SKKN Vận dung phương pháp dạy học vần lớp 1 theo quan điểm tích hợp

Trong sự nghiệp cách mạng, Đảng ta đặc biệt coi trọng vị trí con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển và: “Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi, phải phát triển mạnh giáo dục - đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh, bền vững”(Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành TW Đảng khoá VIII)
VẬN DUNG PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC VẦN LỚP 1 THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP  
PHẦN MỞ ĐẦU  
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI  
1/Xuất phát từ yêu cầu đổi mới giáo dục  
Trong sự nghiệp cách mạng, Đảng ta đặc biệt coi trọng vị trí con ngƣời, coi  
con ngƣời vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển và: “Muốn tiến hành  
công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi, phải phát triển mạnh giáo dục - đào tạo,  
phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh, bền  
vững(Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành TW Đảng khoá VIII)  
Chính vì vậy, ngay từ bậc Tiểu học các nhà trƣờng cần quan tâm đổi mới  
phƣơng pháp dạy học sao cho phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, bƣớc  
đầu rèn luyện kĩ năng tƣ duy độc lập, sáng tạo của học sinh.  
Để đáp ứng nhu cầu giáo dục, các môn học ở Tiểu học dần chú trọng hình  
thành rèn luyện cho học sinh các kĩ năng học tập. Cùng với các môn học khác,  
môn Tiếng Việt chú trọng hình thành rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sử dụng  
tiếng Việt để phục vụ cho hoạt động học tập và giao tiếp hàng ngày. Quan điểm  
tích hợp là một trong các quan điểm biên soạn chƣơng trình SGK Tiếng Việt mới  
nhằm phát huy tính tích cực của các em.  
Thông qua các hình thức luyện tập trong SGK Tiếng Việt 1 và hƣớng dẫn  
các hoạt động dạy, học trong SGV Tiếng Việt 1, cả hai loại sách này sẽ tạo điều  
kiện để giáo viên và học sinh thực hiện phƣơng pháp tích cực hoá hoạt động của  
ngƣời học, trong đó giáo viên đóng vai trò là ngƣời tổ chức hoạt động của học  
sinh; mỗi học sinh đều đƣợc hoạt động, đều đƣợc bộc lộ mình và đƣợc phát triển.  
Đây là giải pháp tổng thể để thực hiện mục tiêu trang bị kiến thức, rèn luyện kĩ  
năng, hoàn thiện nhân cách cho các em.  
Thực hiện quan điểm tích hợp, SGK Tiếng Việt 1 không dạy kiến thức lí  
thuyết nhƣ là cái có sẵn mà tổ chức hoạt động để học sinh nắm đƣợc kiến thức sơ  
giản và kĩ năng sử dụng tiếng việt tốt. SGK cũng trú trọng tổ chức các hoạt động  
tự nhiên, hoạt động ngoại khóa để rèn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt cho học sinh.  
Đặc biệt, các hình thức tổ chức hoạt động, trò chơi cho học sinh đƣợc  
hƣớng dẫn rất cẩn thận trong SGK. Từ khi bộ SGK Tiếng Việt Tiểu học mới  
đƣợc đƣa vào giảng dạy, phƣơng pháp tích cực hoá hoạt động học tập của học  
sinh bƣớc đầu đã tạo ra những chuyển biến rất rõ rệt trong các nhà trƣờng Tiểu  
học ở Việt Nam.  
2/Thực tiễn dạy Học vần ở địa phƣơng  
Trong thực tiễn, khi thực hiện SGK Tiếng Việt đƣợc biên soạn theo  
chƣơng trình Tiểu học mới, giáo viên gặp nhiều thuận lợi nhƣng cũng không ít  
khó khăn. Cụ thể là:  
- Thuận lợi: Không chỉ dạy Tiếng Việt mà còn tích hợp các kiến thức, kĩ  
năng các môn học khác có ngữ liệu thích hợp với môn Tiếng Việt đƣợc coi là  
những tình huống để rèn luyện kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. Thông qua việc thảo  
luận nhóm về nội dung của bài học, học sinh đƣợc tăng thêm vốn từ, học đƣợc  
1/29  
VẬN DUNG PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC VẦN LỚP 1 THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP  
nhiều cách quy tắc sử dụng tiếng Việt theo các phong cách chức năng đã đƣợc  
dùng để viết ra chúng, do đó có nhiều cơ hội để ứng xử bằng tiếng Việt thích hợp  
với những ngữ cảnh khác nhau.  
- Khó khăn: Quỹ thời gian hạn hẹp. Với 35- 40 phút/tiết, giáo viên đã giải  
quyết xong phần kiến thức, kĩ năng của nội dung còn phải tăng thêm phần tích  
hợp, lồng ghép. Thao tác của giáo viên còn lúng túng, chƣa nhuần nhuyễn, thiếu  
tự tin, còn gƣợng ép nên dẫn đến cách hƣớng dẫn học sinh hoạt động chƣa tích  
cực.  
- Nhiều giáo viên còn sa đà vào nội dung giáo dục tích hợp nên ảnh hƣởng  
đến thời gian giảng dạy.  
Việc thực hiện quan điểm đổi mới trong từng môn học, từng bài học cụ thể  
là vấn đề cần đƣợc nghiên cứu và bàn bạc và làm sáng tỏ.  
Vì vậy tôi đã tập trung nghiên cứu đề tài: “Vận dụng phƣơng pháp dạy  
Học vần lớp 1 theo quan điểm tích hợp” để góp phần giáo dục toàn diện cho học  
sinh.  
II. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ  
1/Mục đích:  
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề đổi mới phƣơng pháp và trên thực tiễn  
dạy học phân môn Học vần, xây dựng phƣơng pháp dạy học tối ƣu (cho cả ngƣời  
dạy và ngƣời học) nhằm mục đích nâng cao hiệu quả trong từng giờ học.  
Thiết kế một số bài dạy Học vần lớp 1 theo quan điểm tích hợp giúp cho ngƣời  
giáo viên Tiểu học có một tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy.  
Định hƣớng cho ngƣời giáo viên Tiểu học thực hiện đổi mới ở các giờ học cụ  
thể.  
Hình thành và làm quen cho học sinh với cách thức tự học, tự lập, tự sáng tạo.  
2/Nhiệm vụ:  
- Nghiên cứu vấn đề đổi mới dạy học hiện nay trong trƣờng Tiểu học.  
- Nghiên cứu thực tiễn dạy Học vần ở lớp 1.  
- Đề xuất phƣơng án dạy học giờ Học vần lớp 1 theo quan điểm tích hợp.  
- Thực nghiệm và rút ra kết luận sƣ phạm.  
III. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:  
1/Nhóm phƣơng pháp luận  
Nghiên cứu những vấn đề lí luận có liên quan đến việc đổi mới phƣơng  
pháp dạy học hiện nay.  
Nghiên cứu những vấn đề ngôn ngữ học, tâm lí giáo dục và các khoa học  
có liên quan tới việc dạy học các bài Học vần lớp 1.  
2/Nhóm phƣơng pháp thực tiễn:  
Nghiên cứu nội dung chƣơng trình SGK, SGV, sách tham khảo  
Trực tiếp giảng dạy nhiều năm lớp 1 cũng nhƣ dự giờ phân môn Học vần lớp 1  
của các bạn đồng nghiệp để tìm hiểu thực tế dạy học Học vần ở khối lớp này.  
Khảo sát thực trạng dạy Học vần ở khối lớp 1.  
2/29  
VẬN DUNG PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC VẦN LỚP 1 THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP  
3/Nhóm phƣơng pháp bổ trợ  
Thống kê các kết quả dạy học.  
Xử lí và khái quát hoá các kết quả thực nghiệm.  
IV. ®èi t îng VÀ THỜI GIAN nghiªn cøu:  
* Đối tƣợng nghiên cứu : 50 Học sinh lớp 1  
* Thời gian nghiên cứu: Bắt đầu từ tháng 9/2016 - -> tháng 4/2017  
3/29  
VẬN DUNG PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC VẦN LỚP 1 THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP  
PHẦN NỘI DUNG  
CHƢƠNG I:  
NHỮNG CƠ SỞ CỦA VIỆC: “ VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC  
VẦN LỚP 1 THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP ”  
I/CƠ SỞ LÍ LUẬN  
1.Cơ sở tâm lí  
1.1/Đi học lớp 1 là một bƣớc ngoặt quan trọng trong đời sống của trẻ.  
Từ đây hoạt động chủ đạo của trẻ, hoạt động vui chơi ở giai đoạn mẫu giáo  
đã chuyển sang một loại hoạt động mới, hoạt động học tập với đầy đủ ý nghĩa của  
từ này. Các em sẽ trở thành những “cậu học sinh, những cô học sinh”  
Vì vậy giáo viên cần phải nắm chắc đặc điểm này để giúp học sinh  
“chuyển giai đoạn ”đƣợc tốt.  
1.2/Sự hình thành hoạt động có ý thức ở trẻ lớp 1  
Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng về mặt sinh lí ở trẻ 6 - 7 tuổi, khối lƣợng  
bộ não đã đạt tới 90% khối lƣợng bộ não ngƣời lớn. Sự chín muồi về mặt sinh lí  
cùng với sự phát triển của những quá trình tâm lí (nhƣ cảm giác, tri giác, trí nhớ,  
tƣ duy,…) đã tạo điều kiện để các em có thể thực hiện một hoạt động mới, hoạt  
động học tập. Chơi là một hoạt động mang tính kế hoạch có mục đích đó là một  
hoạt động có ý thức .  
1.3/Đặc điểm của hoạt động tƣ duy ở trẻ lớp 1  
Trên cơ sở ý thức đã hình thành khả năng tƣ duy tín hiệu ở trẻ cũng phát  
triển. Chính khả năng tƣ duy bằng tín hiệu là cơ sở để các em lĩnh hội chữ viết, là  
những tín hiệu thay thế ngữ âm. Ở độ tuổi 6 – 7 tuổi khả năng phân tích, tổng hợp  
ở trẻ khá hoàn chỉnh, từ đó cho phép các em có khả năng tách từ thành tiếng,  
thành âm.  
1.4/Năng lực vận động của trẻ ở lứa tuổi lớp 1  
Ở lứa tuổi 6 - 7 tuổi năng lực vận động của trẻ cũng đạt đƣợc những bƣớc  
phát triển đáng kể. Các em có thể chủ động điều khiển các hoạt động của cơ thể  
nhƣ tay, mắt, đầu cổ, có thể phối hợp nhiều động tác khác nhau. Đây cũng là điều  
kiện cần thiết để các em có đủ điều kiện đáp ứng đƣợc yêu cầu đòi hỏi cao hơn là:  
học viết - một hoạt động đòi hỏi phải chủ động trong các hoạt động của cánh tay,  
ngón tay, bàn tay trong sự phối hợp với mắt nhìn, tai nghe, tay viết.  
Bằng hình thức đàm thoại sinh động, bằng việc kể chuyện, ngâm thơ, quan  
sát vật thật… giáo viên sẽ tạo đƣợc những tình huống ngôn ngữ làm cho hoạt  
động đọc và viết có ý nghĩa, từ đó góp phần nâng cao khả năng tƣ duy, đạt đƣợc  
hiệu quả dạy học vần cao.  
4/29  
VẬN DUNG PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC VẦN LỚP 1 THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP  
2/Cơ sở ngôn ngữ học của việc dạy học vần  
2.1/Những đặc điểm ngữ âm của tiếng Việt và dạy Tiếng Việt ở lớp 1  
Đặc trƣng loại hình của Tiếng Việt thể hiện ở chỗ Tiếng Việt là thứ ngôn  
ngữ đơn lập. Đặc trƣng này đƣợc thể hiện ở tất cả các ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ  
pháp nhƣng thể hiện rõ nhất là mặt ngữ âm.  
Xét từ góc độ ngữ âm Tiếng Việt là thứ ngôn ngữ có nhiều thanh điệu và  
độc lập mang nghĩa. Vì thế trong chuỗi lời nói, ranh giới giữa các âm tiết đƣợc  
thể hiện rõ ràng, các âm tiết không bị nối dính vào nhau nhƣ trong các ngôn ngữ  
biến hình. Đây là điều kiện thuận lợi cho quá trình dạy âm, dạy chữ.  
Về cấu tạo âm tiết Tiếng Việt là một tổ hợp âm thanh có tổ chức chặt chẽ.  
Các yếu tố cấu tạo âm tiết kết hợp với nhau theo từng mức độ lỏng, chặt khác  
nhau. Phụ âm đầu, vần và thanh kết hợp lỏng, còn các yếu tố của vần kết hợp với  
nhau khá chặt chẽ. Vần có vai trò rất quan trọng trong Tiếng Việt. Âm tiết có thể  
không có phụ âm đầu nhƣng không thể thiếu phần vần. Ngƣời Việt ƣa thích nói  
vần và nhạy cảm với vần. Điều này đƣợc thể hiện rõ trong vần thơ và cách nói lái  
của ngƣời Việt.  
2.2/Cơ chế của việc đọc, viết .  
Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ ngƣời ta nảy sinh ra một ý, rồi dùng ngôn  
ngữ để lồng ý đó và phát triển thành lời. Khi tiếp nhận lời nói, ngƣời nghe lại rút  
ở trong từ, trong câu nghe đƣợc ý của ngƣời nói để biết ngƣời ta muốn nói gì. Để  
chuyển ý thành lời ngƣời ta phải sử dụng một mã chung của xã hội là ngôn ngữ  
(bao gồm các từ và những quy tắc ghép từ thành câu) lựa chọn sắp xếp các yếu tố  
của mã đó trở thành lời cụ thể. Công việc vận dụng mã để lồng ý mà tạo lên lời  
nhƣ thế gọi là sự mã hoá. Ngƣợc lại khi chuyển lời thành ý từ những câu, nghe  
đƣợc, ngƣời nghe phải rút ra nội dung chứa đựng bên trong lời nói. Công việc đó  
chính là sự giải mã.  
1- Quy trình viết :  
ý mã hoá 1 lời nói  
( mã 1) (văn bản nói)  
2- Quy trình đọc:  
Văn bản viết Giải mã 2 lời nói  
(mã 2) (văn bản nói )  
mã hóa 2 văn bản viết  
(mã hoá 2)  
Giải mã 1 ý  
(mã 1)  
Mục đích của học vần là là trang bị cho học sinh bộ mã 2 (chữ viết) và kỹ  
năng chuyển mã (từ mã 1 sang mã 2 hoặc ngƣợc lại, từ mã 2 sang mã 1). Cho nên  
trong 2 quy trình viết và đọc, đã phân tích, trọng tâm dồn chú ý là các khâu có  
liên quan đến mã 2, tức là mã hoá (viết) và giải mã 2 (đọc).  
2.3/ Đặc điểm của chữ viết Tiếng Việt .  
Chữ viết Tiếng Việt là chữ ghi âm. Nói chung đó là một hệ thống chữ viết  
tiến bộ. Nguyên tắc cơ bản của kiểu chữ này là nguyên tắc ngữ âm học. Về cơ  
bản, nguyên tắc đảm bảo sự tƣơng ứng một - một giữa âm và chữ, tức là mỗi âm  
chỉ ghi bằng một chữ, mỗi chữ chỉ có một cách phát âm mà thôi. Ngoài ra về mặt  
5/29  
VẬN DUNG PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC VẦN LỚP 1 THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP  
chữ viết, các âm Tiếng Việt đều rời, có cấu tạo đơn giản nên việc đánh vần không  
phức tạp lắm.  
Dạy học vần, dạy viết (nhất là những tiết đầu) có một số khó khăn nhất  
định do nguyên nhân sau:  
- Cấu tạo của hệ thống chữ Tiếng Việt còn tồn tại một số bất hợp lí nhƣ  
một âm ghi bằng nhiều con chữ (âm /k/ ghi bằng ba con chữ c, k, q…) hoặc một  
chữ dùng để ghi nhiều âm (chữ ghi âm /z/ trong từ gì và già). Tình hình đó, lúc  
đầu dễ làm cho các em lẫn lộn khi viết, Ví dụ: đọc thành ghì , kẻ đọc thành cẻ.  
- Chữ viết theo hệ thống ngữ âm chuẩn nhƣng cách đọc của học sinh lại thể  
hiện ngữ âm của phƣơng ngôn (nơi các em sinh sống)  
+Học sinh của một số tỉnh ở miền Bắc thƣờng không phát ngôn đánh vần  
đƣợc các âm quặt lƣỡi. Ví dụ: phụ âm đầu /n/với /l/; phụ âm đầu /x/với /s/; phụ  
âm cuối /n/ với /t/.  
+HS ngƣời miền Trung, miền Nam thì không phân biệt đƣợc chính xác  
thanh hỏi, ngã, Ví dụ: kể với kễ; nghỉ với nghĩ; …  
Loại lỗi trên khó khắc phục hơn với cách phát âm toàn dân để trên cơ sở đó  
dạy phát âm chuẩn. Tuy nhiên chữ viết Tiếng Việt có cấu tạo đơn giản và tiếng  
Việt có tính thống nhất cao nên việc dạy với học sinh lớp 1 ở Việt Nam có thể  
giải quyết trọn vẹn trong vòng hai, ba tháng.  
II/CƠ SỞ THỰC TIỄN  
1/Mục tiêu của việc dạy Học vần  
- Học vần là môn học khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ  
mới để sử dụng trong học tập và giao tiếp. Đó là chữ viết. Tầm quan trọng của  
học vần chịu sự quy định bởi tầm quan trọng của chữ viết trong hệ thống ngôn  
ngữ. Nếu chữ viết đƣợc coi là phƣơng tiện ƣu thế nhất trong giao tiếp thì học vần  
có một vị trí quan trọng không thiếu đƣợc trong chƣơng trình môn Tiếng Việt ở  
bậc Tiểu học.  
- Cùng với tập viết, học vần có nhiệm vụ lớn lao là trao cho các em cái chìa  
khoá để vận dụng chữ viết khi học tập. Khi biết đọc, biết viết các em có điều kiện  
nghe lời thầy giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa, sách tham khảo…từ đó có  
điều kiện để học tốt các môn học khác có trong chƣơng trình .  
Chúng ta đều nhận thức sâu sắc rằng, môn Tiếng Việt ở Tiểu học rèn luyện  
cho HS cả 4 kĩ năng nghe, nói đọc, viết, song mục tiêu của việc dạy và học Tiếng  
Việt ở lớp 1 là đem lại cho các em kĩ năng đọc đúng,viết đúng. Quá trình đọc và  
viết đều thông qua chữ. Chữ viết của tiếng việt là ghi âm (về cơ bản đọc thế nào  
viết thế ấy). Muốn nắm đƣợc kĩ năng đọc, viết các em phải đồng thời nắm đƣợc  
cả hai.  
2/Cấu tạo một bài dạy  
Ở loại bài dạy kiến thức mới, cách trình bày trên trang sách nói chung phù  
hợp với trình tự các bƣớc lên lớp thông thƣờng trong hai tiết dạy. Cụ thể nhƣ sau:  
6/29  
VẬN DUNG PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC VẦN LỚP 1 THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP  
2.1.Bài dạy phần “chữ cái và âm”  
- Tên bài (trình bày bằng chữ in thƣờng)  
- Tranh, từ khoá (nội dung tranh gắn liền với nghĩa của từ khoá nhằm gợi  
mở, dẫn dắt HS).  
- Tranh gợi từ ngữ ứng dụng thêm để học sinh tập phát âm hoặc nhận dạng  
chữ ghi âm mới có ở từ ngữ ghi kèm tranh.  
- Tiếng khoá (còn gọi là tiếng mới đƣợc rút ra từ từ khoá trong đó mang âm  
và chữ ghi âm sẽ học).  
- Chữ ghi âm mới (ngoài chữ in thƣờng có những chữ viết thƣờng trên  
dòng kẻ để HS tập viết).  
- Từ ngữ (hoặc câu) ứng dụng để luyện đọc  
- Chữ ghi tiếng (viết thƣờng trên dòng kẻ) cần luyện viết ứng dụng (thƣờng  
là tiếng mới hoặc từ có tiếng mới học)  
- Tiếng ghép bởi các âm đã học và từ ngữ ứng dụng cần luyện đọc thêm ở  
lớp và ở nhà (còn gọi là phần ôn luyện cuối bài). Phần này thiết kế theo nguyên  
tắc: Bài học về nguyên âm sẽ ghép với phụ âm đã học và bài học về phụ âm sẽ  
ghép với các nguyên âm đã học để tạo thành tiếng, giúp trẻ “quen mắt” đọc  
nhanh. Các từ láy, từ ghép hay cụm từ ở dòng dƣới có tác dụng cho trẻ tập đọc  
thêm đồng thời mở rộng vốn từ ở trẻ.  
2.2.Bài dạy ở phần vần  
- Tên bài (chữ in thƣờng)  
- Tranh, từ khoá (gồm tiếng đã đƣợc học và tiếng mới)  
- Tiếng khoá (mang vần mới).  
- Vần mới (trình bày bằng chữ in) chữ viết thƣờng đƣợc trình bày kết hợp  
bên phải sách cùng ghi chữ tiếng mới)  
- Từ ứng dụng để luyện đọc  
- Chữ ghi vần- tiếng (viết thƣờng trên dòng kẻ) cần luyện viết ứng dụng.  
- Tranh, câu (hoặc bài) ứng dụng để luyện đọc ở lớp, ở nhà.  
Số lƣợng từ ngữ ứng dụng đƣợc ứng dụng ở mỗi bài với mức độ vừa phải.  
Tối thiểu: 3 từ ngữ ở bài học 1 vần, 4 từ ngữ ở bài học 2 vần, nhiều nhất là 6 từ  
ngữ ở bài học 3 vần. Nội dung các từ ngữ ứng dụng có sự chọn lọc và gợi mở liên  
tƣởng ở các cặp: Vầng trăng/ lăng Bác/ vâng lời/ chị ngã em nâng/ lúa chiêm/ cái  
liềm … đôi khi có kết quả phân biệt vấn đề lẫn lộn hoặc chính tả nhƣ: hoa đào,  
dẻo tay, múa xoè, xƣơng sƣờn, giọt sƣơng … song điều quan trọng nhất là nội  
dung các từ ngữ, câu ứng dụng để luyện đọc vừa hƣớng vào các chủ đề cần thiết  
(nhà trƣờng, gia đình, cuộc sống, thiên nhiên và xã hội gần gũi với trẻ …) vừa  
đáp ứng yêu cầu khắc sâu vần đã học, ôn luyện vần cũ đọc (tăng cƣờng số lần lặp  
lại). Vì vậy bên cạnh những câu, bài có tính “văn chƣơng”.  
- Bài ôn các âm- chữ ghi âm đã học: có dạng ghép tiếng luyện đọc, thay đổi  
thanh để tạo tiếng mới theo “bảng mẫu” (Các bài 6, 11, 16, 21, 27, 31, 37, 43) có  
dạng thực hành luyện đọc các từ láy có “khuôn vần” là nguyên âm đã học (bài  
39).  
7/29  
VẬN DUNG PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC VẦN LỚP 1 THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP  
- Bài ôn vần đã học: có dạng ôn các vần đã học (theo nhóm) có bộ phận  
giống nhau (bài 51, 59, 67, 75…), có dạng hệ thống hoá các nhóm vần đã học,  
ghép tiếng luyện đọc qua bài đọc ngắn (bài 90, 97, 103).  
Dạy ôn theo cách trên, giáo viên có thể sử dụng các loại đồ dùng dạy học  
(bảng hệ thống vần, hộp quay vần ghép tiếng) làm cho lớp thêm sinh động.  
III/TÌM HIỂU QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP TRONG CHƢƠNG TRÌNH VÀ  
SGK TIẾNG VIỆT  
1/Chƣơng trình Tiểu học - môn Tiếng Việt, mục Những định hƣớng của  
chƣơng trình đã nêu vấn đề về: “VẬN DUNG PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC  
VẦN LỚP 1 THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP” nhƣ sau:  
- “Chƣơng trình này có mục tiêu phức hợp: vừa hình thành kĩ năng vừa  
cung cấp tri thức. Trong các tri thức cung cấp cho học sinh, ngoài những tri thức  
tiếng Việt còn có các tri thức về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.  
-Việc hình thành các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt muốn có hiệu quả cao  
phải đƣợc thực hiện không chỉ ở các bài học Tiếng Việt mà còn ở các bài học  
thuộc những môn học khác. Tƣơng ứng với hai sự kết hợp trên là hai dạng tích  
hợp trong dạy Tiếng Việt."  
- Tích hợp trong môn Tiếng Việt: các bài đọc đều chú ý rèn luyện bốn kĩ  
năng: nghe - nói - đọc - viết, kết hợp dạy thực hành các kĩ năng trên với dạy Từ  
ngữ (T) ở lớp 1.  
- Tích hợp nội dung các môn học khác vào môn Tiếng Việt: những bài học  
của các môn học khác có ngữ liệu thích hợp với việc dạy tiếng Việt đƣợc coi là  
những tình huống để rèn luyện những kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. Thông qua các  
bài học, thông qua việc thảo luận trong nhóm hoặc trong lớp về nội dung của các  
bài học ấy, học sinh đƣợc tăng thêm vốn từ, học đƣợc nhiều cách diễn đạt bằng  
Tiếng Việt và qui tắc sử dụng Tiếng Việt theo các phong cách chức năng đã đƣợc  
dùng để viết ra chúng, do đó có nhiều cơ hội để ứng xử bằng Tiếng Việt thích  
hợp với các ngữ cảnh khác nhau.  
2/Tài liệu Hỏi đáp về dạy học Tiếng Việt 1 (do Nguyễn Minh Thuyết chủ biên,  
Nhà xuất bản Giáo dục mục 10 trang 26)  
2.1/Tích hợp nghĩa là tổng hợp trong một đơn vị học, thậm chí một tiết học hay  
trong một bài tập nhiều mảng kiến thức và kĩ năng liên quan tới nhau nhằm tăng  
cƣờng hiệu quả giáo dục và tiết kiệm thời gian học tập cho ngƣời học. Có thể  
thực hiện tích hợp theo chiều ngang và tích hợp theo chiều dọc.  
2.2/Tích hợp theo chiều ngang: Là tích hợp kiến thức tiếng Việt với các mảng  
kiến thức về văn học, tự nhiên, con ngƣời và xã hội theo nguyên tắc đồng quy.  
Chẳng hạn hƣớng tích hợp này đƣợc SGK Tiếng Việt Lớp 1 thể hiện thông  
qua hệ thống chủ điểm: Nhà trƣờng - Gia đình - Thiên nhiên đất nƣớc.  
SGK đã hƣớng dẫn các lĩnh vực đời sống. Qua đó tăng cƣờng vốn từ, khả  
năng diễn đạt về mọi lĩnh vực Nhà trƣờng - Gia đình - Xã hội giúp các em hiểu  
đƣợc thế giới xung quanh soi vào thế giới tâm hồn mình. Đây chính là giải pháp  
để thực hiện mục tiêu “cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng  
8/29  
VẬN DUNG PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC VẦN LỚP 1 THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP  
Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con ngƣời, về văn hoá, văn  
học của Việt Nam và nƣớc ngoài.” Theo quan điểm ch hợp, các phân môn (Tập  
đọc, Kể chuyện, Chính tả, Tập viết,) trƣớc đây ít gắn bó với nhau, nay đƣợc tập  
hợp lại xung quanh trục chủ điểm và các bài đọc; các nhiệm vụ cung cấp kiến  
thức và rèn kĩ năng cũng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn trƣớc.  
2.3/Tích hợp theo chiều dọc:  
Nghĩa là tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kĩ năng với những kiến thức và  
kĩ năng đã học trƣớc đó theo nguyên tắc đồng tâm (còn gọi là đồng trục hay vòng  
tròn xoáy trôn ốc). Cụ thể là: kiến thức và kĩ năng của lớp trên, bậc học trên bao  
hàm kiến thức và kĩ năng của lớp dƣới, bậc học dƣới, nhƣng cao hơn và sâu hơn.  
Đây là giải pháp củng cố và dần dần nâng cao kiến thức, kĩ năng của HS, để các  
kiến thức và kĩ năng thực sự là của mỗi ngƣời học, góp phần hình thành ở các em  
những phẩm chất mới của nhân cách. Điều này ở phân môn Tập đọc thể hiện rất  
rõ.  
2.3.1/Về kiến thức: Ở lớp 1, toàn bộ các bài học đều đƣợc xây dựng theo  
chủ điểm Nhà trƣờng, Gia đình, Thiên nhiên - Đất nƣớc.  
- Ở lớp 1, thời gian dành cho mỗi đơn vị học là một tuần; các chủ điểm lần  
lƣợt trở lại theo kiểu đồng tâm xoáy trôn ốc; cứ ba tuần lại lặp lại một lần, mỗi  
lần trở lại là một lần khai thác sâu hơn.  
Nhƣ: Chủ điểm 1: Nhà trƣờng, đây là chủ điểm đầu tiên sau khi các em học  
hết phần vần. Các em đƣợc luyện tập tổng hợp. Bài Tập đọc đầu tiên của chủ  
điểm đầu tiên này là bài Trƣờng em, các em đƣợc luyện đọc đƣợc ôn tập. củng  
cố các vần đơn giản: ai, ay, và tìm hiểu nội dung bài cũng khá đơn giản bằng  
cách: Nói tiếp: Trường học là ngôi nhà thứ hai của em, vì … Phần Luyện nói (N)  
ở nội dung rất gần gũi: M: Bạn học lớp nào? ….  
Nhƣng đến chủ điểm 10: cũng là chủ điểm Nhà trƣờng, các bài đọc dài  
hơn, nội dung tìm hiểu cũng đòi hỏi tƣ duy nhiều hơn. Nhƣ bài Cây bàng, vần  
cần đƣợc ôn tập củng cố là những vần khó hơn, vần: oang, oac. Trong phần  
Luyện nói (N): Kể tên những cây được trồng ở sân trường em. Tuy là nội dung  
rất gần gũi nhƣng đòi hỏi các em phải có sự tìm tòi, hiểu biết.  
2.3.2/Về kĩ năng:  
Trên cơ sở định hƣớng của chƣơng trình và SGK ta thấy SGV Tiếng Việt  
thực hiện việc tích hợp theo các hƣớng chính sau:  
+Tích hợp kiến thức thông qua các hệ thống chủ điểm (nội dung các bài  
đọc đƣợc thiết lập theo chủ điểm và chƣơng trình là một hệ thống các chủ điểm  
về các vấn đề gần gũi nhƣ gia đình, trƣờng học.  
+Các phân môn Tập đọc, Chính tả, Tập viết, Kể chuyện …. Tập hợp bao  
quanh trục chủ điểm và các bài học.  
9/29  
VẬN DUNG PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC VẦN LỚP 1 THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP  
CHƢƠNG II:  
DẠY HỌC THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP TRONG MÔN TIẾNG VIỆT  
1/THẾ NÀO LÀ DẠY HỌC TIẾNG VIỆT THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP?  
Để hiểu thế nào là dạy học theo quan điểm tích hợp trong môn Tiếng Việt,  
chúng ta cùng xem lại nội dung một số bài học trong SGK và việc tổ chức hoạt  
động học tập trên lớp cho các bài học đó.  
1/Giáo án thực nghiệm (minh họa ở trang 21của sáng kiến):  
- Bài 76 oc, ac SGK Tiếng Việt 1 tập một trang 154.  
- Bài 78: uc, ƣc SGK Tiếng Việt 1 tập một trang 158.  
II/QUY TRÌNH LÊN LỚP (ở dạng bài cơ bản)  
1.Dạy bài âm - chữ ghi âm (học vần) mới  
Trong hai tiết lên lớp cho một bài dạy, ngoài những công việc thông lệ  
nhƣ: ổn định tổ chức, nhắc nhở, tuyên dƣơng, dặn dò … có 2 bƣớc lên lớp cơ  
bản, cần đƣợc GV vận dụng linh hoạt, sáng tạo: kiểm tra bài cũ; dạy bài mới  
(thƣờng phân bố nhƣ sau: tiết 1: giới thiệu bài (1); Dạy âm - chữ ghi âm (vần  
mới) (2); tiết 2: luyện tập (3); hƣớng dẫn học sinh học ở nhà (4).  
1.1.Kiểm tra bài cũ  
- Thời gian từ 3 - 5 phút (tuỳ bài dạy).  
- Nội dung kiểm tra.  
+Đọc chữ ghi âm (vần) - tiếng mới (hoặc tiếng mới từ khoá), từ ứng dụng  
(2 - 3 từ) các bài kế trƣớc đó. Có thể kiểm tra thêm phần luyện đọc ở nhà hoặc  
một vài âm (vần hoặc tiếng) đã học có xuất hiện trong bài sắp dạy.  
+Viết: chữ ghi âm (vần) - chữ ghi tiếng mới- từ khoá của bài kế trƣớc đó.  
Tuỳ điều kiện có thể viết nâng cao 1 - 2 từ ứng dụng.  
- Biện pháp tiến hành: Kiểm tra đọc trƣớc đối với từng học sinh (đọc trên  
bảng lớp, bảng con viết sẵn, bìa ghi chữ, đọc trong SGK), kiểm tra viết sau đối  
với cả lớp (viết bảng con hoặc kết hợp viết cả lớp đối với 2 - 3 học sinh). Nói  
chung giáo viên cần có nhiều biện pháp sáng tạo để đạt hiệu quả cao nhất có số  
học sinh đƣợc kiểm tra bài cũ).  
1.2.Dạy bài mới  
a)Giới thiệu bài: (1 - 2 phút) có thể gợi từ khoá và chú giải thêm về nghĩa,  
nếu cần qua tranh ảnh hay vật thật) rồi nêu tên bài mới, song cũng có thể nêu  
ngay tên bài mới rồi gợi mở từ khoá rồi ghi lên bảng và dạy (ở bài dạy có nhiều  
âm - vần).  
b)Dạy âm- chữ ghi âm hoặc vần:  
- Phân tích từ khoá, từ khoá để rút ra âm - chữ ghi âm hoặc vần mới, giúp  
HS nhận dạng (phân tích) chữ ghi âm (vần) mới, tập phát âm (đánh vần) mới học.  
- Tổng hợp âm - vần trở lại tiếng khoá giúp HS biết đánh vần và đọc tiếng  
khoá, từ đó giúp HS có thể đọc trơn các từ khoá. Tiến hành song, cho vài HS đọc  
“tổng hợp” (âm, vần - tiếng, từ).  
10/29  
VẬN DUNG PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC VẦN LỚP 1 THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP  
- Củng cố âm - vần mới bằng hình thức nhận dạng, tái hiện chữ ghi âm  
(vần) viết thƣờng trên bảng con (có thể kết hợp cho 2 - 3 học sinh ghi trên bảng  
lớp hoặc cho học sinh sử dụng vở tập tô). Để thực hiện tốt khâu này giáo viên cần  
lƣu ý viết mẫu (để học sinh tri giác “bắt trƣớc”), hƣớng dẫn đôi điều cần thiết về  
quy trình viết chữ, hình dáng chữ viết và cách viết các con chữ gần nhau.  
Tuỳ bài dạy cụ thể, giáo viên có thể cho học sinh tập viết ngay cả chữ ghi  
tiếng mới, hoặc chuyển khâu này xuống ở khâu viết chữ ghi tiếng (mục III:  
Luyện tập - tiết 2).  
- Dạy bài: âm- chữ ghi âm; giáo viên cần lƣu ý:  
+Khi rút ra chữ ghi âm (viết bằng chữ in thƣờng), giáo viên có thể giới  
thiệu ngay cả chữ viết thƣờng trên dòng kẻ (nhƣ cách trình bày ở SGK) để học  
sinh nhận dạng và so sánh. Khi hƣớng dẫn học sinh viết bảng con giáo viên dùng  
“que chỉ bảng” (hoặc thƣớc) tô lại chữ đã viết để học sinh quan sát quy trình,  
nhận biết hình dáng chữ.  
+Trong SGK ngoài tranh minh hoạ có từ khoá sau bài mới thƣờng có thêm  
phần tranh gợi từ với 3 cách trình bày tranh không có từ ngữ kèm theo, tranh có  
từ ngữ kèm theo nhƣng in bằng hai thứ chữ (to - nhỏ), tranh có từ ngữ kèm theo  
in chữ to học sinh có thể đọc đƣợc. Tuỳ bài dạy cụ thể giáo viên có thể dạy tiết 1  
(sau khi tổng hợp xong từ khoá) hoặc ở tiết 2 (phần luyện tập trên bảng lớp).  
Cách dạy nhƣ sau: tranh không có từ ngữ kèm theo, giáo viên dùng tranh để gợi ý  
dẫn học sinh nêu tiếng (từ) trong đó có âm mới học (giáo viên có thể viết vào cho  
HS kết hợp nhận dạng chữ ghi âm sau đó cần xoá ngay vì học sinh chƣa đánh vần  
chƣa đọc đƣợc. Tranh có từ ngữ kèm theo: giáo viên dùng tranh để gợi tiếng, từ  
cần thiết cho học sinh phát âm, sau đó ghi bảng (chữ in cỡ to ở SGK) cho học  
sinh nhận dạng chữ ghi âm mới học và đánh vần, đọc tiếng (từ) do giáo viên ghi.  
- Dạy bài vần: giáo viên lƣu ý dạy 3 vần và so sánh phân biệt ở tiết 1  
(chuyển yêu cầu viết vần mới sang tiết 2) hoặc dạy 2 vần và so sánh phân biệt,  
tập viết bảng con ở tiết 1, vần thứ 3 dạy ở tiết 2. Những vần này thƣờng có điểm  
giống hoặc gần gũi với nhau (ví dụ on, ôn, ơn), giáo viên chỉ cần dạy kĩ vần đầu  
các vần sau có thể lƣớt nhanh và chú ý gợi dẫn học sinh tự so sánh cấu tạo các  
vần rồi đánh vần - đọc vần.  
c)Luyện đọc  
Phần này bao gồm: Luyện đọc bài trên lớp, luyện đọc bài trong SGK và  
luyện viết chữ ghi tiếng vào bảng con.  
Luyện đọc bài trên bảng lớp (khoảng 15 phút) và thực hiện theo trình tự  
sau: giáo viên ghép từ ngữ ứng dụng trên bảng - cho học sinh nhận biết chữ ghi  
âm (vần) mới học, củng cố chữ ghi âm (vần) đã học (giáo viên chỉ, hocj sinh đọc  
hoặc học sinh chỉ bảng và đọc theo hƣớng dẫn của giáo viên, học sinh tự đánh  
vần nhẩm và học tiếng - giáo viên hƣớng dẫn học sinh đọc từ (hoặc câu ngắn ở  
bài âm - chữ ghi âm).  
Sau đó giáo viên mới đọc mẫu, kết hợp giải nghĩa từ cần thiết. Cuối cùng  
cho vài học sinh đọc lại toàn bộ bài. Nếu có điều kiện giáo viên có thể chọn thêm  
11/29  

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 32 trang minhvan 19/12/2024 40
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Vận dung phương pháp dạy học vần lớp 1 theo quan điểm tích hợp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfskkn_van_dung_phuong_phap_day_hoc_van_lop_1_theo_quan_diem_t.pdf