SKKN Tổ chức và hướng dẫn học sinh lớp 6 làm thí nghiệm theo nhóm ở môn Vật lý
Theo Luật giáo dục thì mục tiêu của giáo dục THCS là: “Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học, có trình độ học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kĩ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc
sống lao động”.
sống lao động”.
TỔ CHỨC VÀ HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 6 LÀM THÍ NGHIỆM THEO
NHÓM Ở MÔN VẬT LÝ
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Theo Luật giáo dục thì mục tiêu của giáo dục THCS là: “Giáo dục trung học cơ sở
nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học, có trình
độ học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kĩ thuật và hướng nghiệp để
tiếp tục học trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc
sống lao động”.
Để phục vụ mục tiêu trên, chương trình THCS cũng cần được thiết kế theo hướng
giảm tính lý thuyết, tăng tính thực tiễn, tăng thời gian tự học và hoạt động ngoại khoá.
Vật lý là môn học chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống các môn học ở nhà
trường phổ thông. Vì nó có nhiều nhiệm vụ:
- Cung cấp kiến thức vật lý phổ thông cơ bản có hệ thống và tương đối toàn
diện.
- Rèn luyện những kỹ năng cơ bản có tính chất kỹ thuật tổng hợp.
- Góp phần xây dựng thế giới quan khoa học, rèn luyện những phẩm chất của
người lao động mới.
Năm học 2002-2003 Bộ giáo dục đưa môn vật lý vào giảng dạy ở chương trình
lớp 6 và theo đó là sự đổi mới về phương pháp dạy học mang tính cải tiến, với phương
châm là: dạy học tạo điều kiện để học sinh “ suy nghĩ nhiều hơn, làm việc nhiều hơn,
thảo luận nhiều hơn”
Chương trình vật lý 6 có 35 tiết trong đó số tiết bài có thí nghiệm là 28 và trong 28
tiết có thí nghiệm thì có 23 tiết là thí nghiệm thực tập, học sinh phải làm theo nhóm dưới
sự hướng dẫn của giáo viên, (chiếm tỉ lệ 82%). Từ những số liệu trên ta thấy số tiết học
sinh làm thí nghiệm thực hành là rất nhiều. Tuy nhiên, học sinh lớp 6 mới làm quen với
môn vật lý, rất lúng túng khi tiến hành thí nghiệm nên gây nhiều khó khăn cho giáo viên
trong việc tổ chức và hướng dẫn.
Mặc khác, còn rất nhiều trường chưa có phòng học bộ môn vật lý hoặc chỉ có một
phòng bộ môn vật lý nên giáo viên phải tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm thực tập tại
phòng học (vì trùng tiết) điều này hết sức khó khăn và mất thời gian.
Hơn nữa, chương trình dạy học rất cứng với quy định chặt chẽ về thời lượng trong
từng bài học; sĩ số trong một lớp học khá đông gây khó khăn cho việc tổ chức hoạt động
nhóm.
Sau đây, tôi xin nêu ra một số kinh nghiệm của bản thân về việc tổ chức và hướng
dẫn học sinh khối 6 làm thí nghiệm theo nhóm tại phòng học.
1
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Sơ lược về mục tiêu môn vật lý 6 và trang thiết bị thí nghiệm :
Vật lý 6 gồm có hai chương (chương 1: cơ học và chương 2: nhiệt học )
1.1. Chương 1: Cơ học
a. Mục tiêu:
- Biết sử dụng các dụng cụ: thước, bình chia độ, cân đòn, lực kế để đo các đại lượng
tương ứng: độ dài, thể tích, khối lượng, trọng lượng.
- Nhận dạng tác dụng của lực như là đẩy hoặc kéo của vật; mô tả kết quả tác dụng
của lực, chỉ ra được hai lực cân bằng khi chúng cùng tác dụng vào một vật đang đứng
yên; Nhận biết biểu hiện của lực đàn hồi.
- Phân biệt và biết biểu thức liên hệ giữa khối lượng và trọng lượng; biết cách xác
định khối lượng riêng và trọng lượng riêng.
- Biết sử dụng ròng rọc, đòn bẩy, mặt phẳng nghiêng để đổi hướng của lực hoặc để
dùng lực nhỏ thắng được lực lớn.
b. Thiết bị thí nghiệm:
- Các dụng cụ đo đạc như các loại thước cuộn, các loại bình chia độ…, cân
Rôbécvan, các loại lực kế.
- Ròng rọc, mặt phẳng nghiêng, đòn bẩy, giá đỡ…
- Lò xo xoắn, lò xo lá tròn, quả gia trọng (qủa nặng), xe lăn, khối gỗ…
- Các vật dễ kiếm như: thước dây 1,5m, thước nhựa dẹp 30cm, cuộn chỉ, dây thun,
viên bi, tấm ván, tuốc-nơ-vít nhỏ…
1.2. Chương 2: nhiệt học
a. Mục tiêu:
- Rút ra kết luận về sự co dãn vì nhiệt của các chất rắn, lỏng, khí.
- Giải thích một số hiện tượng ứng dụng sự nở vì nhiệt trong tự nhiên, đời sống và
kĩ thuật.
- Mô tả cấu tạo và nguyên tắc hoạt động của các loại nhiệt kế thường dùng, biết
dùng nhiệt kế y tế để đo nhiệt độ cơ thể.
- Mô tả và vẽ đường biểu diễn sự phụ thuộc của nhiệt độ vào thời gian trong quá
trình làm nóng chảy băng phiến (hoặc chất rắn kết tinh); rút ra kết luận về đặc điểm của
nhiệt độ trong thời gian vật (băng phiến) nóng chảy.
- Xác định những yếu tố ảnh hưởng đến sự bay hơi; phác hoạ thí nghiệm kiểm tra
giải thuyết chất lỏng lạnh đi khi bay hơi và các chất lỏng khác nhau bay hơi nhanh, chậm
khác nhau, cũng như các yếu tố khác ảnh hưởng đến sự bay hơi nhanh, chậm của chất
lỏng.
- Mô tả thí nghiệm chứng tỏ hơi nước ngưng tụ khi gặp lạnh và nêu một số hiện
tượng ngưng tụ trong đời sống tự nhiên.
2
- Trình bày cách tiến hành thí nghiệm và vẽ đường biểu diễn sự phụ thuộc của nhiệt
độ vào thời gian đun trong quá trình đun sôi nước.
- Phân biệt sự sôi và sự bay hơi của nước; biết các chất lỏng khác nhau sôi ở nhiệt
độ khác nhau.
b. Thiết bị thí nghiệm :
- Ống nghiệm, giá đỡ ống nghiệm, ống thuỷ tinh có thể xuyên qua nút cao su của
ống nghiệm, vòng kim loại và quả bóng bằng kim loại lọt vừa khít vòng, thanh thép.
- Nguồn nhiệt, kẹp để cầm ống nghiệm, các loại nhiệt kế thông dụng, giá đỡ thí
nghiệm.
- Các vật dễ kiếm như: mảnh giấy bạc gói thuốc lá, dây cao su, diêm, nước, dầu
hoả, dầu ăn, băng phiến, nước đá, túi pôliêtilen, lọ, cốc nhựa hoặc thuỷ tinh.…
2. Dạy học theo phương pháp hoạt động nhóm:
Muốn dạy học theo phương pháp hoạt động nhóm, giáo viên cần chia nhóm, phân
công nhiệm vụ cụ thể cho các nhóm, chuẩn bị các nội dung thí nghiệm, phiếu học tập, bài
tập … từ bước dặn dò của tiết trước. Đây là khâu quan trọng giúp học sinh tìm hiểu nội
dung bài học mới, nếu không chuẩn bị kỹ lưỡng tiết dạy sẽ không thành công.
Tổ chức lớp học:
-Lớp học được chia thành các nhóm nhỏ: Số lượng nhóm không quá nhiều vì sẽ
không đủ dụng cụ thiết bị cho các nhóm nhưng cũng không quá ít vì số lượng học sinh
trong một nhóm quá đông sẽ không thuận tiện trong việc thảo luận của học sinh. Nếu số
học sinh trong lớp từ 36 đến 48 thì nên chia thành 6 nhóm nhỏ (Có khoảng từ 6 đến 8
học sinh trong một nhóm.): mỗi nhóm là 2 bàn khi có thí nghiệm thì học sinh ở bàn trên
sẽ quay xuống, để các học sinh trong nhóm ngồi đối mặt nhau. (xem sơ đồ 1)
Tuỳ mục đích yêu cầu của đề tài học tập, sinh hoạt nhóm trong vài phần của tiết
học hoặc ổn định suốt tiết, được giao cùng một nhiệm vụ hoặc những nhiệm vụ khác
nhau. Theo tôi sinh hoạt nhóm chỉ nên diễn ra tối đa là hai lần.
Nhóm tự bầu nhóm trưởng hoặc thư ký để ghi lại kết quả làm chung (giáo viên có
thể chỉ định giúp nếu học sinh chưa quen, thường nhóm trưởng là học sinh nam còn thư
ký là học sinh nữ cả hai phải năng nổ và lanh lợi), Vị trí của nhóm trưởng và thư ký như
trong sơ đồ ở trên, Nhóm trưởng thường chịu trách nhiệm nhận và trả dụng cụ nếu có
dụng cụ nào bị hỏng hoặc mất mát sau khi làm thí nghiệm thì phải báo ngay cho giáo
viên; thư kí chịu trách nhiệm ghi tổng hợp ý kiến thảo luận của nhóm vào phiếu học tập.
Nhóm có thể phân công mỗi thành viên hoàn thành một phần việc, mỗi người đều phải
hoạt động tích cực không ỉ lại vào những người hiểu biết và năng động hơn, phải tôn
trọng ý kiến của các thành viên trong nhóm, cần giúp nhau hoàn thành nhiệm vụ trong
không khí thi đua với các nhóm khác.
3
Sơ đồ 1: Tổ chức nhóm
BẢNG
Nhóm 1
Nhóm 4
Nhóm 2
Nhóm 3
Nhóm 5
Nhóm 6
Cấu tạo của một tiết, một giai đoạn làm việc theo nhóm như sau:
a. Làm việc chung cả lớp:
- Giáo viên nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ chung.
- Giáo viên tổ chức nhóm, giao nhiệm vụ nhóm.
- Giáo viên hướng dẫn cách làm việc theo nhóm.
b. Làm nhiệm vụ:
- Trao đổi ý kiến, thảo luận…
- Thư ký ghi tổng hợp việc làm của nhóm vào phiếu học tập.
- Cử đại diện (thư ký hoặc nhóm trưởng) trình bày kết quả của nhóm.
c. Tổng kết thảo luận chung lớp:
- Mỗi nhóm lần lượt báo kết quả.
- Giáo viên hướng dẫn lớp tham gia thảo luận đi đến kết quả đúng.
- Giáo viên ghi nhận kết quả (nội dung bài học).
3. Thí nghiệm vật lý ở cấp THCS:
3.1. Chức năng của thí nghiệm vật lý:
Theo quan điểm của lí luận nhận thức :Thí nghiệm là phương tiện của việc thu
nhận tri thức, là phương tiện để kiểm tra tính đúng đắn của tri thức đã thu được, là
phương tiện của việc vận dụng tri thức đã thu được vào thực tiễn, là một bộ phận của các
phương pháp nhận thức vật lý.
Theo quan điểm của lý luận dạy học: Thí nghiệm có thể sử dụng ở tất cả các
giai đoạn khác nhau của quá trình dạy học: đề xuất vấn đề cần nghiên cứu, hình thành
kiến thức kỹ năng mới, củng cố kiến thức, kỹ năng đã thu được và kiểm tra, đánh giá kiến
thức kỹ năng của học sinh.
4
3.2. Phân loại thí nghiệm trong nhà trường:
Có hai loại thí nghiệm được sử dụng trong dạy học vật lý ở trường trung học cơ
sở: thí nghiệm biểu diễn (thí nghiệm do giáo viên tiến hành là chính, tuy có thể có hỗ trợ
của học sinh) và thí nghiệm thực tập (thí nghiệm do học sinh tự tiến hành dưới sự hướng
dẫn của giáo viên).
Do tác dụng trên nhiều mặt của thí nghiệm thực tập nên việc tăng cường các thí
nghiệm thực tập là một trong những nội dung của việc đổi mới chương trình, nội dung và
phương pháp dạy học vật lý ở trường trung học cơ sở hiện nay. Phần lớn các thí nghiệm
vật lý được qui định trong chương trình trung học cơ sở mới là thí nghiệm thực tập. Ví
dụ: ở lớp 6 trong tổng số 28 tiết bài học đề tài thì có đến 23 tiết có thí nghiệm thực tập.
Chỉ khi không có điều kiện tổ chức cho học sinh đồng thời làm thí nghiệm trong quá trình
nhận thức như không đủ dụng cụ, thí nghiệm quá phức tạp, mất nhiều thời gian, khó đảm
bảo an toàn trong quá trình học sinh làm thí nghiệm... mới phải sử dụng thí nghiệm biểu
diễn.
3.2.1. Thí nghiệm biểu diễn:
Thí nghiệm biểu diễn được giáo viên tiến hành ở trên lớp, trong các giờ học
nghiên cứu kiến thức mới và có thể ở các giờ học củng cố kiến thức của học sinh. Thí
nghiệm biểu diễn gồm những loại sau:
1. Thí nghiệm mở đầu là thí nghiệm nhằm giới thiệu cho học sinh biết sơ qua về
hiện tượng sắp nghiên cứu, để tạo tình huống có vấn đề, tạo nhu cầu hứng thú học tập của
học sinh, lôi cuốn học sinh vào hoạt động nhận thức. Ví dụ: thí nghiệm nhúng quả bóng
bàn vào nước ấm, trong bài “sự nở vì nhiệt của chất khí”, thí nghiệm sự ngưng tụ của hơi
nước lên thành cốc nước đá, trong bài “sự bay hơi – sự ngưng tụ (tiếp theo).
2. Thí nghiệm nghiên cứu hiện tượng là thí nghiệm nhằm xây dựng hoặc kiểm
chứng lại kiến thức mới, được sử dụng trong giai đoạn nghiên cứu kiến thức mới. Thí
nghiệm nghiên cứu hiện tượng bao gồm: Thí nghiệm nghiên cứu khảo sát, thí nghiệm
minh hoạ. Ví dụ: Thí nghiệm về sự nở vì nhiệt của chất rắn ở bài 18 “sự nở vì nhiệt của
chất rắn”, Thí nghiệm về sự nóng chảy và đông đặc của băng phiến ở hai bài 24 và 25 “
sự nóng chảy và sự đông đặc” và “ sự nóng chảy và sự đông đặc (tiếp theo)”.
3. Thí nghiệm củng cố là thí nghiệm nêu lên những biểu hiện của kiến thức đã
học trong tự nhiên, đề cập các ứng dụng của kiến thức này trong sản xuất và đời sống, đòi
hỏi học sinh phải vận dụng kiến thức đã học để dự đoán hoặc giải thích hiện tượng hay cơ
chế hoạt động của các thiết bị, dung cụ kỹ thuật, thông qua đó giáo viên cũng có thể kiểm
tra mức độ nắm vững kiến thức của học sinh.
3.2.2. Thí nghiệm thực tập
Là thí nghiệm do học sinh tự tiến hành trên lớp, trong phòng học bộ môn, ngoài
lớp, ngoài nhà trường hoặc ở nhà với các mức độ tự lực khác nhau. Gồm có ba loại:
1. Thí nghiệm trực diện:Cũng như thí nghiệm biểu diễn, tùy theo mục đích sử
dụng thí nghiệm trực diện có thể là thí nghiệm mở đầu, thí nghiệm nghiên cứu hiện tượng
được tiến hành dưới dạng nghiên cứu khảo sát hay nghiên cứu minh hoạ và cũng có thể là
thí nghiệm củng cố.Thí nghiệm trực diện có thể được tổ chức dưới hình thức thí nghiệm
đồng loạt (giáo viên chia học sinh thành các nhóm, tất cả các nhóm học sinh cùng lúc làm
các thí nghiệm như nhau với dụng cụ giống nhau để giải quyết cùng một nhiệm vụ)
nhưng cũng có thể dưới hình thức thí nghiệm cá thể (các nhóm học sinh cùng một lúc tiến
5
hành các thí nghiệm khác nhau thường cùng một dụng cụ nhằm giải quyết các nhiệm vụ
bộ phận, để đi tới giải quyết được một nhiệm vụ tổng quát).
So với thí nghiệm trực diện, ngoài các tác dụng về mặt rèn luyện kỹ năng thí
nghiệm, bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu, giáo dục thái độ, tác phong và phương pháp
làm việc tập thể, thí nghiệm trực diện còn có ưu điểm hơn ở chổ: các kết luận được rút ra
trên cơ sở một số lượng nhiều hơn các cứ liệu thí nghiệm, các cứ liệu thí nghiệm này đã
được các nhóm học sinh so sánh, bổ sung; qua đó, học sinh thấy được tính chất khách
quan của các quy luật đang nghiên cứu.
Trong chương trình trung học cơ sở mới nói chung và chương trình vật lý lớp 6
nói riêng , hầu hết các thí nghiệm cần tiến hành đều là thí nghiệm trực diện đồng loạt. Ví
dụ: Thí nghiệm tìm hiểu kết quả tác dụng của lực ở bài 7 “Tìm hiểu kết quả tác dụng của
lực”, thí nghiệm về sự đàn hồi của lò xo ở bài 9 “lực đàn hồi”…
2. Thí nghiệm thực hành: Được tiến hành khi học sinh đã học xong một chương
một phần của chương trình. Thí nghiệm do học sinh thực hiện trên lớp (trong phòng học
bộ môn) mà sự tự lực làm việc cao hơn so với ở thí nghiệm trực diện. Học sinh dựa vào
tài liệu hướng dẫn đã in sẵn (có thể có sự giúp đỡ của giáo viên) mà tiến hành thí nghiệm,
rồi viết báo cáo thí nghiệm.
Ví dụ: Ở chương trình vật lý lớp 6 có hai bài: “Bài 12. Thực hành: xác định
khối lượng riêng của sỏi” và “Bài 23. Thực hành: đo nhiệt độ”
3. Thí nghiệm và quan sát vật lý ở nhà: Là loại bài mà giáo viên giao cho từng
học sinh hoặc các nhóm học sinh thực hiện ở nhà.
Khác với các loại thí nghiệm khác, học sinh tiến hành thí nghiệm và quan sát
vật lý trong điều kiện không có sự giúp đỡ, kiểm tra trực tiếp của giáo viên. Vì vậy. Loại
thí nghiệm này đòi hỏi cao tính tự giác, tự lực của học sinh trong học tập; chỉ đòi hỏi học
sinh sử dụng các dụng cụ thông dụng trong đời sống, các đồ chơi có bán trên thị trường,
những vật liệu dễ kiếm, rẻ tiền hoặc các dụng cụ đơn giản do học sinh tự chế tạo. Chính
đặc điểm này tạo nhiều cơ hội để phát triển năng lực sáng tạo của học sinh trong việc
thiết kế, chế tạo và sử dụng các dụng cụ nhằm hoàn thiện nhiệm vụ được giao.
Nội dung của loại bài làm ở nhà này rất phong phú, có thể ra dưới nhiều dạng
khác nhau: mô tả một phương án thí nghiệm, yêu cầu học sinh tiến hành thí nghiệm, tiên
đoán hoặc giải thích kết quả thí nghiệm : Cho trước dụng cụ, yêu cầu học sinh thiết kế
phương án thí nghiệm để đạt được một mục đích nhất định (quan sát một hiện tượng, xác
định được một đại lượn vật lý); yêu cầu học sinh chế tạo một dụng cụ thí nghiệm đơn
giản (có thể cho trước các vật dụng cần thiết) rồi tiến hành thí nghiệm với dụng cụ này
nhằm đạt được mục đích cho trước … Nội dung của các thí nghiệm ở nhà có thể mang
tính chất định tính hoặc định lượng.
Ví dụ: Sau khi học sinh lớp 6 học xong bài 2: “Đo độ dài (tt)” giáo viên yêu cầu
học sinh về nhà dùng thước đo và kiểm tra thử xem đường chéo màn hình ti vi của mình
là bao nhiêu inch có đúng như số inch mà người bán hàng đã nói không, xác định giới
hạn đo và độ chia nhỏ nhất của các dụng cụ đo độ dài mà ở nhà em có hoặc sau khi học
xong bài 3 : “Đo thể tích chất lỏng” thì yêu cầu học sinh về nhà làm một bình chia độ với
các dụng cụ gồm băng giấy trắng, chai nhựa (hoặc chai nước ngọt…), bơm tiêm hoặc sau
khi học xong bài10: “lực kế- phép đo lực- trọng lượng và khối lượng”, yêu cầu học sinh
về nhà tự làm một cái lực kế hoặc một số bài tập trong sách bài tập có yêu cầu học sinh
6
làm thí nghiệm ở nhà như : bài 4.3, 4.4, 4.5, 4.6 trang 8; bài 6.5 trang 11; bài 15.4 trang
20; bài 16.5, 16.6 trang 21; bài 26-27.9 trang 32.
4. Tổ chức hướng dẫn học sinh làm các loại thí nghiệm tại phòng học:
4.1. Thí nghiệm trực diện:
1. Sự chuẩn bị của giáo viên và học sinh :
a.Đối với giáo viên:
Giáo viên cần phải chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ và phân ra cho mỗi nhóm, dụng
cụ của mỗi nhóm được đặt trong một khay nhựa riêng. Giáo viên phải tiến hành các thí
nghiệm thử, xem có trục trặc gì không để có biện pháp điều chỉnh kịp thời.
Ví dụ: Khi dạy bài 13: Máy cơ đơn giản, dụng cụ cho mỗi nhóm gồm có: 2 lực
kế (GHĐ:3N ), 1 khối trụ kim loại có móc (2N), giáo viên cần phải làm thí nghiệm thử
xem các lực kế có hoạt động tốt và cho kết quả tương đối chính xác không nếu không
phải thay bằng các lực kế khác hoặc khi kéo quả nặng 2N trên mặt phẳng nghiêng (ở bài
14) cần phải kiểm tra xem trục của quả nặng có xoay tốt không nếu trục quả nặng xoay
không tốt và bề mặt của mặt phẳng nghiêng không trơn thì khi kéo lực ma sát sẽ lớn và
kết quả thu được sẽ không chính xác.
Vì thí nghiệm trực diện là một bộ phận của bài học nên giáo viên cần phải
chuẩn bị phương án thí nghiệm ngay trong khi soạn bài. Giáo viên cần dự đoán các
phương án thí nghiệm mà học sinh có thể đề xuất. Phân tích được ưu điểm, nhược điểm
của mỗi phương án để chọn một phương án phù hợp với điều kiện cụ thể về thiết bị thí
nghiệm của nhà trường. Giáo viên có thể huy động sự đóng góp của học sinh bằng các
dụng cụ tự làm, tự tìm kiếm sao cho có đủ số lượng cần thiết các dụng cụ thí nghiệm cho
mỗi bài học.
Ví dụ: Khi tổ chức hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm ở bài 14: Mặt phẳng
nghiêng. Sách giáo khoa yêu cầu dụng cụ thí nghiệm phải có 3 tấm ván có độ dài khác
nhau nhưng thực tế thiết bị của nhà trường không có (có 12 tấm ván bằng nhựa nhưng độ
dài như nhau). Vậy nên giáo viên có thể dự phòng phương án là hạ độ cao của vật kê để
giảm độ nghiêng của mặt phẳng nghiêng hoặc đề nghị mỗi nhóm học sinh chuẩn bị trước
3 tấm ván có độ dài khác nhau (10cm, 15cm, 20cm rộng khoảng 4cm)
Để giảm bớt ghi chép của học sinh trên lớp, giáo viên cần soạn một bản hướng
dẫn học sinh, trong đó chỉ rõ những hoạt động trí óc và những hành động chân tay chủ
yếu cần thực hiện, những số liệu cần thu thập, các câu hỏi cần giải đáp với những chổ
trống để học sinh điền vào sau khi cá nhân làm việc, đã thảo luận trong nhóm và thảo
luận toàn lớp.
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm ở bài 14 “mặt phẳng nghiêng”,
giáo viên soạn sẵn phiếu thí nghiệm sau để phát cho mỗi nhóm:
7
Phiếu thí nghiệm
Nhóm:……………
1.Các bước tiến hành:
-
-
-
-
Đo trọng lượng của vật P=F1, ghi kết quả vào bảng bên dưới.
Đo lực kéo vật F21 trên mặt phẳng nghiêng khi dùng tấm ván 10cm, ghi kết quả.
Đo lực kéo vật F22 trên mặt phẳng nghiêng khi dùng tấm ván 15cm, ghi kết quả.
Đo lực kéo vật F23 trên mặt phẳng nghiêng khi dùng tấm ván 20cm.ghi kết quả.
2.Bảng kết quả thí nghiệm:
Lần đo Mặt phẳng nghiêng
Trọng lượng của
vật: P=F1
Cường độ của lực kéo
vật
1
2
3
Độ nghiêng lớn
Độ nghiêng vừa
Độ nghiêng nhỏ
F21=………………..N
F22=…………………N
F23=…………………N
F1=………..N
3. Nhận xét:
-Dựa vào bảng kết quả hãy so sánh F1 , F21 , F22 , F23?:
………………………………………………………….
4. Kết luận:
Dùng mặt phẳng nghiêng có thể kéo vật lên với lực………………………trọng lượng
của vật.
Mặt phẳng nghiêng có độ nghiêng càng ít, thì lực cần để kéo vật trên mặt phẳng nghiêng
đó càng…………….
b. Đối với học sinh:
Các nhóm học sinh thực hiện nhiệm vụ mà giáo viên đã giao cho. Ví dụ: đầu
giờ, các nhóm trưởng đến phòng thiết bị (nơi đặt các dụng cụ mà giáo viên đã chuẩn bị
sẵn), mang các dụng cụ lên phòng học (mỗi học sinh mang một bộ dụng cụ) và đặt dụng
cụ ngay tại góc phòng gần cửa ra vào. Cuối giờ, giáo viên lại nhờ các nhóm trưởng mang
dụng cụ qua phòng học của lớp khác (nếu giáo viên cũng dạy bài đó ở lớp khác) hoặc
mang trả lại cho phòng thiết bị (nếu giáo viên đã hết tiết dạy của buổi hôm đó). Điều này
giúp giáo viên ít tốn thời gian hơn trong quá trình di chuyển dụng cụ giữa các phòng.
Tìm kiếm những vật liệu, dụng cụ có sẵn hoặc chế tạo một số dụng cụ đơn giản
mà giáo viên đã hướng dẫn cách làm, kê bàn ghế, sắp xếp lại sách vở cho hợp lý. Ví dụ:
Mỗi nhóm chuẩn bị một sợi dây thun cho bài 10: lực đàn hồi; chuẩn bị một viên bi cho
bài 7: Tìm hiểu kết quả tác dụng của lực…
2. Tổ chức và hướng dẫn học sinh:
Để cho việc theo dõi, giúp đỡ các nhóm học sinh được dễ dàng, thuận tiện có
thể bố trí các bàn song song nhau như sơ đồ 1 và lưu ý phải có khoảng cách đủ rộng để
giáo viên và học sinh đi lại dễ dàng khi cần thiết.
Các nhóm trưởng có nhiệm vụ lên nhận các dụng cụ thí nghiệm (các dụng cụ thí
nghiệm được đặt phía dưới sàn nhà nằm ở góc phòng gần cửa ra vào) và kiểm tra, trả
dụng cụ cho giáo viên sau khi thí nghiệm kết thúc.
Đảm bảo cho mọi học sinh trong nhóm đều tích cực, tự lực hoạt động trong giờ
học: từ việc thực hiện một vài thí nghiệm với những dụng cụ đơn giản đã chuẩn bị ở nhà,
quan sát hiện tượng, phát hiện ra điều lạ, điều mới mẽ, trái với những hiểu biết của mình.
8
Phối hợp hình thức làm việc cá nhân, làm việc theo nhóm và làm việc chung
toàn lớp dưới sự hướng dẫn của giáo viên sao cho vừa phát huy tính chủ động, tự lực của
học sinh, vừa tạo điều kiện cho sự giúp đỡ lẫn nhau và phân công, phối hợp công việc
của các nhóm học sinh.
Ví dụ: Khi báo cáo kết quả thí nghiệm hoặc rút ra nhận xét, kết luận, không
nhất thiết yêu cầu nhóm trưởng hoặc thư ký báo cáo mà giáo viên có thể chỉ định bất kỳ
một học sinh nào trong nhóm, nếu học sinh này trả lời không được mà các học sinh khác
(cũng trong nhóm đó) trả lời đựơc thì hoạt động của nhóm chưa tốt và có thể có hình phạt
cho toàn bộ nhóm.
Sự hướng dẫn của giáo viên cần phải đúng lúc, đúng chổ và chỉ với mức độ cần
thiết. Để đảm bảo tiến độ chung của toàn lớp, giáo viên cần bao quát hoạt động của các
nhóm học sinh, giúp đỡ kịp thời khi học sinh gặp khó khăn.
Giáo viên phải nghiêm khắc đối với một số học sinh không tích cực trong hoạt
động nhóm hoặc táy máy khi làm thí nghiệm. Ví dụ: Sau khi học sinh làm song thí
nghiệm và giáo viên có lệnh phải dừng thí nghiệm lại để báo cáo kết quả mà học sinh vẫn
còn táy máy với các dụng cụ thí nghiệm thì giáo viên phải phạt học sinh đó ngay (có thể
bắt học sinh đó phải về nhà chép phạt…).
4.2. Thí nghiệm thực hành:
1. Sự chuẩn bị của giáo viên và học sinh :
a.Đối với giáo viên:
Cần tìm hiểu kỹ nội dung bài thí nghiệm thực hành trong sách giáo khoa để xác
định rõ ràng các nhiệm vụ giao cho học sinh và cách thức kiểm tra, đánh giá việc thực
hiện các nhiệm vụ đó.
Chuẩn bị đầy đủ và kiểm tra chất lượng từng dụng cụ cần thiết cho mỗi nhóm
học sinh.
Ví dụ: Thí nghiệm ở bài 12: Giao cho mỗi nhóm học sinh chuẩn bị sỏi và phải
có máy tính cá nhân để tính khối lượng riêng của sỏi. Thí nghiệm ở bài 23: Nếu nhà học
sinh có nhiệt kế y tế thì mang theo (vì số lượng nhiệt kế y tế ở trường là không nhiều-12
cái)
Phải làm thử tất cả các thí nghiệm trong bài thí nghiệm thực hành để dự kiến
những khó khăn mà học sinh có thể gặp phải trong khi làm thí nghiệm và cách thức
hướng dẫn giúp đỡ học sinh vượt qua những khó khăn đó.
Nếu thấy cần thiết, có thể điều chỉnh nội dung, yêu cầu của bài thí nghiệm thực
hành trong sách giáo khoa sao cho phù hợp với điều kiện thiết bị của trường. Dự kiến
nhiệm vụ bổ sung đối với học sinh khá giỏi.
Ví dụ: Thí nghiệm ở bài 12, phần: đo thể tích của sỏi : Nên chọn bình chia độ
có giới hạn đo 250cm3 và chọn những hòn sỏi nhỏ bằng ngón chân cái của học sinh và
chia làm 3 phần mỗi phần chỉ nên có 3 hòn sỏi (SGK hướng dẫn 5 hòn sỏi cho mỗi phần)
để có thể bỏ vào lần lượt cả ba phần sỏi vào bình chia độ, làm như vậy để tốn thời gian
hơn.
b. Đối với học sinh:
9
Nghiên cứu nội dung bài thí nghiệm thực hành trong sách giáo khoa và Chuẩn
bị bản báo cáo thí nghiệm theo mẫu trong sách giáo khoa. (Tuy nhiên, giáo viên sẽ soạn
sẵn bản báo cáo trên giấy A4 để phát cho học sinh)
Nội dung bài thí nghiệm thực hành gồm những phần chính sau:
-Mục đích thí nghiệm : Nêu lên các mục tiêu cụ thể cần phải đạt được sau khi
học sinh làm thí nghiệm. Ví dụ: Xác định khối lượng riêng của sỏi, đo nhiệt độ cơ thể
bằng nhiệt kế y tế, Theo dõi sự thay đổi nhiệt độ theo thời gian trong quá trình đun nước.
-Cơ sở lý thuyết: Nêu những điểm chính về nội dung các kiến thức đã biết sẽ
được vận dụng trong bài thực hành. Ví dụ: Công thức xác định khối lượng riêng: D=m/V.
đổi đơn vị từ gam ra kilôgam và từ centimet khối ra mét khối, Xác đinh giới hạn đo và độ
chia nhỏ nhất của bình chia độ, nhiệt kế.
-Thiết bị thí nghiệm: Liệt kê những dụng cụ cần sử dụng và cách sử dụng
chúng. Ví dụ: Bình chia độ, cân Rôbécvan, nhiệt kế dầu, nhiệt kế y tế.
-Tiến trình thí nghiệm: Trình tự các thao tác thí nghiệm, các phép đo các bản số
liệu cần thu thập. Ví dụ: Xác định khối lượng của sỏi bằng cân Rôbécvan, Xác định thể
tích của sỏi bằng bình chia độ, tính khối lượng riêng của sỏi theo công thức: D=m/V; Khi
sử dụng nhiệt kế y tế để đo nhiệt độ thì cầm nhiệt kế và vẩy mạnh cho mực thuỷ ngân tụt
xuống dưới mức 350C, kẹp nhiệt kế vào nách hoặc miệng, chờ khoảng 3 phút lấy nhiệt kế
ra và đọc kết quả.
-Xử lý kết quả thí nghiệm: Xem kết quả có phù hợp với lý thuyết hay thực tế
chưa.
-Rút ra kết luận: Đáp ứng các mục tiêu đã đặt ra.
-Báo cáo thí nghiệm: Trình bày các kết quả quan sát, đo đạc, tính toán, kết luận
rút ra…
2. Tổ chức và hướng dẫn học sinh:
Việc phân nhóm và bố trí các bàn thí nghiệm như trong thí nghiệm trực diện.
Tuy nhiên, tốt nhất nên bố trí các bàn theo 3 hàng dọc mỗi hàng 2 nhóm. Các học sinh
trong nhóm sẽ xoay mặt vào nhau, khi cần nhìn lên bảng hoặc nhìn hướng dẫn của giáo
viên thì học sinh sẽ xoay sang trái hoặc sang phải.
Sơ đồ 2:
Bảng
10
Vào đầu buổi thí nghiệm thực hành, giáo viên cần tiến hành những công việc
-Kiểm tra sự chuẩn bị ở nhà của học sinh thông qua các câu hỏi. Ví dụ: Công
sau:
thức tính khối lượng riêng khi biết khối lượng và thể tích? 32 gam bằng bao nhiêu
kilôgam? 20cm3 bằng bao nhiêu mét khối? Tại sao nhiệt kế y tế có giới hạn đo từ 350C
đến 370C….
-Hướng dẫn cách sử dụng các dụng cụ mà học sinh chưa làm quen. Lưu ý cẩn
thận khi sử dụng các thiết bị dễ hỏng hoặc nguy hiểm. Ví dụ: Bỏ sỏi vào bình chia độ thì
phải nghiêng bình để cho sỏi trượt nhẹ xuống dưới, tránh vỡ bình. Khi dùng tay vẫy nhiệt
kế y tế thì cẩn thận tránh nhiệt kế va đập vào bàn, ghế…
-Trong lúc các học sinh thực hiện công việc, giáo viên cần theo dõi, giúp đỡ kịp
thời khi học sinh gặp khó khăn, mắc sai sót để học sinh sử dụng đúng qui tắc các dụng
cụ, ghi lại đầy đủ, chính xác trung thực các hiện tượng quan sát được, các kết quả đo đạc,
trình bày các kết quả dưới dạng biểu bảng, đồ thị, câu kết luận một cách ngắn gọn, rõ
ràng theo nội dung đã chuẩn bị sẵn.
-Sau khi học sinh làm xong thí nghiệm cần yêu cầu học sinh sắp xếp các dụng
cụ gọn gàng như ban đầu, vệ sinh nơi làm thí nghiệm…. Có thể nộp ngay bản báo cáo
hoặc về nhà hoàn chỉnh tiếp, nộp sau.
4.3. Ví dụ: Tổ chức và hướng dẫn học sinh làm thực hành bài 12: thực hành xác định
khối lượng riêng của sỏi. (Ví dụ này chỉ mang tính chất minh hoạ, không phải là một
giáo án thực sự, Nếu trùng tiết thực hành với các khối khác thì bài thực hành này có thể
tổ chức trên lớp học)
I. Mục tiêu:
1. Biết cách xác định khối lượng riêng của một vật rắn.
2. Biết cách tiến hành một bài thực hành vật lý.
II. Dụng cụ:
Mỗi nhóm học sinh:
-1 Cân Rôbécvan.
-1 bình chia độ 250cm3,
-9 hòn sỏi, nước, bút lông, khăn khô, máy tính
III. Chuẩn bị:
1. Giáo viên:
-
-
-
-
-
Đọc kỹ bài thực hành, dự đoán các phương án làm thí nghiệm.
Chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm phân chia ra thành 6 khay (cho 6 nhóm).
Tiến hành thí nghiệm thử (để so sánh với kết quả mà học sinh thực hành đo được)
Chuẩn bị bản báo cáo cho mỗi nhóm học sinh (xem phụ lục 1).
Dặn dò học sinh chuẩn bị cho bài thực hành ở cuối tiết trước (tiết 12 bài 11).
2. Học sinh:
-
Chuẩn bị những dụng cụ do giáo viên dặn dò: 9 hòn sỏi cùng loại to bằng ngón chân
cái, máy tính cá nhân, bút lông, khăn khô.
-
Ôn lại các kiến thức:
+ Cách đo thể tích vật rắn không thấm nước bằng bình chia độ.
+ Cách đo khối lượng một vật bằng cân Rôbecvan.
+ Công thức tính khối lượng riêng dựa vào khối lượng và thể tích: D=m/v.
+ Cách đổi đơn vị: chủ yếu là từ gam ra kilôgam và từ centimet khối ra mét khối.
+ Cách tính giá trị trung bình.
11
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Tổ chức và hướng dẫn học sinh lớp 6 làm thí nghiệm theo nhóm ở môn Vật lý", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_to_chuc_va_huong_dan_hoc_sinh_lop_6_lam_thi_nghiem_theo.pdf