SKKN Tích cực hóa hoạt động tư duy của học sinh trong giờ vật lý
Dạy – Học luôn là một vấn đề được Đảng và nhà nước quan tâm. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho thế hệ tương lai của đất nước. Mục tiêu chung của đổi mới giáo dục hiện nay là giáo dục toàn diện để tạo ra những con người có trí dục, đức dục, mỹ dục, thể dục ... là những lực lượng sáng tạo năng động góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Đề tài: Tích cực hóa hoạt động tư duy của học sinh trong giờ vật lý
MỤC LỤC
NỘI DUNG
Phần thứ nhất: Đặt vấn đề
TRANG
1
3
Phần thứ hai: Giải quyết vấn đề
1. Những vấn đề lí luận liên quan đến đề tài
2. Thực trạng vấn đề
3
6
3. Các biện pháp đã tiến hành
4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm
Phần thứ ba: Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
7
19
22
24
Đề tài: Tích cực hóa hoạt động tư duy của học sinh trong giờ vật lý
PHẦN THỨ NHẤT:
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dạy – Học luôn là một vấn đề được Đảng và nhà nước quan tâm. Đầu tư cho
giáo dục là đầu tư cho thế hệ tương lai của đất nước. Mục tiêu chung của đổi mới
giáo dục hiện nay là giáo dục toàn diện để tạo ra những con người có trí dục, đức
dục, mỹ dục, thể dục ... là những lực lượng sáng tạo năng động góp phần thúc đẩy
sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.Mục tiêu cụ thể của dạy học là
đào tạo con người có năng lực, đặc biệt là năng lực tư duy chứ không đơn thuần chỉ là
kiến thức. Theo đó, vai trò của thầy giáo trong việc xác định mục tiêu dạy học và đổi
mới phương pháp dạy học là hết sức quan trọng, nhằm đào tạo ra những con người
năng động sáng tạo trong cuộc sống, trong khoa học công nghệ, đáp ứng yêu cầu về
nhân lực đối với sự phát triển kinh tế, xã hội trong nước và hội nhập quốc tế.
Trong dạy và học hiện nay thì học sinh là trung tâm của quá trình dạy học, giáo
viên chỉ có vai trò hướng dẫn giúp đỡ còn học sinh chủ động tham gia vào các hoạt
động để tự mình chiếm lĩnh được tri thức. Để khắc phục nhược điểm thụ động trong
học tập của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng học tập, việc đổi mới phương
pháp dạy học là hết sức quan trong và cấp thiết. Trong đó, ngoài việc vận dụng các
phương pháp dạy học tiên tiến, các phương pháp dạy học truyền thống cũng nên được
sử dụng theo hướng tăng cường tính chủ động, tích cực học tập của học sinh. Trong
quá trình dạy học, giáo viên dựa vào vốn tri thức, kĩ năng và khả năng học tập của
học sinh, đề ra các bài tập hay nhiệm vụ phù hợp, có nâng cao hơn so với khả năng
hiện có của học sinh, đòi hỏi học sinh phải có những cố gắng nhất định trong học tập,
như vậy tư duy của học sinh được phát triển, tính tích cực học tập của học sinh được
đề cao.
Trong chương trình Vật lý THCS dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động
của học sinh không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học hiện có và thay vào
đó là các phương pháp mới (phương pháp hiện đại). Các phương pháp dạy học truyền
thống, với nét đặc trưng cơ bản là cung cấp những tri thức khoa học dưới dạng có sẵn
đều có mặt tích cực của nó. Mặt khác, vật lý là một bộ môn khoa học thực nghiệm,
hầu hết các kiến thức được hình thành trên cơ sở làm thí nghiệm. Việc rèn luyện
phát triển tư duy và năng lực sáng tao trong từng giờ học là rất cần thiết. Người giáo
viên phải gợi mở học sinh đi từ những tình huống thực tế, học sinh chủ động hoạt
động (làm thí nghiệm), thảo luận, tư duy để tìm ra những kiến thức mới (những quy
luật, những định luật vật lý …). Từ đó áp dụng vào thực tiễn để giải quyết những
vấn đề trong thực tế. Nếu giáo viên biết cách tìm cách cải tiến để phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong giờ học tập thì sẽ làm cho học sinh suy
nghĩ nhiều hơn, làm việc nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn so với hiện nay.
1/24
Đề tài: Tích cực hóa hoạt động tư duy của học sinh trong giờ vật lý
Nghiên cứu về vấn đề này đã có rất nhiều tài liệu tham khảo của nhiều tác giả
khác nhau. Hầu hết đều đáp ứng được yêu cầu tích cực hoá hoạt động tư duy của học
sinh trong giờ vật lý. Song nhìn chung thường mang tính định hướng, chưa cụ thể đối
với các dạng bài học.
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc tích cực hoá tư duy học sinh trong giờ học
Vật lý nhằm giúp học sinh có phương pháp học tập tốt, lĩnh hội được toàn bộ các kiến
thức trong các giờ học, từ đó vận dụng được vào trong cuộc sống một cách thiết thực
và có hiệu quả tôi đã chọn và áp dụng sáng kiến: “Tích cực hoá hoạt động tư duy
của học sinh trong giờ vật lý ”.
2/24
Đề tài: Tích cực hóa hoạt động tư duy của học sinh trong giờ vật lý
PHẦN THỨ HAI:
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Những vấn đề lí luận liên quan đến đề tài:
Tư duy là những nhận thức khái quát và gián tiếp trong những sự vật và hiện
tượng của hiện thực, trong những dấu hiệu, những thuộc tính bản chất của chúng,
những mối quan hệ khách quan, phổ biến giữa chúng, đồng thời là sự vận dụng sáng
tạo những kết luận khái quát đã thu được vào những điều kiện cụ thể, dự đoán được
thuộc tính, hiện tượng quan hệ mới. Tư duy có những đặc điểm sau đây:
+ Tư duy phản ánh hiện thức khách quan vào trong óc. Bởi vậy tư duy có quan
hệ mật thiết với nhận thức cảm tính, sử dụng những tài liệu cảm tính những kinh
nghiệm thực tế, những cơ sở trực quan sinh động.
+Tính trừu tượng và khái quát của tư duy : Tư duy phản ánh cái bản chất chung
cho nhiều sự vật hiện tượng cụ thể, đồng thời đã tách được cái chung ra khỏi những
sự vật hiện tượng đó. Nhờ tính chất trừu tượng khái quát của tư duy có thể cho phép
ta đi sâu vào bản chất và mở rộng phạm vi nhận thức sang cả những sự vật hiện
tượng mới mà trước đây ta chưa biết.
+Tính gián tiếp : Trong quá trình tư duy, quá trình nhận thức của con người
nhanh chóng thoát khỏi những sự vật cụ thể cảm tính mà sử dụng những khái niệm để
biểu đạt chúng, thay thế những sự vật cụ thể bằng ký hiệu bằng những từ ngữ.
+Tư duy liên hệ chặt chẽ với ngôn ngữ: Ngôn ngữ là phương tiện hình thức
biểu đạt tư duy. Ngôn ngữ cố định lại những kết quả của tư duy, nhờ đó làm khách
quan hoá chúng cho người khác và cho cả bản thân chủ thể tư duy. Không có ngôn
ngữ thì bản thân quá trình tư duy không thể diễn đạt được, đồng thời các sản phẩm
tư duy cũng không thể sử dụng được.
+ Tính có vấn đề : Hoạt động tư duy chỉ bắt đầu khi con người đứng rước một
câu hỏi có vấn đề mà mình quan tâm nhưng chưa giải đáp bằng những hiểu biết đã có
của mình, nghĩa là gặp phải các tình huống có vấn đề.
Có nhiều cách phân biệt tư duy, dựa theo những dấu hiệu khác nhau. Trong dạy
học vật lý người ta quan tâm đến những loại tư duy chủ yếu dưới đây:
*. Tư duy kinh nghiệm:
Tư duy kinh nghiệm là một loại tư duy dựa chủ yếu trên kinh nghiệm cảm tính và
sử dụng các phương pháp “ thử và sai ”. Chủ thể phải thực hiện một nhiệm vụ nào đó,
thử mò mẫn thực hiện một thao tác, hành động nào đó ngẫu nhiên thành công, sau đó
lặp lại đúng như thế mà không biết nguyên nhân vì sao.
3/24
Đề tài: Tích cực hóa hoạt động tư duy của học sinh trong giờ vật lý
Kiểu tư duy này đơn giản, không cần rèn luyện nhiều, có ích trong hoạt động
hàng ngày để giải quyết một số vấn đề trong phạm vi hẹp. Thí dụ đứng trước một
máy thu hình có nhiều nút bấm, ấn nút thứ nhất thì có hình ảnh, ấn nút thứ hai thì có
tiếng mà không hiểu tại sao. Kinh nghiệm này không thể áp dụng cho các máy thu
hình khác trong đó không có nút bấm mà có núm xoáy hoặc núm gạt.
*. Tư duy lý luận:
Tư duy lý luận là loại tư duy để giải quyết nhiệm vụ được đề ra dựa trên sử
dụng những khái niệm trừu tượng, những tri thức lý luận các phép suy luận trong óc.
Đặc trưng của loại tư duy này là:
- Không dừng lại ở kinh nghiệm rời rạc mà luôn hướng tới xây dựng quy tắc,
quy luật chung ngày một sâu rộng hơn.
- Tự định hướng hành động suy nghĩ về cách thức hành động trước khi hành
động.
- Luôn sử dụng những tri thức khái quát đã có để lý giải, dự đoán những sự vật
hiện tượng cụ thể.
- Luôn lật đi lật lại để đạt đến sự nhất quán về mặt lý luận , xác định được
phạm vi ứng dụng của mỗi lý thuyết.
Tư duy rất cần thiết cho hoạt động nhận thức khoa học phải rèn luyện lâu dài
mới có được. Nhờ có tư duy lý luận con người mới có thể đi sâu vào bản chất của sự
vật hiện tượng, phát hiện được quy luật vận động của chúng và sử dụng những tri
thức khái quát đó để cải tạo bản thân và làm biến đổi thế giới tự nhiên, phục vụ lợi
ích của mình.
*. Tư duy lôgic:
Tư duy lôgic là tư duy tuân theo nguyên tắc, quy luật của lô gíc học một cách
chặt chẽ, chính xác không phạm phải sai lầm trong lập luận, biết hiện ra các mâu
thuẫn, nhờ đó mà nhận thức đúng chân lý khách quan.
Lôgíc học là một môn khoa học nghiên cứu những tư tưởng của con người về mặt
hình thức lôgic của chúng và xây dựng những quy tắc, quy luật mà việc tuân theo
chúng là điều kiện cần để đạt tới chân lý trong quá trình suy luận.
Con người bằng những kinh nghiệm của mình đã suy nghĩ theo những quy luật
nhất định rất lâu trước khi những quy luật này được khoa học lôgíc khám phá ra.
Những quy luật của lôgíc học mà mỗi người sử dụng trong quá trình hoạt động
tư duy không phải là tự ý tái tạo mà là sự phản ánh những mối liên hệ và quan hệ
khách quan của các sự vật hiện tượng quanh ta.
4/24
Đề tài: Tích cực hóa hoạt động tư duy của học sinh trong giờ vật lý
Bởi thế dù chưa biết lôgíc học, nhưng con người bằng kinh nghiệm sống của
mình đã trao đổi tư tưởng với nhau, thông hiểu nhau, thống nhất được với nhau
trong một số lập luận phán đoán.
Tuy nhiên điều đó chỉ xảy ra trong một số trường hợp đơn giản, còn khi gặp
những trường hợp phức tạp thì không thể thông hiểu lẫn nhau hoặc khó phân biệt
đúng sai nếu không nắm vững và vận dụng đúng những quy tắc, quy luật lôgíc học.
Ví dụ: Học sinh có thể đễ dàng tin rằng lập luận sau đây dù không hiểu lý do vì
sao:
+ Tất cả các kim loại đều dẫn điện.
+ Vật này là kim loại.
= >Vậy : Vật này dẫn điện
Nhưng họ khó có thể biết rằng lập luận dưới đây là đúng hay sai:
+ Tất cả các kim loại đều dẫn điện.
+ Vật này dẫn điện.
= >Vậy: Vật này là kim loại.
Tuy nhiên đối với học sinh THCS, không thể dạy cho họ lôgic học để sau đó
họ mới vận dụng các quy tắc và quy luật lôgic để suy nghĩ lập luận.
Trái lại không thể giải quyết những nhiệm vụ cụ thể mà tích luỹ dần kinh
nghiệm và đến một lúc nào đó sẽ tự động tổng kết thành những quy tắc đơn giản
thường dùng.
Tư duy lôgíc được sử dụng trong mọi lĩnh vực hoạt động nhận thức khoa học,
cho nên phải thường xuyên rèn luyện cho học sinh.
*. Tư duy vật lý:
Ta hiểu tư duy vật lý là sự quan sát các hiện tượng vật lý, phân tích một hiện
tượng phức tạp thành những bộ phận đơn giản và xác lập giữa chúng mối quan hệ
định tính và định lượng của các hiện tượng đó và các đại lượng vật lý dự đoán các
hệ quả mới từ lý thuyết và vận dụng sáng tạo những kiến thức khái quát thu được
vào thực tiễn.
Các hiện tượng vật lý trong tự nhiên rất phức tạp, nhưng những định luật chi
phối chúng lại rất đơn giản, vì mỗi hiện tượng bị nhiều yếu tố tác động chồng chéo
nhau hoặc nối tiếp nhau mà ta chỉ quan sát được kết quả tổng hợp cuối cùng.
Bởi vậy muốn nhận thức được những bản chất và quy luật của tự nhiên thì việc
đầu tiên phải phân tích được các hiện tượng phức tạp thành những bộ phận, những
giai đoạn bị chi phối bởi một số ít những nguyên nhân, bị tác động bởi một số ít yếu
tố, tốt nhất là một nguyên nhân, một yếu tố.
5/24
Đề tài: Tích cực hóa hoạt động tư duy của học sinh trong giờ vật lý
Có như thế ta mới xác lập được mối quan hệ bản chất trực tiếp, những sự phụ
thuộc định lượng giữa các đại lượng vật lý dùng để đo lường những tính chất của sự
vật hiện tượng
Muốn biết những kết luận khái quát thu được có phản ánh thực tế khách quan
không, ta phải kiểm tra lại thực tiễn. Nếu thí nghiệm xác nhận là chân lý.
Mặt khác, việc vận dụng những kiến thức vật lý khái quát vào thực tiễn tạo
điều kiện cho con người cải tạo thực tiễn, làm cho các hiện tượng vật lý xảy ra theo
hướng có lợi cho con người, thoả mãn được nhu cầu ngày càng tăng của con người.
Trong quá trình nhận thức vật lý như trên, con người sử dụng tổng hợp xen kẽ
nhiều hình thức tư duy, trong đó có hình thức chung như tư duy lý luận, tư duy lôgíc
và những hình thức đặc thù của vật lý học như thực nghiệm, mô hình hoá...
Ví dụ: Quan sát hiện tượng các vật nổi hay chìm trong nước, ta thấy rất phức
tạp. Thông thường vật nặng thì chìm, vật nhẹ thì nổi, nhưng có những trường hợp
vật vật nặng lại nổi vật nhẹ lại chìm. Hai vật nặng như nhau cùng thả trong nước
nhưng một vật thì chìm vật kia lại nổi. Hình như cả trọng lượng, hình dạng, kích
thước, bản chất của vật, của chất lỏng đều ảnh hưởng đến hiện tượng nổi này.
Sự quan sát trực tiếp các hiện tượng đa dạng đó trong tự nhiên khó có thể rút ra
điều gì là chung, khó mà phát hiện được quy luật chi phối hiện tượng.
Ta phải phân tích xem yếu tố nào ảnh hưởng đến hiện tượng nổi và xem xét
từng yếu tố một. Chẳng hạn vật nhúng chìm trong nước chịu tác dụng của hai lực:
Trọng lực kéo vật xuống và nước đẩy vật lên. Lực đẩy của nước lên vật cũng là một
hiện tượng phức tạp phụ thuộc vào cả vật và chất lỏng: Phụ thuộc vào thể tích của
vật và trọng lượng riêng của chất lỏng.
Cuối cùng hiện tượng nổi của vật nhúng trong chất lỏng rất đa dạng và phức tạp
lại bị chi phối bởi một loạt những tính chất, quy luật đơn giản sau đây:
- Trọng lượng riêng của vật: P = d.V
- Lực đẩy của chất lỏng tác dụng lên vật nhúng trong nó bằng trọng lượng của
khối chất lỏng bị vật chiếm chỗ: F = d.V.
- Vật nổi hay chìm là do mối quan hệ giữa P và F quyết định:
P > F
P = F
Vật chìm xuống.
Vật lơ lửng.
P < F
Vật nổi lên.
2. Thực trạng vấn đề
Trong giáo dục hoạt động cơ bản là dạy và học. Trong đó hoạt động dạy học
không chỉ đơn thuần là cung cấp cho các em kiến thức, và kinh nghiệm xã hội mà còn
6/24
Đề tài: Tích cực hóa hoạt động tư duy của học sinh trong giờ vật lý
góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh theo mục
tiêu đào tạo.
Mỗi môn học có một đặc trưng riêng. Môn vật lý là một môn khoa học thực
nghiệm. Các vấn đề mà môn vật lý nghiên cứu đều là những vấn đề liên quan đến các
hiện tượng, quy luật, trong cuộc sống, trong lao động. Nắm được khoa học kỹ thuật
vừa giúp cho học sinh có cơ sở để đạt được những mục đích, yêu cầu đã đề ra ở trên,
đồng thời giúp các em có điều kiện phát triển tốt hơn, hoà nhập được trong tương lai.
•Thuận lợi:
- Nhà trường luôn được sự quan tâm, chỉ đạo của các ngành các cấp trong việc
đổi mới phương pháp dạy học.
- Vật lý là môn học đã được đổi mới chương trình và phương pháp dạy học
nhiều năm, do đó bản thân tôi đã vận dụng một cách linh hoạt phương pháp mới trong
quá trình dạy học.
- Học sinh ngoan ngoãn, lễ phép với thầy cô giáo, một số em có luôn có ý thức
vươn lên trong học tập.
•Khó khăn:
Học sinh trong lớp không đồng đều, có sự chênh lệch về nhận thức rất rõ rệt,
đặc biệt nhận thức về môn học tự nhiên. Lý do là các em chưa biết phương pháp học
tập, rỗng kiến thức nên sinh ra chán học, không muốn đầu tư thời gian, tâm huyết vào
việc tìm tòi khám phá. Không chỉ vậy mà còn có một số học sinh chưa yêu thích môn
học.
3. Các biện pháp đã tiến hành
Tính tích cực trong hoạt động tư duy của học sinh là một hiện tượng sư phạm
biểu hiện ở sự cố gắng hết sức cao về nhiều mặt trong hoạt động nhận thức của trẻ nói
chung. Tính tích cực trong hoạt động tư duy là sự phát triển ở mức độ cao hơn trong
tư duy, đòi hỏi một quá trình hoạt động "bên trong" hết sức căng thẳng với một nghị
lực cao của bản thân, nhằm đạt được mục đích là giải quyết vấn đề cụ thể nêu ra.
Tính tích cực trong hoạt động tư duy của học sinh thể hiện ở những hoạt động trí
tuệ là tập trung suy nghĩ để trả lời câu hỏi nêu ra, kiên trì tìm cho được lời giải hay
của một bài toán khó cũng như hoạt động chân tay là say sưa lắp ráp tiến hành thí
nghiệm. Trong học tập hai hình thức biểu hiện này thường đi kèm nhau tuy có lúc
biểu hiện riêng lẻ. Các dấu hiệu về tính tích cực trong hoạt động tư duy của học sinh
thường được biểu hiện:
– Học sinh khao khát tự nguyện tham gia trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ
sung các câu trả lời của bạn và thích được phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu
ra.
7/24
Đề tài: Tích cực hóa hoạt động tư duy của học sinh trong giờ vật lý
– Học sinh hay thắc mắc và đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề các em chưa
rõ.
– Học sinh chủ động vận dụng linh hoạt những kiến thức, kỹ năng đã có để nhận
thức các vấn đề mới.
– Học sinh mong muốn được đóng góp với thầy, với bạn những thông tin mới
nhận từ các nguồn kiến thức khác nhau có thể vượt ra ngoài phạm vi bài học, môn
học.
Chính vì vậy để tích cực hóa hoạt động tư duy của học sinh tôi mạnh dạn đưa
ra các biện pháp sau:
3.1. Tạo nhu cầu hứng thú, kích thích tò mò, ham hiểu biết của học sinh:
Tư duy là một quá trình tâm lý diễn ra trong óc của học sinh. Tư duy chỉ thực
sự có hiệu quả khi học sinh tự giác mang hết sức mình để thực hiện.
Tư duy chỉ thực sự bắt đầu khi trong đầu óc của học sinh xuất hiện một câu hỏi
mà chưa có lời giải đáp ngay, khi họ gặp phải mâu thuẫn giữa một bên là nhu cầu,
nhiệm vụ nhận thức mới phải giải quyết và một bên là trình độ kiến thức hiện có
không đủ để giải quyết nhiệm vụ đó, cần phải xây dựng kiến thức mới, tìm giải pháp
mới.
Lúc đó học sinh vừa ở trạng thái tâm lý hơi căng thẳng, vừa hưng phấn khao
khát vượt qua được khó khăn, giải quyết được mâu thuẫn đạt được trình độ cao hơn
trên con đường nhận thức. Ta nói rằng học sinh được đặt vào “Tình huống có vấn
đề".
Có thể tạo ra nhu cầu hứng thú bằng cách kích thích bên ngoài, chẳng hạn như:
khen thưởng, sự ngưỡng mộ của bạn bè, gia đình, sự hứa hẹn của một tương lai đẹp,
thực tế xây dựng quê hương đất nước …Những kích thích này không được thường
xuyên, bền vững và phụ thuộc vào nhiều hoàn cảnh của mỗi học sinh. Nhu cầu hứng
thú có thể nảy sinh ngay trong quá trình học tập, nghiên cứu môn học, mỗi bài học
nghĩa là nội dung môn học, từ mâu thuẫn nội tại của quá trình nhận thức. Những tình
huống có vấn đề điển hình trong dạy học vật lý là:
a. Tình huống phát triển:
Học sinh đứng trước một vấn đề được giải quyết một phần, một bộ phận, trong
phạm vi hẹp, cần phải được tiếp tục phát triển, hoàn chỉnh, mở rộng sang những
phạm vi mới, lĩnh vực mới.
Phát triển hoàn thiện vốn kiến thức của mình luôn là niềm khao khát của thế hệ
trẻ. Ngoài ra, như Risa Fâyman nói: Đó cũng là con đường phát triển của khoa học.
Quá trình phát triển hoàn thiện vốn kiến thức sẽ đem lại những kết quả mới ( kiến
thức mới, kỹ năng mới và phương pháp mới ).
8/24
Đề tài: Tích cực hóa hoạt động tư duy của học sinh trong giờ vật lý
Nhưng trong quá trình đó vẫn sử dụng những vốn kiến thức, kỹ năng và
phương pháp đã biết cho đến lúc gặp mâu thuẫn không thể giải quyết được bằng vốn
kiến thức cũ.
Ví dụ 1: Tình huống phát triển kiến thức mới bài : “Sự nở vì nhiệt của chất
rắn”: Sau khi học xong chương cơ học lớp 6, học sinh bước sang phần chương II
nhiệt học. Tình huống dẫn dắt vào bài: GV chiếu cho học sinh quan sát hình ảnh
tháp epphen ở thủ đô nước pháp và giới thiệu chiều cao của tháp đo được vào tháng
1 và tháng 7 có sự khác nhau. Đo chiều cao của tháp vào tháng 7 thì kết quả đo được
cao hơn đo tháng 1 là 10cm. Tại sao lại có sự kỳ là này phải chăng tháp cũng giống
con người cũng lớn lên từng ngày?
Tháng 1
Tháng 7
Ví dụ 2 : Ở lớp 6 khi học về bài “ Sự nở vì nhiệt của chất rắn ”, sau khi học
sinh học đã biết một thanh đồng hay một thanh nhôm khi bị nung nóng sẽ đều nở dài
thêm ra, vấn đề cần xét thêm là: liệu đồng và nhôm có nở giống nhau không?.
Rõ ràng là những kiến thức đã biết không thể trả lời được câu hỏi này, cần phải
nghiên cứu để hoàn thiện thêm sự hiểu biết về sự nở của chất rắn. Giáo viên giới
thiệu học sinh tiếp phần sau.
9/24
Đề tài: Tích cực hóa hoạt động tư duy của học sinh trong giờ vật lý
Ví dụ 3: Tình huống giới thiệu bài đòn bẩy : Giáo viên cho học sinh quan sát
bức tranh 1 và giới thiệu ống bê tông nặng khoảng 2 tạ. Làm thế nào để nâng được
ống bê tông?
Giáo viên nhận xét và đưa ra hình ảnh sau cho học sinh quan sát và giới thiệu
người ta không kéo trực tiếp vật lên mà sử dụng đòn bẩy.
Ví dụ 4: Ở lớp 6, khi học bài “ Đòn bẩy ”, học sinh học xong phần I. Tìm hiểu
cấu tạo của đòn bẩy, thì học sinh đã chỉ ra được các bộ phận 0; 01; 02 và F1; F2 ở
chiếc kéo. Nhưng vấn đề hỏi thêm là tại sao kéo cắt kim loại có tay cầm dài hơn lưới
kéo.
10/24
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Tích cực hóa hoạt động tư duy của học sinh trong giờ vật lý", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
skkn_tich_cuc_hoa_hoat_dong_tu_duy_cua_hoc_sinh_trong_gio_va.doc