng loại câu hỏi sau:
Câu hỏi rèn kĩ năng quan sát.
Câu hỏi rèn kĩ năng phân tích.
Câu hỏi rèn kĩ năng tổng hợp.
Câu hỏi rèn kĩ năng so sánh.
-8-
1.3.3. Dựa vào các giai đoạn của quá trình dạy học để sử dụng câu hỏi bao
gồm các vấn đề sau:
Câu hỏi hình thành kiến thức mới: là câu hỏi phải có vấn đề yêu cầu hoạt
động tư duy, hệ thống câu hỏi phải có tính logic và nhất định hình thành kiến
thức mới.
Câu hỏi củng cố hình thành kiến thức mới: Câu hỏi này thường có tính
khái quát hướng vào vấn đề trọng tâm có tính chất khắc sâu, hệ thống hóa kiến
thức.
Câu hỏi kiểm tra đánh giá: loại câu hỏi nay phải có tính tổng hợp và tập
trung vào kiến thức trọng tâm.
1.3.4. Dựa vào mối quan hệ của câu hỏi, bài tập cần xác định người ta
chia ra:
Câu hỏi định tính.
Câu hỏi định lượng.
1.3.5. Dựa vào cách trình bày, trả lời người ta chia ra:
Câu hỏi tự luận: loại câu hỏi này thường hỏi theo hướng cụ thể.
Câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
1.3.6. Dựa vào nội dung mà câu hỏi phản ánh người ta chia ra:
Câu hỏi nêu ra các sự kiện.
Câu hỏi xác định dấu hiệu bản chất.
Câu hỏi xác định mối quan hệ.
Câu hỏi xác định ý nghĩa lí luận hay thực tiễn của kiến thức.
Câu hỏi xác định cơ chế.
Câu hỏi xác định phương pháp khoa học.
Dựa vào nhiều tiêu chuẩn khác nhau để phân loại nên câu hỏi ở loại này
có thể thuộc về loại khác
Trong dạy học người ta thường sử dụng các câu hỏi để người học tự hình
thành và hình thành nhân cách. Do đó 6 loại câu hỏi nêu trên được sử dụng trong
dạy học môn sinh học.
Tuy vậy: Câu hỏi để phát huy năng lực tự lực của học sinh trong dạy các
bài 14, 16 có thể áp dụng các loại câu hỏi sau:
1.4. Các loại câu hỏi phát huy năng lực tự lực
1.4.1. Câu hỏi kiểm tra kiến thức.
Mục đích của dạng câu hỏi này là kiểm tra sự ghi nhớ kiến thức đã học,
nắm vững được bản chất kiến thức, giải thích và vận dụng kiến thức đã học vào
-9-
giải quyết nhiệm vụ mới hoặc xác định ý nghĩa của kiến thức trong lí luận và
trong thực tiễn.
1.4.2. Câu hỏi hình thành phát triển năng lực nhận thức.
Các phần nội dung bài học của SH6 đều có phần cung cấp thông tin, hoặc
hướng dẫn học sinh thu thập các thông tin (là các sự vật hiện tượng, quá trình,
các thí nghiệm.) Giáo viên cần xây dựng câu hỏi rèn luyện kĩ năng quan sát,
phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp để phát triển năng lực nhân thức.
1.4.3. Câu hỏi hình thành kiến thức mới.
1.4.4. Câu hỏi để củng cố hoàn thiện kiến thức.
1.4.5. Câu hỏi trắc nghiệm.
1.4.6. Câu hỏi liên hệ thực tế.
Ngoài những câu hỏi trên còn có nhiều cách phân loại khác. Mỗi cách đều
có ý nghĩa riêng, có vai trò khác nhau đối với quá trình dạy học. Từ cách phân
loại trên ta thấy rằng câu hỏi đều có vai trò rất quan trọng đối với quá trình dạy
học.
1.5. Cách tiến hành điều tra
Qua tiến hành khảo sát thực trạng dạy học sinh học nói chung và thực
trạng xây dựng câu hỏi theo hướng phát huy năng lực tôi đã tiến hành điều tra,
quan sát sư phạm, dự giờ trao đổi với các đồng nghiệp và tham khảo ý kiến cuối
cùng xin ý kiến đóng góp của 10 giáo viên của trường trung học cơ sở Lang Sơn
và cụm chuyên môn tại trường.
1.6. Kết quả
Câu hỏi 1: Khi dạy các bài 14, 16- Sinh học 6 thầy (cô) đã xây dựng
những dạng câu hỏi phát huy năng lực tự lực nào dưới đây:
Bài 14
Nội dung
chính
Bài 16
Dạng câu hỏi do giáo viên xây
dựng
Nội dung chính
1
2
3
1
2
3
4
- Câu hỏi hình thành kiến thức
mới
1
1
3
- Câu hỏi củng cố và hoàn thiện
kiến thức mới
1
1
1
- Câu hỏi liên hệ thực tế
- Câu hỏi hình thành phát triển
năng lực nhận thức
- Câu hỏi kiểm tra kiến thức
- Câu hỏi trắc nghiệm
- Câu hỏi khác
1
1
1
2
2
3
1
5
-10-
Câu hỏi 2: Xin thầy (cô) vui lòng cho biết việc xây dựng câu hỏi phát huy
năng lực tự lực của học sinh có ý nghĩa như thế nào đối với quá trình dạy học
Kết quả theo bảng thống kê:
Vai trò của việc
xây dựng câu hỏi
- Quan trọng
- Khá quan trọng
- Bình thường
Số người
Tỷ lệ
(%)
50, 0
40, 0
10, 0
0
Ghi chú
(10)
5
4
1
0
- Không quan trọng
Câu hỏi 3: Xin thầy cô cho biết để xây dựng câu hỏi thầy (cô) đã có
những biện pháp gì?
Phần lớn các giáo viên được hỏi đều trả lời có xây dựng câu hỏi nhưng
chủ yếu dựa vào câu hỏi có sẵn. Số ít các thầy cô (thường là giáo viên giỏi) đã ít
nhiều sử dụng một số biện pháp xây dựng câu hỏi.
1.7. Nhận xét kết quả
Qua kết quả nêu trên tôi có thể nhận thấy: Phần lớn giáo viên đã có ý
thức xây dựng câu hỏi theo hướng phát huy năng lực tự lực của học sinh, giáo
viên đã nhận thấy vai trò to lớn của câu hỏi phát huy năng lực tự lực trong hoạt
động nhận thức của học sinh.
Tuy nhiên việc xây dựng câu hỏi chỉ là hình thức, giáo viên không quan
tâm biện pháp xây dựng hoặc không xây dựng được biện pháp câu hỏi, mà giáo
viên xây dựng phần lớn là những câu hỏi có sẵn, chưa thực sự phù hợp với từng
đối tượng học sinh chưa thực sự phát huy năng lực tự lực của các em.
Giáo viên xây dựng câu hỏi chưa có định hướng lý luận, có quy trình cụ
thể nào cho nên chất lượng câu hỏi còn hạn chế
1.8. Nguyên nhân của thực trạng trên
Do rất nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng nguyên nhân cơ bản nhất là
giáo viên chưa có cơ sở lý thuyết để chỉ đạo, giáo viên chưa hiểu được quy trình,
biện pháp để xây dựng câu hỏi nên hệ thống câu hỏi mà giáo viên xây dựng chất
lượng chưa cao.
Nếu có cơ sở chỉ đạo, có quy trình tất thì chắc chắn chất lượng các câu
hỏi sẽ cao hơn.
2. Các biện pháp thực hiện để xây dựng câu hỏi
2.1. Quy trình xây dựng câu hỏi theo hướng phát huy năng lực tự lực
của học sinh
2.1.1. Nguyên tắc chung
- Câu hỏi tập trung vào vân đề nghiên cứu.
-11-
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Xây dựng câu hỏi theo hướng phát huy năng lực tự lực của học sinh trong dạy các bài 14, 16- Sinh học 6", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_xay_dung_cau_hoi_theo_huong_phat_huy_nang_luc_tu_luc_cu.doc