SKKN Tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình trường học mới VNEN

Trò chơi học tập là một hình thức hoạt động thường được đông đảo học sinh hứng thú tham gia trong và ngoài lớp học. Trò chơi học tập môn Tiếng Việt nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh thực hành rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, đồng thời tiếp thu kiến thức môn học một cách tự giác sáng tạo.
MỤC LỤC  
MỤC LỤC ……………………………………………………………………... 1  
I. ĐẶT VẤN ĐỀ ...........................................………………………………... 2  
1. Lý do chọn đề tài ………………………...………………………………... 2  
2. Lịch sử của đề tài ………………………...………………………………... 3  
3. Mục đích nghiên cứu …………………….………………………………... 3  
4. Nhiệm vụ nghiên cứu phương pháp nghiên cứu …...……………........... 3  
5. Giới hạn ( phạm vi) nghiên cứu……………............…..…………...……… 4  
6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu .………...…………..………………... 4  
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ………………………………………………… 4  
1. Cơ sở luận ……………………………...…...……………………….…. 4  
2.Thực trạng ……………………………...….………………………………. 6  
3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề …….................………… 7  
4. Hiệu quả của đề tài ……………………….………………………………. 15  
III. KẾT LUẬN ............................................………………………………. 16  
1. Đúc kết lại nội dung chính đã trình bày ……...…..……………………… 16  
2. Biện pháp triển khai, áp dụng đề tài vào thực tiễn …………...…………... 17  
3. Kiến nghị ………………………………….……………………………… 18  
4. Hướng phát triển của đề tài ……………….……………………………… 18  
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………...………………………………. 19  
1
I. ĐẶT VẤN ĐỀ  
1. Lí do chọn đề tài:  
Môn Tiếng Việt là môn học tầm quan trọng bậc nhất trong các môn  
học ở tiểu học. Bởi lẽ Tiếng Việt không những dạy cho các em biết kiến thức về  
ngôn ngữ trong giao tiếp mà còn giúp các em giữ gìn tiếng mẹ đẻ. Tiếng Việt có  
nhiệm vụ làm giàu vốn từ cho học sinh và trang bị cho các em một số kiến thức  
về từ, câu, cách sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp. Tiếng Việt một thứ tiếng  
giàu đẹp và trong sáng mà lịch sử đã chứng minh rằng “Tiếng Việt trở thành vũ  
khí của dân tộc Việt Nam”.  
Cùng với những môn học khác, môn Tiếng Việt ở tiểu học giữ một vị trí  
hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân cách, phát triển năng lực trí tuệ  
cho học sinh. Nó trang bị cho học sinh những kiến thức cần thiết nhằm phục vụ  
đời sống và phát triển của hội. Môn Tiếng Việt ở tiểu học nói chung và ở lớp  
5 nói riêng quyết định cho việc dạy học Tiếng Việt sau này của học sinh.  
Để thực hiện tốt mục tiêu của môn Tiếng Việt, người giáo viên phải thực  
hiện đổi mới các phương pháp dạy học theo mô hình học tập kiểu mới VNEN,  
sao cho học sinh là người chủ động nắm bắt kiến thức của môn học một cách  
tích cực, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, tự phát  
hiện tự giải quyết vấn đề đặt ra trong bài học. Từ đó chiếm lĩnh nội dung mới  
của bài học, môn học. Giáo viên là người theo dõi quan sát và giúp đỡ các em  
thực hiện mục tiêu đó.  
Trò chơi học tập một hình thức hoạt động thường được đông đảo học  
sinh hứng thú tham gia trong và ngoài lớp học. Trò chơi học tập môn Tiếng Việt  
nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh thực hành rèn luyện các kĩ năng nghe,  
nói, đọc, viết, đồng thời tiếp thu kiến thức môn học một cách tự giác sáng tạo.  
Tham gia vào các trò chơi học tập, học sinh còn được rèn luyện, phát triển về cả  
trí tuệ, thể lực và nhân cách, đáp ứng mục tiêu môn học theo hướng đổi mới  
VNEN đó lấy học sinh làm trung tâm, học sinh tự lĩnh hội chiếm lĩnh kiến  
thức, người giáo viên chỉ là giúp đỡ các em thông qua các hoạt động học.  
Từ những lí do trên cộng với kinh nghiệm đứng lớp, tôi đã thường xuyên  
áp dụng trò chơi vào các tiết học Tiếng Việt. Tôi thấy những trò chơi ấy thật sự  
hiệu quả cao trong giờ học, lại dễ tổ chức, dễ thực hiện, tiết học lại sôi nổi  
gây hứng thú cho học sinh. Vì thế tôi đã chọn và nghiên cứu sáng kiến kinh  
nghiệm: Tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng  
Việt lớp 5 theo mô hình trường học mới VNEN”.  
2. Lịch sử của đề tài:  
Bắt đầu năm học 2008 – 2009, Bộ Giáo dục Đào tạo đã phát động  
phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” nhằm  
mục tiêu: Huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà  
trường để xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả phù hợp  
với địa phương đáp ứng nhu cầu của hội, phát huy tính chủ động, tích cực,  
sáng tạo của học sinh trong học tập và các hoạt động ngoại khóa một cách phù  
2
hợp hiệu quả. Cuộc vận động này đã khích lệ tất cả cán bộ, giáo viên trong  
ngành giáo dục nói riêng và toàn xã hội nói chung đều đồng tình hưởng ứng tích  
cực.  
Mặt khác, Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 tôi đang dạy trường đang thực  
hiện dạy học theo mô hình trường học mới (VNEN) cho nên việc thay đổi  
phương pháp dạy học điều cần thiết phải tiến hành kịp thời. Trong các  
phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh theo mô hình  
trường học mới, phương pháp trò chơi học tập được xem là một trong các  
phương pháp dạy học được sử dụng thường xuyên và có hiệu quả, phù hợp với  
đặc điểm tâm sinh lí học sinh tiểu học đó “học chơi, chơi học”.  
3. Mục đích nghiên cứu:  
Mục đích của đề tài này là xây dựng cơ sở khoa học về tổ chức trò chơi  
nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh. Từ đó xây dựng định hướng cho giáo  
viên trong việc thực hiện tổ chức trò chơi như thế nào là có tính khả thi, hiệu quả  
và phù hợp với đặc điểm của học sinh, khắc phục một số hạn chế, khó khăn và  
lúng túng trong quá trình thực hiện phương pháp dạy học bằng cách thức tổ chức  
trò chơi học tập. Giáo viên dễ dàng hơn khi tổ chức dạy học trên lớp, khắc phục  
được tình trạng truyền thụ kiến thức. Dựa vào thời lượng, thể soạn bài bổ  
sung hoặc điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp đối tượng  
học sinh, đặc điểm, điều kiện cụ thể của địa phương. Học sinh chủ động hơn,  
tích cực hơn trong học tập. Học sinh có cơ hội chia sẻ những trải nghiệm, được  
thực hành và vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào đời sống hàng ngày. Đồng  
thời giúp học sinh phát triển năng lực hội, năng lực hoạt động của bản thân và  
phát huy tốt khả năng sáng tạo. Nhằm góp phần vào tiến trình đổi mới phương  
pháp dạy học nói chung, phương pháp trò chơi nói riêng, từng bước nâng dần  
chất lượng giáo dục của nhà trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa  
đất nước.  
4. Nhiệm vụ phương pháp nghiên cứu:  
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu:  
- Nghiên cứu tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn  
Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình trường học mới VNEN ở trường tiểu học.  
- Nghiên cứu thực tiễn thực trạng của phương pháp tổ chức trò chơi,  
chú ý đến những nguyên nhân dẫn đến tổ chức trò chơi chưa hiệu quả.  
- Đề xuất những giải pháp khả thi qua việc tổng kết kinh nghiệm và  
nghiên cứu tư liệu.  
4.2. Phương pháp nghiên cứu:  
4.2.1. Phương pháp quan sát:  
Quan sát thái độ, sự tích cực của học sinh khi tham gia trò chơi để thu  
thập thông tin, nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan hiệu quả của các trò  
chơi được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu qua từng giai đoạn học của  
học sinh.  
3
4.2.2. Phương pháp thực nghiệm:  
- Áp dụng linh hoạt một số biện pháp tổ chức trò chơi vào trong các giờ  
dạy để nắm bắt sự tác động tích cực, hiệu quả tiết dạy.  
4.2.3. Phương pháp điều tra:  
- Điều tra trực tiếp học sinh để nắm bắt mức độ hứng thú của học sinh khi  
tham gia chơi trò chơi.  
- Trao đổi với đồng nghiệp để hiểu mức độ hiệu quả của sử dụng  
phương pháp tổ chức trò chơi trong quá trình dạy học của họ.  
4.2.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu:  
Căn cứ vào kết quả học tập trước và sau khi áp dụng tổ chức trò chơi vào  
giảng dạy để đối chiếu, so sánh, từ đó đánh giá được mức độ hiệu quả của các  
biện pháp đã áp dụng.  
4.2.5. Phương pháp tổng hợp:  
Thực hiện trong quá trình áp dụng phương pháp tổ chức trò chơi trong  
giảng dạy; theo dõi tổng hợp tất cả các tình huống nhằm rút ra cho mình một số  
kinh nghiệm trong tổ chức trò chơi sao cho hiệu quả.  
5. Giới hạn (phạm vi) nghiên cứu:  
- Nội dung nghiên cứu: Tổ chức trò chơi khi dạy môn Tiếng Việt lớp 5 (tổ  
chức trò chơi cho học sinh lớp 5B theo mô hình trường học mới VNEN) Trường  
Tiểu học Vạn Thọ 1.  
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 5B Trường Tiểu học Vạn Thọ 1.  
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 10/ 2017 đến tháng 3/2018.  
6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu:  
- Nghiên cứu nhiều về phương pháp tổ chức trò chơi học tập qua đó tích  
lũy nhiều kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm phục vụ cho việc giảng dạy môn  
Tiếng Việt lớp 5.  
- Chắc lọc nhiều biện pháp để giúp học sinh có hứng thú trong học tập,  
yêu thích môn học, mong đợi giờ học Tiếng Việt.  
- Thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, giúp học sinh tiếp thu kiến  
thức một cách tự giác, tích cực.  
- Qua các trò chơi, giúp học sinh luyện kỹ năng, kỹ xảo, thao tác và phản  
ứng nhanh nhẹn, thúc đẩy hoạt động trí tuệ, cơ hội học tập đa dạng hơn.  
- Phát huy tính đoàn kết, tinh thần đồng đội cho học sinh, tạo không khí  
vui tươi, học chơi, chơi học.  
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ  
1. Cơ sở luận:  
1.1 Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học:  
4
Học sinh tiểu học một thực thể hồn nhiên, ngây thơ và trong sáng. Ở  
mỗi trẻ em tiềm tàng khả năng phát triển về trí tuệ, lao động, rèn luyện hoạt  
động hội để đạt một trình độ nhất định về lao động nghề nghiệp, về quan hệ  
giao lưu chăm lo cuộc sống cá nhân, gia đình. Trẻ em ở lứa tuổi tiểu học là  
thực thể đang hình thành và phát triển cả về mặt sinh lý, tâm lý, xã hội, các em  
đang từng bước gia nhập vào xã hội thế giới của mọi mối quan hệ. Do đó, học  
sinh tiểu học chưa đủ ý thức, chưa đủ phẩm chất năng lực như một công dân  
trong xã hội, mà các em luôn cần sự bảo trợ, giúp đỡ của người lớn, của gia  
đình, nhà trường và xã hội. Học sinh tiểu học dễ thích nghi và tiếp nhận cái mới  
và luôn hướng tới tương lai. Nhưng cũng thiếu sự tập trung cao độ, khả năng ghi  
nhớ và chú ý có chủ định chưa được phát triển mạnh, tính hiếu động, dễ xúc  
động còn bộc lộ rõ nét. Trẻ nhớ rất nhanh và quên cũng nhanh.  
Ở lứa tuổi tiểu học các em nhận thức còn mang nặng cảm tính. Các em  
thường hiếu động, dễ hưng phấn, khó tập trung, không chú ý lâu hay hướng tới  
các hoạt động cụ thể dễ thấy, dễ hiểu các em không thích các hoạt động kéo dài  
thời gian. Cho nên trong quá trình học tập các em thường thiếu tính kiên trì, mau  
chán, ham chơi. Do đặc đim vtâm lí, bn cht vic hc ca hc sinh tiu hc “hc  
mà chơi, chơi mà hc” là đặc trưng cơ bn cho mi hot động hc tp, lao động, vui  
chơi gii trí và cũng là yêu cu quan trng khi mà chúng ta đang hướng vai trò trung  
tâm ca hc tp, trèn luyn cũng chính là các em.  
1.2. Scn thiết ca vic tổ chức trò chơi học tập cho học sinh lớp 5:  
Hứng thú là một thuộc tính tâm lí - nhân cách quan trọng của con người.  
Hứng thú có vai trò rất quan trọng trong học tập và làm việc, không có việc gì  
người ta không làm được dưới ảnh hưởng của hứng thú. M. Gorki từng nói  
“Thiên tài nảy nở ttình yêu đối với công việc”. Cùng với tự giác, hứng thú làm  
nên tính tích cực nhận thức, giúp học sinh học tập đạt kết quả cao, có khả năng  
khơi dậy mạch nguồn của sự sáng tạo. Trong khi đó, việc khảo sát thực tế dạy  
học ở tiểu học đã cho thấy nhiều học sinh tiểu học không có hứng thú trong học  
tập. Điều này vừa được xem như một biểu hiện vừa được xem như một  
nguyên nhân rất quan trọng của việc suy giảm chất lượng dạy học ở tiểu học.  
Trong thực tế dạy học, giờ học nào tổ chức trò chơi cũng đều gây được  
không khí học tập hào hứng, thoải mái, vui nhộn. Nghiên cứu cho thấy, trò chơi  
học tập khả năng kích thích hứng thú và trí tưởng tượng của trẻ em, kích  
thích sự phát triển trí tuệ của các em. Trò chơi học tập nhất thiết phải một bộ  
phận của nội dung bài học, phải một phần cấu tạo nên bài học. Trong trò chơi,  
khi mọi thứ đều thật, chẳng hạn trong môn Tiếng Việt, từ vẫn từ, câu vẫn là  
câu, trò vẫn là trò, thầy vẫn thầy... trò chơi sẽ bớt phần thú vị. Trò chơi cuốn  
hút trẻ em hơn nếu được sự giả định từ tên gọi, từ người tham gia, từ tình  
huống đến kết quả chơi. dụ nhóm trò chơi Trong vườn cổ tích đã khai thác  
tính giả định của trò chơi từ nguồn văn bản truyện cổ. Khi đó, trò chơi vừa minh  
hoạ sinh động kiến thức, kĩ năng tiếng Việt, vừa tạo ra được một không khí cổ  
tích huyền diệu, gợi lại nội dung các văn bản truyện cổ học sinh đã học ở  
phân môn Tập đọc hay Kể chuyện. dụ, từ truyện Tấm Cám, xây dựng trò  
5
chơi “Chim sẻ giúp cô Tấm” dành cho các bài tập nhận diện, phân loại... Từ  
truyện Sơn Tinh Thuỷ Tinh, có thể xây dựng trò chơi “Dâng núi chống lụt” cho  
những bài tập chính tả, làm giàu vốn từ...  
2. Thực trạng:  
2.1. Thuận lợi:  
* Về phía giáo viên:  
- Được sự quan tâm, động viên to lớn của Ban giám hiệu nhà trường trong  
công tác giảng dạy.  
- Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm chỉ đạo sâu sắc qua các buổi  
thăm lớp dự giờ, xây dựng các bước dạy cũng như bài dạy, môn học, cách tổ  
chức lớp học theo đúng với mô hình học tập VNEN.  
- Bản thân cũng đã có kinh nghiệm giảng dạy nhất định, góp phần làm  
nâng cao chất lượng học tập của lớp qua các năm học.  
- Hầu hết các giáo viên nhiệt tình công tác, chịu khó học hỏi việc đổi mới  
phương pháp dạy học, thương yêu học sinh.  
- Đa số phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học tập của con em mình.  
Bên cạnh đó, còn được sự quan tâm chung của các lực lượng trong và ngoài nhà  
trường.  
- Điều kiện Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 luôn là một trường học đa số  
học sinh chăm chỉ vượt khó trong học tập, nhà trường đặc biệt quan tâm đến  
chất lượng học tập của học sinh.  
- Với mô hình này, giáo viên dễ dàng hơn khi tổ chức dạy học trên lớp,  
khắc phục được tình trạng truyền thụ kiến thức. Dựa vào thời lượng, thể soạn  
bài bổ sung hoặc điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp đối  
tượng học sinh, đặc điểm, điều kiện cụ thể của địa phương.  
* Về phía học sinh:  
- Học sinh có cơ hội chia sẻ những trải nghiệm, được thực hành và vận  
dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào đời sống hàng ngày.  
- Học sinh chủ yếu làm việc theo nhóm nhỏ, được tranh luận đánh giá  
lẫn nhau.  
2.2. Khó khăn:  
* Đối với giáo viên:  
- Giáo viên chưa linh hoạt và làm chủ thời gian trong việc hỗ trợ từng cá  
nhân, từng nhóm để em nào cũng cảm thấy mình được thầy cô quan tâm.  
- Giáo viên chưa điều hành hợp hoạt động giữa các cá nhân, các nhóm  
học sinh, chưa tạo được nhiều hứng thú học tập cho học sinh. Chính vì vậy mà  
nhịp độ học tập độ chênh lệch nhau.  
* Đối với học sinh:  
6
- Học sinh còn quen phong cách chờ đợi giáo viên hướng dẫn từng thao  
tác, từng nhiệm vụ học tập, rất khó quen với tài liệu tự học.  
- Một số em chưa đủ mạnh dạn để hỏi thầy những nội dung, yêu cầu  
chưa hiểu trong tài liệu, các em sẽ không làm việc dẫn đến hiệu quả thảo luận  
trong các nhóm chưa cao.  
- Một số học sinh (nhóm trưởng) không đủ mạnh dạn để đặt các câu hỏi  
gợi mở cho các bạn trong nhóm, chưa đủ tự tin để bảo nhau điều hành hoạt động  
nhóm.  
* Đối với phụ huynh học sinh:  
- Một số phụ huynh học sinh chưa thực svào cuộc chưa nhiều hiểu  
biết về mô hình trường học mới VNEN. Chính vì vậy khi học sinh chia sẻ các  
bài tập ứng dụng với người thân thì kết quả chưa cao, còn mang tính đại khái.  
- Một số phụ huynh học sinh có hoàn cảnh khó khăn, kiến thức, trình  
độ còn thấp nên gặp khó khăn trong việc giúp đỡ con em mình trong học tập.  
2.3. Các nguyên nhân, yếu tố tác động:  
Trong quá trình giảng dạy dự giờ các đồng nghiệp trong trường. Tôi  
nhận thấy rằng giáo viên chưa thường xuyên tổ chức các trò chơi Tiếng Việt cho  
học sinh trong giờ dạy do một số nguyên nhân sau đây:  
- Giáo viên ngại vận dụng tổ chức trò chơi thời gian của mỗi tiết học  
là có hạn, cơ sở vật chất không đáp ứng tốt cho việc tổ chức trò chơi.  
- Để chuẩn bị cho một trò chơi trong tiết học người giáo viên phải chuẩn  
bị rất nhiều (đồ dùng học tập, các thiết bị dạy học, hình thức tổ chức, cách tổ  
chức). vậy mỗi giáo viên khi tiến hành dạy học đều ngại vận dụng hơn.  
- Khi tổ chức trò chơi giáo viên chưa hiểu hết mục đích của trò chơi ấy  
mang lại ý nghĩa gì? Vận dụng kiến thức gì cho môn học. Khi tổ chức các trò  
chơi thì giáo viên giao việc cho học sinh chưa rõ ràng, cụ thể, thời gian quy  
định cho mỗi hoạt động chơi chưa rõ ràng.  
- Học sinh chưa nắm được cách chơi, luật chơi, học sinh chưa mạnh dạn,  
tự tin để tham gia trò chơi.  
Chính vì những nguyên nhân đó bản thân tôi cần nhận thấy phải có  
những phương pháp dạy học phù hợp hơn trong quá trình giảng dạy môn Tiếng  
Việt 5 theo mô hình trường học mới VNEN.  
3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:  
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:  
Lấy học sinh làm trung tâm, học sinh được học theo khả năng của riêng  
mình tự quản, hợp tác và tự giác cao trong học tập. Nội dung học gắn chặt  
chẽ với đời sống hằng ngày của học sinh. Từ đó góp phần hình thành nhân cách,  
giá trị dân chủ, ý thức tập thể theo xu hướng thời đại cho học sinh.  
7
Học sinh phải tham gia các hoạt động học tập một cách tích cực, hứng  
thú, tự tin và tự nhiên. Tạo cho học sinh tính tự giác, tích cực trong học tập.  
Nhóm trưởng đóng vai trò chính trong tiết học hướng dẫn, điều hành tiết học  
hướng dẫn nhẹ nhàng dưới sự trợ giúp đúng mức, đúng lúc của giáo viên, tài  
liệu hướng dẫn học, đồ dùng dạy học Tiếng Việt, để từng học sinh (từng nhóm  
học sinh) tự phát hiện, phân tích và tự giải quyết vấn đề của bài học, tự chiếm  
lĩnh nội dung kiến thức và có thể vận dụng được kiến thức đó vào luyện tập thực  
hành, giúp cho việc phát triển năng lực cá nhân học sinh.  
Giáo viên cần linh hoạt về nhịp độ học tập tùy theo đối tượng học sinh.  
Phụ huynh và cộng đồng phối hợp chặt chẽ với giáo viên giúp đỡ học sinh  
một cách thiết thực trong các hoạt động giáo dục; tham gia giám sát việc học tập  
của con em mình.  
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng trường học kiểu mới VNEN.  
Thay thế các phương pháp dạy học đơn điệu ít tác dụng bằng các phương tiện kĩ  
thuật hiện đại. Giúp học sinh hứng thú trong học tập, hiểu sâu, nhớ lâu kiến  
thức.  
Trò chơi học tập là trò chơi luật của nó bao gồm các qui tắc gắn với  
kiến thức kĩ năng được trong hoạt động học tập, gắn với nội dung bài học,  
giúp học sinh khai thác vốn kinh nghiệm của bản thân để chơi. Thông qua trò  
chơi, học sinh được vận dụng các kiến thức kĩ năng đã học vào các tình huống  
trò chơi và do đó học sinh được luyện tập thực hành củng cố, mở rộng kiến thức,  
kĩ năng đã học.  
Trò chơi học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, tạo ra bầu  
không khí dễ chịu thoải mái trong giờ học,giúp học sinh tiếp thu kiến thức một  
cách tự giác tích cực. Giúp học sinh rèn luyện củng cố kiến thức đồng thời phát  
triển vốn kinh nghiệm được tích luỹ qua hoạt động chơi.  
Trò chơi học tập rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, thúc đẩy hoạt động trí tuệ. Nhờ  
sử dụng trò chơi học tập mà quá trình dạy học trở thành một hoạt động vui và  
hấp dẫn hơn, cơ hội học tập đa dạng hơn.  
Trò chơi không chỉ phương tiện mà còn là phương pháp giáo dục. Như  
Bác Hồ đã nói: “Trong lúc học cũng cần cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần  
cho chúng học”.  
3.2. Tìm hiểu nội dung chương trình, tài liệu học tập 3 trong 1 các  
bài A, B, C môn Tiếng Việt lớp 5:  
Chương trình học Tiếng Việt 5 được thực hiện trong 35 tuần học, ứng với  
35 bài học. Các bài dạy trong tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt 5 được gộp lại  
theo mạch nội dung kiến thức, mỗi bài (được đánh dấu theo thứ tự từ 1 đến 35)  
được thực hiện trong 1 tuần học 8 tiết. Mỗi bài lại được chia ra thành các bài  
nhỏ hơn (được ghi A,B,C) gọi một hướng dẫn học. Một hướng dẫn học được  
thực hiện từ 2 đến 3 tiết, chúng được phân chia như sau:  
* Bài A (Thời lượng 3 tiết):  
8
- Đọc hiểu một văn bản.  
- Nghe –viết, nhớ - viết đoạn văn / thơ.  
- Tìm hiểu kiến thức tiếng Việt, luyện tập về tiếng, từ, câu.  
* Bài B (Thời lượng 3 tiết):  
- Đọc hiểu một văn bản.  
- Kể chuyện theo từng đoạn hoặc toàn bộ câu chuyện.  
- Tìm hiểu thuyết viết đoạn, bài văn, luyện viết đoạn/ bài.  
* Bài C (Thời lượng 2 tiết):  
- Tìm hiểu kiến thức tiếng Việt.  
- Viết đoạn, bài văn.  
* Bài ôn tập A, B, C:  
Nội dung ôn tập: tập đọc, chính tả, luyện từ và câu, tập làm văn. Bài C  
còn có mẫu đề bài kiểm tra đánh giá.  
3.3. Mô tả cách trình bày một bài học, một hoạt động cụ thể ở các bài  
A, B, C:  
- Mỗi hoạt động học tập một đơn vị bài học Tiếng Việt.  
- Mỗi cụm bài học dùng trong 1 tuần gồm 3 bài với 3 hoạt động học tập  
(Ví dụ: bài 1A, 1B, 1C)  
- Mỗi hoạt động học tập gồm 2 phần:  
+ Phần Mục tiêu: nêu yêu cầu về kiến thức, kĩ năng học sinh cần đạt sau  
khi học bài.  
+ Phần Hoạt động bao gồm 3 loại hoạt động:  
* Hoạt động cơ bản với các chức năng:  
- Khơi dậy hứng thú, đam của học sinh với bài mới.  
- Giúp học sinh tái hiện những kiến thức kĩ năng học sinh đã có.  
- Giúp học sinh kết nối những kiến thức, kĩ năng đã với kiến thức, kĩ  
năng mới.  
- Giúp học sinh thu nhận kiến thức, kĩ năng mới qua các hoạt động cụ thể  
như: quan sát, thảo luận, phân tích.  
- Giúp học sinh củng cố kiến thức, kĩ năng mới một cách thú vị qua các  
trò chơi, qua đọc sáng tạo, qua chia sẻ kinh nghiệm vốn sống của cá nhân.  
* Hoạt động thực hành với chức năng: củng cố kiến thức, kĩ năng mới  
bằng cách quan sát để nhận diện kiến thức, kĩ năng mới trong bối cảnh khác.  
9
* Hoạt động ứng dụng với chức năng: hướng dẫn học sinh áp dụng  
những kiến thức, kĩ năng mới vào cuộc sống thực của các em tại gia đình, cộng  
đồng.  
3.4. Tìm hiểu các hình thức dạy học theo mô hình VNEN:  
Trong dạy học Tiếng Việt người giáo viên cần biết vận dụng linh hoạt và  
lựa chọn các phương pháp vào từng hoạt động của các dạng bài học, để hướng  
dẫn học sinh tự tìm tòi chiếm lĩnh kiến thức mới, hướng dẫn học sinh thực hành  
hình thành và rèn luyện kĩ năng Tiếng Việt, hướng dẫn học sinh giảng giải kết  
hợp việc vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ, hay trò chơi  
Tiếng Việt, nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới trong dạy học Tiếng Việt 5.  
Tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động, tạo hứng  
thú học tập cho học sinh là mấu chốt của vấn đề đổi mới.Vì vậy khi giảng dạy  
giáo viên cần kết hợp các hình thức tổ chức dạy học thông qua các hoạt động  
nhóm, hoạt động cá nhân, hoạt động cặp đôi, hoạt động cả lớp sao cho nhịp  
nhàng, hợp nhằm tạo cho tiết dạy hiệu quả, học sinh có hứng thú học tập.  
Đồng thời giáo viên cần phải đảm bảo đủ quy trình 5 các bước lên lớp của mình,  
đó là:  
- Bước 1: Tạo hứng thú cho học sinh.  
- Bước 2. Tổ chức cho học sinh trải nghiệm.  
- Bước 3. Phân tích khám phá rút ra kiến thức mới.  
- Bước 4. Thực hành.  
- Bước 5. Ứng dụng.  
3.5. Một số nguyên tắc thiết kế trò chơi học tập:  
Tổ chức trò chơi học tập mỗi chúng ta phải dựa vào nội dung bài học,  
điều kiện thời gian trong mỗi tiết học cụ thể để đưa ra các trò chơi cho phù hợp,  
song muốn tổ chức được trò chơi trong dạy luyện từ và câu có hiệu quả cao thì  
đòi hỏi mỗi giáo viên phải kế hoạch chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, cặn kẽ đảm  
bảo các yêu cầu sau:  
- Trò chơi mang ý nghĩa giáo dục.  
- Trò chơi phải nhằm mục đích củng cố, khắc sâu nội dung bài học.  
- Trò chơi phải phù hợp với tâm sinh lí của học sinh lớp, phù hợp với khả  
năng người hướng dẫn cơ sở vật chất của nhà trường.  
- Hình thức tổ chức trò chơi phải đa dạng, phong phú.  
- Trò chơi phải chuẩn bị chu đáo.  
- Trò chơi phải gây hứng thú với học sinh.  
3.6. Cấu trúc của trò chơi học tập:  
- Tên trò chơi.  
10  
- Mục đích: Nêu rõ mục đích của trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến  
thức, kĩ năng nào. Mục đích của trò chơi sẽ qui định hành động chơi được thiết  
kế trong trò chơi.  
- Đồ dùng, đồ chơi: tả đồ dùng, đồ chơi được sử dụng trong trò chơi  
học tập.  
- Nêu lên luật chơi: Chỉ rõ qui tắc của hành động chơi qui định đối với  
người chơi, qui định thắng thua của trò chơi, thời gian chơi.  
- Số người tham gia chơi: Cần chỉ số người tham gia chơi.  
3.7. Cách tổ chức chơi:  
- Thời gian tiến hành thường t5-7 phút (tiến hành ngay đầu tiết học hoặc  
thể lồng ghép trong mỗi bài tập, cuối bài học) nhằm thu hút sự chú ý và củng  
cố kiến thức một cách vững chắc hơn qua mỗi loại bài tập tương ứng với mỗi  
loại kiến thức.  
- Đầu tiên là giới thiệu trò chơi :  
+ Nêu tên trò chơi.  
+ Hướng dẫn trò chơi bằng cách vừa tả vừa thực hành, nêu rõ qui định  
chơi.  
- Chơi thử và qua đó nhấn mạnh luật chơi.  
- Chơi thật.  
- Nhận xét kết quả chơi, thái độ của người tham dự, giáo viên có thể nêu  
thêm những tri thức được học tập qua trò chơi, những sai lầm cần tránh.  
- Thưởng “phạt”: phân minh, đúng luật chơi, sao cho người chơi chấp  
nhận thoải mái và tự giác làm trò chơi thêm hấp dẫn, kích thích học tập của học  
sinh. Không nên dùng từ “phạt” đối với những học sinh, đội chơi thua mà có thể  
yêu cầu những học sinh, đội chơi thua trong trò chơi thực hiện những hành động  
theo yêu cầu đã đặt ra trước đó bằng những hình thức đơn giản, vui như hát một  
bài, nhảy cò cò…  
3.8. Một số trò chơi được áp dụng trong quá trình dạy học môn Tiếng  
Việt:  
3.8.1. Trò chơi: Thi xếp nhanh các từ vào nhóm thích hợp  
* Mục đích:  
- Nhận biết nhanh các từ thuộc vốn từ theo chủ điểm đang học và chia  
thành các nhóm từ khác nhau.  
- Luyện trí thông minh nhanh tay, nhanh mắt.  
* Chuẩn bị:  
- 2 tờ giấy khổ to kẻ sẵn khung chia các nhóm từ.  
- 2 bộ thẻ từ.  
11  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 19 trang minhvan 23/10/2024 490
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình trường học mới VNEN", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_to_chuc_tro_choi_nham_gay_hung_thu_cho_hoc_sinh_hoc_mon.doc