SKKN Tích hợp kiến thức văn học vào giảng dạy một số bài trong chương trình lịch sử Việt Nam lớp 12
“ Dòng chảy lịch sử là bất tận, nó tạo nên sức mạnh bất diệt của một dân tộc”. Qủa thật, trong các bộ môn ở trường THPT thì lịch sử là một môn học có một vị trí vô cùng quan trọng trong việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước, các giá trị truyền thống và cách mạng, góp phần xây dựng nhân cách và bản lĩnh con người. Đồng thời học lịch sử còn giúp học sinh có cái nhìn toàn diện hơn về quá khứ, rút ra được những kinh nghiệm quý báu cho hiện tại và từ đó có thái độ ứng xử đúng đắn trong cuộc sống.
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài:
“ Dòng chảy lịch sử là bất tận, nó tạo nên sức mạnh bất diệt của một dân tộc”.
Qủa thật, trong các bộ môn ở trường THPT thì lịch sử là một môn học có một vị trí
vô cùng quan trọng trong việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước, các giá trị truyền thống
và cách mạng, góp phần xây dựng nhân cách và bản lĩnh con người. Đồng thời học
lịch sử còn giúp học sinh có cái nhìn toàn diện hơn về quá khứ, rút ra được những
kinh nghiệm quý báu cho hiện tại và từ đó có thái độ ứng xử đúng đắn trong cuộc
sống.
Thế nhưng một nghịch lí đáng buồn là hiện nay thế hệ trẻ, những chủ nhân tương
lai của đất nước lại quay lưng lại với môn học này vì rất nhiều lí do: như nội dung
chương trình chưa hấp dẫn, còn nặng về kiến thức hàn lâm , ít có cơ hội việc làm
trong tương lai… Ngoài ra, theo tôi còn có lý do không nhỏ xuất phát từ phía người
dạy bộ môn lịch sử, đó là việc dạy chay, đọc chép đã biến giờ học lịch sử thành một
giờ học nhàm chán đối với học sinh đương độ tuổi hiếu kỳ , ham thích yếu tố mới
lạ. Vậy dạy học như thế nào để đạt được hiệu quả tốt nhất là điều mong muốn của
tất cả thầy cô giáo chúng ta. Muốn thế phải đổi mới phương pháp dạy học. Người
giáo viên phải tổ chức một cách linh hoạt các hoạt động của học sinh từ khâu đầu
tiên đến khâu kết thúc giờ học. Để hoàn thành nhiệm vụ này đòi hỏi giáo viên dạy
sử không chỉ có kiến thức vững vàng về chuyên môn mà cần phải có hiểu biết rộng
về các bộ môn khoa học khác để vận dụng vào bài giảng lịch sử. Việc sử dụng tài
liệu tham khảo trong quá trình dạy học lịch sử hết sức cần thiết, giúp giáo viên làm
rõ nội dung sách giáo khoa, kích thích sự hứng thú, chủ động học tập của học sinh,
góp phần nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn lịch sử. Có nhiều loại tài liệu
tham khảo mà ta có thể sưu tầm để nghiên cứu và phục vụ tốt cho việc dạy học lịch
sử ở trường phổ thông như : Tài liệu văn học, tài liệu về các tác phẩm nghệ thuật
như hội hoạ, kiến trúc, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh…Trong đó, các tác phẩm văn
học là nguồn tư liệu quan trọng đối với việc dạy học lịch sử, có ý nghĩa to lớn trong
giáo dục, giáo dưỡng và góp phần hình thành nhân cách cho học sinh. Với mong
muốn sẽ góp phần giúp giáo viên nâng cao hiệu quả giờ dạy lịch sử, học sinh tích
cực chủ động trong việc tiếp thu lĩnh hội kiến thức của bài học, tôi xin mạnh dạn
chon đề tài: “ TÍCH HỢP KIẾN THỨC VĂN HỌC VÀO GIẢNG DẠY MỘT
SỐ BÀI TRONG CHƯƠNG TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 12”
II. Mục tiêu của đề tài:
Bằng những áng thơ văn cô đọng, súc tích, những hình tượng văn học cụ thể, sinh
động góp phần khắc sâu kiến thức lịch sử cho học sinh. Đồng thời làm cho bài
giảng lịch sử trở nên hấp dẫn, tăng cường hứng thú học tập cho học sinh, khắc phục
tính khô khan, khó hiểu của sự kiện lịch sử, giúp các em chủ động nắm bắt tri thức
một cách toàn diện và hiệu quả hơn.
III. Đối tượng nghiên cứu:
1
Phương pháp tích hợp kiến thức văn học vào giảng dạy lịch sử Việt Nam lớp 12 tập
trung ở các bài: Bài 12- Chương I; Bài 16- Chương II; Bài 17, bài 18, bài 20-
Chương III; Bài 22, bài 23 – Chương IV.
IV. Đối tượng khảo sát và thực nghiệm:
Học sinh lớp 12- Trường THPT Vĩnh Linh và một số bài trong phần lịch sử Việt
Nam lớp 12
V. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập tài liệu: Tiến hành sưu tầm các bài thơ, văn… có liên quan
với nội dung các bài lịch sử thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài. Chọn lựa, phân
loại các kiến thức thơ, văn phù hợp với yêu cầu, phương pháp giảng dạy Lịch sử
theo từng mảng.
- Biên soạn theo chủ đề lịch sử: Soạn giáo án khai thác, vận dụng các kiến thức đó
vào từng bài lịch sử đã lựa chọn.
- Phương pháp thực nghiệm:
+ Thao giảng, dự giờ, trao đổi ý kiến với các đồng nghiệp trong quá trình dạy.
+ Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao hiệu quả
+ Áp dụng kinh nghiệm, phương pháp mới trên lớp học.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá kết quả ban đầu để điều chỉnh bổ
sung, kiểm tra đánh giá cuối cùng và hoàn chỉnh công việc.
VI. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu
- Phạm vi:Các tài liệu văn học liên quan đến lịch sử rất phong phú. Trong điều kiện
cho phép, tôi chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Khai thác kiến thức
thơ,văn vào việc giảng dạy một số bài lịch sử Việt Namlớp 12 trong giai đoạn
1919-1975.
- Kế hoạch nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu từ tháng 9/2019 đến tháng 6/2020
2
PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận:
Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông cung cấp cho học sinh những tri thức ở
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc và
thế giới. Do đó việc dạy học tích hợp liên môn sẽ góp phần bổ sung , hỗ trợ và làm
sáng rõ hơn kiến thức môn lịch sử. Ngoài các nguồn tư liệu lịch sử như hiện vật,
văn tự cổ… việc sử dụng các tác phẩm văn học cũng có tác dụng rất lớn trong dạy
học lịch sử.
Xưa nay, người ta thường nói “Văn – sử bất phân”, giữa văn học và sử học
có mối quan hệ khăng khít với nhau. Các tác phẩm văn học là nguồn tư liệu quan
trọng đối với việc dạy học lịch sử, có ý nghĩa to lớn trong giáo dục, giáo dưỡng.
Không ít tác phẩm văn học, tự nó là một tư liệu lịch sử. Vận dụng các tác phẩm văn
học góp phần làm cho bài giảng sinh động, hấp dẫn, nâng cao hứng thú học tập của
học sinh, khắc phục tính khô khan, khó hiểu của sự kiện lịch sử.
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
II.1.1 Thuận lợi
- Ban giám hiệu nhà trường tạo mọi điều kiện thuận lợi về trang thiết bị vật chất
giúp tôi có điều kiện để thực hiện đề tài.
- Hàng năm, sở giáo dục đào tạo Quảng Trị tổ chức cho giáo viên giảng dạy đi tập
huấn về đổi mới phương pháp dạy học. Đặc biệt, trong thời gian gần đây sở giáo
dục vừa tổ chức tập huấn cho giáo viên về dạy học tích hợp liên môn.
- Học sinh có thể tìm kiếm nguồn tư liệu văn học có liên quan đến bài học từ nhiều
kênh thông tin khác nhau: sách giáo khoa văn học, thư viện trường, Internet…
- Nhà trường có đội ngũ giáo viên có năng lực chuyên môn vững vàng, có tinh thần
trách nhiệm cao và rất tâm huyết với nghề.
II.1.2. Khó khăn
- Nội dung chương trình sách giáo khoa lịch sử còn nhiều vấn đề bất cập, không
thực sự tạo thuận lợi cho việc đổi mới phương pháp.
- Trước áp lực thi cử và xu hướng lựa chọn nghề nghiệp hiện nay, nhiều học sinh
và phụ huynh vẫn coi lịch sử là môn phụ nên rất xem thường. Vì vậy môn lịch sử
chưa có một vị trí xứng đáng ở các trường phổ thông.
- Thực tế ở trường THPT Vĩnh Linh đa số học sinh còn lười học và chưa có sự say
mê đối với môn học lịch sử.
- Giáo viên giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường một phần nào đó chưa gây được sự
hứng thú, tìm tòi, khám phá cho học sinh trong việc học bộ môn, cho nên nhiều học
sinh chán ghét bộ môn và học chỉ để đối phó dẫn đến chất lượng kiểm tra một số
em ở một số lớp còn thấp.
Nhằm tạo dựng không khí lớp học sôi nổi, tăng cường hứng thú học tập cho học
sinh bản thân tôi đã cố gắng đưa ra các phương pháp giảng dạy tích cực mà một
3
trong số đó chính là tích hợp kiến thức văn học vào giảng dạy lịch sử, với hi vọng
nâng cao chất lương bộ môn lịch sử trong nhà trường
III. Tổ chức thực hiện: Khai thác một số kiến thức thơ văn vận dụng vào giảng
dạy một số bài trong chương trình lịch sử lớp 12( Phần lịch sử Việt Nam) cụ
thể
1. Bài 12 - Chương I: “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919
đến năm 1925”
a)Khi giảng về những chuyển biến mới về tình hình kinh tế, xã hội nước ta,
giáo viên có thể nhắc đến truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam hay tác phẩm
“Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng (Ngữ văn 11) để thấy được hình ảnh nông thôn và
thành thị nước ta trước Cách mạng tháng Tám. Giảng về giai cấp nông dân Việt
Nam bị bần cùng hóa không lối thoát, ta có thể nhắc đến hình ảnh chị Dậu ( “Tắt
đèn” của Ngô Tất Tố), Lão Hạc (“ Lão Hạc” của Nam Cao) là những hình tượng
tiêu biểu cho số phận đau khổ và bi thảm của người nông dân Việt Nam bị bần
cùng hóa , hay “Chí Phèo” – người nông dân hiền lành lương thiện bị xã hội đẩy
vào con đường tha hóa, lưu manh. Qua nhân vật Hộ trong tác phẩm “ Đời thừa” của
Nam Cao, tác giả đã phản ánh chân thực tình cảnh nghèo khổ, bế tắc của người tri
thức nghèo trong xã hội cũ.
b) Giảng về hoạt động của Nguyễn Aí Quốc, giáo viên có thể gợi cho học sinh
nhớ đến những câu thơ trong bài “ Người đi tìm hình của nước” của Chế Lan Viên
khi nói về những khó khăn vất vả của Người trong hành trình tìm đường cứu nước,
qua đó góp phần khắc sâu trong học sinh những phẩm chất cao đẹp của Người là
tinh thần chịu khó,vượt lên khó khăn để hướng tới mục tiêu phía trước
… “ Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba lê
Một viên gạch hồng Bác chống lại cả mùa băng giá
Và sương mù thành Luân Đôn có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya”…
Hay những câu thơ ghi lại khoảnh khắc xúc động khi Người bắt gặp luận cương
của Lê-nin đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của người. Không những thế, sự kiện này còn mở ra một tương lai tươi sáng
cho dân tộc Việt Nam
…. “ Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê –nin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài đất nước đợi mong tin
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
“ Cơm áo là đây hạnh phúc đây rồi”
Hình của Đảng lồng trong hình của nước
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười”
(“ Người đi tìm hình của nước” của Chế Lan Viên )
4
2. Bài 16 – Chương II:Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng
Tám ( 1939- 1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.
Nhằm khắc họa hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh và tình cảm của Người khi
trở về quê hương sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, có thể khai thác sử
dụng:
“Ôi sáng xuân nay, Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về… Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ…
Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!
Nhớ thương hòn đất ấm hơi Người
Ba mươi năm ấy chân không nghỉ
Mà đến bây giờ mới tới nơi !...”
(“Theo chân Bác”- Tố Hữu)
3. Bài 17- Chương III: Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2- 9-
1945 đến trước ngày 19-12-1946
Khi giảng về phầntình hình nước ta sau Cách mạng tháng Tám, nói đến nạn đói
năm 1945, giáo viên có thể nhắc lại học sinh liên tưởng đến các tác phẩm “Vợ
Nhặt” của nhà văn Kim Lân; tác phẩm “Một bữa no” của Nam Cao…và đặc biệt là
phải nói đến đoạn trích trong Hồi kí “Những năm tháng không thể nào quên” của
Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
4. Bài 18– Chương III: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp (1946- 1950)
a) Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ chủ Tịch đêm ngày 19- 12- 1946)
Giọng của Người không phải sấm trên cao
Thấm từng tiếng ấm vào lòng mong ước
Con nghe bác tưởng nghe lời non nước
Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau
(“ Sáng tháng năm”- Tố Hữu)
Học sinh thấy rằng lời kêu gọi của Bác, là tiếng gọi của non sông đất nước , là
mệnh lệnh của cách mạng tiến công dục dã soi đường chỉ lối cho mọi người Việt
Nam đứng dậy cứu nước.
b)Trong chiến dịch Việt Bắc- Thu Đông năm 1947, Khi đánh giá về căn cứ địa
Việt Bắc, qua thơ ca giáo viên có thể giúp học sinh hình dung đó là một địa thế
hiểm trở, nằm ở vùng Đông Bắc của tổ quốc, nơi có núi non trùng điệp hợp với sở
trường tác chiến của ta, hạn chế được tính cơ động và các phương tiện chiến tranh
hiện đại của địch:
“ Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”
( “ Việt Bắc”- Tố Hữu)
5. Bài 20 – Chương III: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết
thúc (1953 – 1954)
5
Trong phần chiến dịch Điện Biên Phủ, qua những câu thơ trong bài thơ “ Hoan
hô chiến sĩ Điện Biên” của nhà thơ Tố hữu, học sinh thấy được ý chí kiên
cường,tinh thần chiến đấu quả cảm và sự đồng lòng đồng sức của quân dân ta để
giành thắng lợi cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
“…Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn!
Đó là bức chân dung sáng rõ của tập thể những người chiến sĩ Điện Biên trong một
cái nhìn toàn cảnh, còn đây là những đặc tả gương mặt của những anh hùng cụ thể,
có tên tuổi như Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện... đã được nhà thơ
khắc ghi vào lịch sử văn học đời đời:
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão,
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt, còn ôm...
Những bàn tay xẻ núi lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện
Điện Biên Phủ là đỉnh cao của cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh, là cuộc chiến
đấu toàn dân, toàn diện, có sự đóng góp sức lực và xương máu của cả nước. Nhà
thơ đã ngợi ca điều đó trong những vần thơ kế tiếp
Và những chị, những anh ngày đêm ra tiền tuyến
Mấy tầng mây gió lớn mưa to
Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát
Dù bom đạn xương tan, thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh...”
(“ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” – Tố Hữu)
Có thể nói với những câu thơ trong bài thơ “ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” nhà thơ
Tố Hữu đã góp phần mô tả một cách trực diện và sinh động cuộc chiến đấu gian
khổ nhưng vô cùng oanh liệt của quân dân ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Đồng
thời nhà thơ bày tỏ niềm vui hân hoan chiến thắng và xen lẫn niềm tự hào dân tộc
sâu sắc khi được tận mắt chứng kiến thời khắc lịch sử huy hoàng của dân tộc.
6. Bài 22- Chương IV: Nhân dân hai miền trực tiếp chống đế quốc Mĩ xâm
lược. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất ( 1965- 1973)
Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu thân 1968, giáo viên có thể dẫn
dắt bốn câu thơ:
6
“ Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp nước nhà,
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mĩ.
Tiến lên !
Toàn thắng ắt về ta !
(“ Thơ chúc tết xuân Mậu Thân- 1968” – Hồ Chí Minh).
7. Bài 23- Chương IV: Khôi phục và phát triển kinh tế xã hội ở Miền Bắc, giải
phóng hoàn toàn miền Nam(1973- 1975)
Khi phân tích về nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu
nước , giáo viên có thế dẫn dắt các câu thơ:
“…Ôi Việt Nam xứ sở lạ lùng
Đến em thơ cũng hóa những anh hùng
Đến ông dại cũng luyện thành chiến sĩ
Và hoa trái cũng luyện thành vũ khí!...”
( “ Ê-mi-ly,con”- Tố Hữu)
Những câu thơ trên đã phần nào lí giải được một trong những nguyên nhân quan
trọng làm nên chiến thắng của ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ trường kì gian
khổ là truyền thống yêu nước của nhân dân ta, đó là thế trận chiến tranh nhân dân,
phát huy sức mạnh toàn dân. Chính vì vậy mà phía đối phương đã phải thốt lên
rằng cuộc chiến tranh ở Việt Nam là một cuộc chiến tranh kì quặc, một cuộc chiến
tranh không quy ước, ở đâu cũng thấy chiến trường, ở đâu cũng gặp chiến sĩ.
IV. Kết quả đạt được
Với việc tích hợp kiến thức văn học vào giảng dạy một số bài trong chương
trình lịch sử lớp 12, giờ học lịch sử đã trở nên sinh động, hấp dẫn có sức lôi cuốn
đối với học sinh. Các em học tập hăng hái và tích cực, xây dựng bài sôi nổi và yêu
thích bộ môn hơn . Từ đó kết quả học tập cao hơn.
Cụ thể trong năm học qua (2019 - 2020) như sau :
Lớp HK sĩ số
Giỏi
7
11
5
8
3
Khá
22
29
20
25
16
20
TB
12
1
15
7
Yếu
0
0
0
0
Kém
12A1 1
41
41
40
40
32
32
0
0
0
0
0
0
2
12A3 1
2
12B3 1
2
13
6
0
0
6
Đây là kết quả cụ thể của 3 lớp 12, là những lớp tôi đã tích cực thực hiện phương
pháp trên nhiều nhất . Qua đó có thể thấy tỷ lệ học sinh khá, giỏi đã tăng lên đáng
kể trong học kỳ 2 so với học kỳ 1 .
7
PHẦN KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Từ kết quả thu được trong quá trình dạy học lịch sử ở trường THPT, tôi nhận
thấy việc sử dụng thơ văn trong dạy học lịch sử là rất cần thiết và mang lại hiệu quả
cao nếu được sử dụng hợp lí. Đây cũng là một trong những nội dung thể hiện sự đổi
mới phương pháp dạy học. Vận dụng các tác phẩm văn học góp phần làm cho bài
giảng sinh động, hấp dẫn, nâng cao hứng thú học tập của học sinh, khắc phục tính
khô khan, khó hiểu của sự kiện lịch sử, giúp các em chủ động nắm bắt tri thức một
cách toàn diện hơn.
Là người giáo viên giảng dạy môn lịch sử, với niềm đam mê nghề nghiệp tôi xin có
một số đề xuất sau:
- Trước hết, tài liệu văn học được đưa vào sử dụng trong dạy học lịch sử cần được
lựa chọn kĩ càng, phù hợp với nội dung bài học và trình độ nhận thức của học
sinh.Không nên ôm đồm, quá tải trong việc vận dụng kiến thức thơ văn, ảnh hưởng
tới sự tập trung nhận thức của học sinh vào những vấn đề đang học.
- Tài liệu văn học phải đảm bảo cả giá trị giáo dưỡng, giáo dục và cả giá trị văn
học, có nguồn gốc xuất xứ chính xác, rõ ràng.
- Giáo viên cần sử dụng ngữ điệu phù hợp với tài liệu văn học, với nội dung của
sự kiện lịch sử cần minh họa, phải đưa vào bài giảng một cách hợp lí, logic…làm
được điều đó thì tính thuyết phục, hấp dẫn sẽ tăng lên rất nhiều.
Ngoài ra, để tạo hứng thú và lôi cuốn học sinh đến với bộ môn Lịch sử, giáo viên
cần phải nhiệt huyết trong quá trình giảng dạy, sưu tầm bổ sung tư liệu phục vụ cho
việc dạy, tiếp tục học hỏi kinh nghiệm và tìm cách truyền đạt để có được sự vững
chắc trong kiến thức, sự lôi cuốn trong phong cách nhằm cuốn hút học sinh say mê
đối với môn học.
Trên đây là kinh nghiệm của cái nhân tôi muốn trao đổi với các thầy cô cùng
chuyên môn, rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung để bản sáng kiến kinh nghiệm
được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Vĩnh Linh ngày 5 tháng 7 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác .
Người viết
Trần Thị Lê
8
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Phan Ngọc Liên - Trần Văn Trị. Phương pháp dạy học Lịch Sử, NXB Giáo dục,
2004
- Ngô Minh Oanh. Một số vấn đề đổi mới nội dung và phương pháp dạy học lịch
sử ở trường trung học phổ thông, ĐHSP TP.Hồ Chí Minh, 2006
- Sách giáo khoa lịch sử 12, NXB Giáo dục, 2008
- Sách giáo khoa văn học lớp 11 và lớp 12. NXB Giáo dục, 2008
- Phan Ngọc Liên - Nguyễn Xuân Trường. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức
kĩ năng môn lịch sử lớp 12. NXB Giao dục, 2010
- Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình dạy học tích hợp liên môn ở
trường THPT môn Lịch sử. NXB Giáo dục, 2015
9
MỤC LỤC
Phần mở đầu ..........................................................................................................1
I. Lí do chọnđềtài.....................................................................................................1
II. Mục tiêu của đề tài..............................................................................................1
III. Đối tượng nghiên cứu.....................................................................................1
IV. Đối tượng khảo sát và thực nghiệm ..................................................................2
V. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................2
VI. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu.....................................................................2
Phần nội dung .......................................................................................................3
I. Cơ sở lí luận ......................................................................................................3
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu ..........................................................................3
III. Tổ chức thực hiện............................................................................................3
IV. Kết quả thực hiện ............................................................................................7
Kết luận và đề xuất................................................................................................8
Tài liệu tham khảo.................................................................................................9
10
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Tích hợp kiến thức văn học vào giảng dạy một số bài trong chương trình lịch sử Việt Nam lớp 12", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_tich_hop_kien_thuc_van_hoc_vao_giang_day_mot_so_bai_tro.docx