SKKN “Tập viết đoạn đối thoại” trong môn tập làm văn lớp 5
Như chúng ta đã biết ở cấp Tiểu học, môn Tiếng Việt đóng vai trò nền tảng, giúp học sinh rèn luyện, trau dồi, phát huy vốn ngôn ngữ mẹ đẻ. Chính vì vậy, khi các em đã đọc viết tương đối thành thạo ở các lớp 2, 3 thì việc hướng dẫn các em sử dụng các kỹ năng: sử dụng từ ngữ, viết câu, giao tiếp, trao đổi, viết văn thành kịch,... ở giai đoạn tiếp theo (các lớp 4, 5) là điều rất quan trọng. Tập làm văn là một phân môn kết tinh tổng hợp các kỹ năng đã được hình thành và phát triển từ các phân môn khác nhau như : Nghe, nói, đọc (phân môn tập đọc); giải nghĩa từ, dùng từ, đặt câu (phân môn luyện từ và câu); viết đúng chính tả, chính âm (phân môn chính tả)...
Mét sè biÖn ph¸p gióp häc sinh "TËp viÕt ®o¹n ®èi tho¹i" trong m«n TLV 5
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH
“TẬP VIẾT ĐOẠN ĐỐI THOẠI” TRONG MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 5
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ.
Như chúng ta đã biết ở cấp Tiểu học, môn Tiếng Việt đóng vai trò nền tảng,
giúp học sinh rèn luyện, trau dồi, phát huy vốn ngôn ngữ mẹ đẻ. Chính vì vậy, khi
các em đã đọc viết tương đối thành thạo ở các lớp 2, 3 thì việc hướng dẫn các em
sử dụng các kỹ năng: sử dụng từ ngữ, viết câu, giao tiếp, trao đổi, viết văn thành
kịch,... ở giai đoạn tiếp theo (các lớp 4, 5) là điều rất quan trọng. Tập làm văn là
một phân môn kết tinh tổng hợp các kỹ năng đã được hình thành và phát triển từ
các phân môn khác nhau như : Nghe, nói, đọc (phân môn tập đọc); giải nghĩa từ,
dùng từ, đặt câu (phân môn luyện từ và câu); viết đúng chính tả, chính âm (phân
môn chính tả)...
Phân môn Tập làm văn còn hình thành và phát triển một hệ thống kỹ năng
riêng: Kỹ năng định hướng hoạt động giao tiếp, kỹ năng lập chương trình hoạt
động giao tiếp,... Quá trình thực hiện các kỹ năng phân tích đề, tìm từ, tìm ý, quan
sát, viết đoạn là những cơ hội giúp trẻ mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo các chủ
điểm đã học. Việc phân tích dàn bài, lập dàn ý, chia đoạn bài văn kể chuyện, miêu
tả biên bản,...góp phần phát triển kỹ năng phân tích, tổng hợp, phân loại của học
sinh. Tư duy hình tượng của trẻ cũng được rèn luyện nhờ vận dụng các biện pháp
so sánh, nhân hóa khi miêu tả cảnh và người.
Học các tiết Tập làm văn, học sinh cũng được tiếp cận với vẻ đẹp của con
người, thiên nhiên qua các bài văn, đoạn văn điển hình. Khi phân tích đề tập làm
văn học sinh lại có dịp hướng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ được định hướng trong
các đề bài. Các bài luyện tập, báo cáo, thống kê, làm đơn, làm biên bản, lập
chương trình hoạt động, chuyển văn thành kịch,... cũng tạo cơ hội cho học sinh thể
hiện mối quan hệ với cộng đồng. Những cơ hội đó làm cho tình cảm yêu mến, gắn
bó với thiên nhiên, với người và việc xung quanh của trẻ nảy nở, tâm hồn, tình cảm
của trẻ thêm phong phú. Đó là những nhân tố quan trọng góp phần hình thành nhân
cách tốt đẹp của trẻ. Để giúp trẻ có được kỹ năng trên còn phải phụ thuộc vào
nhiều yếu tố: Mặt bằng dân trí, đời sống kinh tế, cơ sở vật chất nhà trường, điều
kiện dạy và học, đối tượng học sinh, môi trường giao tiếp,… Trong đó, yếu tố quan
1
Ng-êi thùc hiÖn: §Æng ThÞ B¶y
Tr-êng TiÓu häc DiÔn Yªn 2
Mét sè biÖn ph¸p gióp häc sinh "TËp viÕt ®o¹n ®èi tho¹i" trong m«n TLV 5
trọng quyết định hiệu quả dạy học đối với kiểu bài viết đoạn đối thoại là môi
trường giao tiếp và đối tượng dạy học. Bởi vậy mà tôi đã chọn kiểu bài "Tập viết
đoạn đối thoại " để nghiên cứu tìm ra một vài biện pháp cơ bản giúp HS viết được
các lời thoại của nhân vật trong màn kịch với một thời gian ngắn.
"Tập viết đoạn đối thoại" là một kiểu bài rất mới trong phân môn Tập làm văn
lớp 5. Cả năm học, có chỉ 3 tiết ở Tuần 25, 26 và 29, với mục đích yêu cầu đề ra
cho học sinh là:
Thứ nhất: Biết viết tiếp các lời đối thoại để hoàn chỉnh một đoạn hội thoại
(một màn kịch) dựa theo truyện "Thái sư Trần Thủ Độ" và "Một vụ đắm tàu". Hay
nói cách khác là yêu cầu học sinh biết chuyển một đoạn văn xuôi thành một (hai)
đoạn văn bản kịch bằng biện pháp viết tiếp các lời đối thoại dựa trên cốt truyện đã
có.
Thứ hai: Biết phân vai đọc lại hoặc diễn thử màn kịch.
Qua đó, nhằm giúp học sinh hệ thống, củng cố, sử dụng nhuần nhuyễn các kỹ
năng dùng từ, đặt câu, sử dụng dấu câu, nói, đối đáp, thể hiện thái độ, cử chỉ trong
giao tiếp; nhập vai, thể hiện tính cách của nhân vật trong đoạn đối thoại,... Trong
sinh hoạt, hội thảo, thảo luận bàn về những vấn đề khó ở chương trình phân môn
tập làm văn, chúng tôi thấy đây là một kiểu bài khó với đối tượng học sinh ở địa
bàn chúng tôi.
PHẦN II: NỘI DUNG
1. Thực trạng:
Để đạt mục đích yêu cầu mà kiểu bài "Tập viết đoạn đối thoại" đã nêu ra ở
trên cần có sự tác động, hỗ trợ của nhiều yếu tố: Trình độ dân trí, cơ sở vật chất
của nhà trường, đối tượng học sinh, môi trường giao tiếp, kỹ năng sử dụng phương
pháp dạy học của giáo viên,...
Điều đáng quan tâm nhất ở đây là đối tượng học sinh và môi trường giao
tiếp. Nếu các em được sống trong môi trường văn minh, văn hóa, có nhiều phương
tiện tạo cơ hội, tạo điều kiện giao tiếp như: Trung tâm văn hóa địa phương, truyền
hình, truyền thanh, có đủ sách báo, tạp chí, tài liệu tham khảo, các hoạt động giao
lưu văn hóa, văn nghệ được quan tâm thường xuyên sẽ tạo điều kiện, tiền đề giúp
học sinh có khả năng giao tiếp tốt hơn, tích cực hơn, ứng xử nhạy cảm, linh hoạt
hơn. Đây là cơ sở, là yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả học tập của học sinh về
2
Ng-êi thùc hiÖn: §Æng ThÞ B¶y
Tr-êng TiÓu häc DiÔn Yªn 2
Mét sè biÖn ph¸p gióp häc sinh "TËp viÕt ®o¹n ®èi tho¹i" trong m«n TLV 5
Tập làm văn nói chung và kiểu bài này nói riêng. Không có hoặc thiếu đi một số
yếu tố cơ bản nêu trên sẽ ảnh hưởng đến chất lượng dạy học là điều tất yếu.
Thực tế môi trường giao tiếp của học sinh lớp tôi chỉ bó hẹp trong phạm vi
từ nhà tới trường, từ trường về nhà, ít khi được đi tham quan, giao lưu đây đó và ít
khi được tiếp xúc với phương tiện kỹ thuật hiện đại tiên tiến. Các phương tiện khác
để hỗ trợ cho dạy học của giáo viên và học sinh ở trường cũng quá hạn hẹp. Kết
quả học tập các môn khác của các em cũng không mấy tốt. Bên cạnh đó, vốn ngôn
ngữ, phong cách, kỹ năng thể hiện trong giao tiếp của học sinh cũng còn nghèo
nàn...
Trong năm học 2008-2009, tôi nhận nhiệm vụ dạy phân môn Tập làm văn
lớp 5A. Khi dạy - học kiểu bài này, bản thân tôi cũng như các em học sinh rất khó
khăn trong việc sử dụng, sắp xếp ngôn từ để viết lời thoại, thể hiện cách ứng xử,
đối đáp trực tiếp, sắm vai nhân vật... Do vậy mà kết quả học tập về kiều bài này rất
khiêm tốn.
Cụ thể như sau:
Bảng 1: Thời gian dạy học: Thứ 5 ngày 27 tháng 02 năm 2009 (Tuần 25)
Nội
dung
Số hs
dự kiểm
tra
Kết quả
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
Tập viết
đoạn đối
thoại
0
0%
5
20%
10
40%
10
40%
25
"Xin
Thái sư
tha cho"
Bước vào năm học: 2009-2010 tôi tiếp tục nhận nhiệm vụ dạy phân môn Tập
làm văn lớp 5B, để nội dung dạy học về kiểu bài này đạt kết quả cao hơn. Tôi đã tự
tìm hiểu, nghiên cứu, tìm ra được nguyên nhân chính và cách giải quyết hữu hiệu
nhất cho học sinh của tôi.
* Nguyên nhân
. Học sinh chưa hiểu râ về bản chất của kiểu bài tập viết đoạn đối thoại.
. Học sinh chưa nắm được tính chất của lời thoại trong kịch bản.
3
Ng-êi thùc hiÖn: §Æng ThÞ B¶y
Tr-êng TiÓu häc DiÔn Yªn 2
Mét sè biÖn ph¸p gióp häc sinh "TËp viÕt ®o¹n ®èi tho¹i" trong m«n TLV 5
. Chưa biết khai thác ngữ liệu và các gợi ý lời thoại đã cho trong sách giáo
khoa.
2. Một số biện pháp cơ bản giúp học sinh tập viết đoạn đối thoại.
2.1. Giúp học sinh phân biệt văn bản truyện (văn xuôi) với văn bản kịch.
Để học sinh hiểu rõ bản chất của kiểu bài "Tập viết đoạn đối thoại", người
giáo viên cần làm cho học sinh phân biệt được văn bản truyện (văn xuôi) với văn
bản kịch (đối thoại). ở đây, điều đầu tiên, quan trọng nhất là giáo viên phải phân
biệt, giúp học sinh thấy được tính chất khác biệt của một văn bản truyện với một
văn bản kịch. Sự khác biệt đó thể hiện nổi bật nhất ở:
a/ Ngôn ngữ : Trong văn bản truyện, ngôn ngữ thường được dùng đó là ngôn
ngữ kể chuyện, là những lời trần thuật lại nội dung câu chuyện kể của nhân vật về
những điều, những việc làm đã qua bằng sự thông báo của người dẫn truyện và
những lời chỉ dẫn của tác giả là chủ yếu, để làm toát lên nội dung câu chuyện.
Còn văn bản kịch khác với văn bản truyện ở chổ: Ngôn ngữ trong văn bản
kịch là lời thoại, là ngôn ngữ kịch. Nó đóng vai trò như một phương tiện xây dựng
nên hình tượng nhân vật. Hình tượng nhân vật được khắc họa sinh động qua xung
đột kịch (hành động, lời nói) và mang tính điển hình rõ rệt, phản ánh hiện thực của
cuộc sống với tính chất đa dạng và nhiều chiều.Trong kịch bản: "Cốt truyện kịch
phải được xây dựng tập trung với những sự kiện nổi bật và những tình huống điển
hình" (Từ điển bách khoa việt nam, tập 2 trang 559).
Đồng thời, ở trong mục kịch, từ điển bách khoa Việt nam tập 3, trang 136 đã
ghi rõ về ngôn ngữ kịch như sau: "Là một trong ba hình thức của ngôn ngữ văn
học(ngôn ngữ thơ, ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ kịch), là phương tiện chủ yếu
để bộc lộ tính cách, những nét cá tính và khắc họa hình tượng nhân vật. Ngôn ngữ
nhân vật được biểu hiện dưới hai hình thức phổ biến: Ngôn ngữ đối thoại và ngôn
ngữ độc thoại".
Ngôn ngữ kịch gần gũi với lời nói hàng ngày hơn ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ
kể chuyện. Ngôn ngữ kịch là ngôn ngữ của tính cách của hành động, giàu kịch
tính, súc tích mà dễ hiểu,Nhưng nó lại được coi là ngôn ngữ khó thể hiện trong văn
học. Như vậy, thực chất của ngôn ngữ kịch là ngôn ngữ nói: Nói trong hội thoại và
nói trong độc thoại.
`
Từ các đặc điểm trên của văn bản văn xuôi và văn bản kịch, cho học sinh
phân biệt ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ kịch trong hai đoạn sau:
Đoạn 1: "Có lần, Linh Từ Quốc Mẫu, vợ ông, muốn xin riêng cho một người
làm chức câu đương. Trần Thủ Độ bảo người ấy:
4
Ng-êi thùc hiÖn: §Æng ThÞ B¶y
Tr-êng TiÓu häc DiÔn Yªn 2
Mét sè biÖn ph¸p gióp häc sinh "TËp viÕt ®o¹n ®èi tho¹i" trong m«n TLV 5
- Ngươi có phu nhân xin cho làm chức câu đương, không thể ví như những
câu đương khác, vì vậy, phải chặt một ngón chân để phân biệt. Người ấy kêu van
mãi, ông mới tha cho,...
Đoạn 2: "Lê:- Anh Thành! Mọi thứ tôi thu xếp xong rồi. Sáng mai anh có
thể đến nhận việc đấy.
Thành: Có lẽ thôi anh ạ.
Lê: Sao lại thôi? Anh chỉ cần cơm nuôi và mỗi tháng một đồng. Tôi đã đòi
thêm cho anh mỗi năm hai bộ quần áo và mỗi tháng thêm năm hào... (Nói nhỏ) Vì
tôi nói với họ: Anh biết chữ tàu, lại có thể viết phắc - tuya bằng tiếng tây.
Thành: Nếu chỉ cần miếng cơm, manh áo thì tôi ở Phan thiết cũng đủ sống...".
GV: hỏi: Theo các em, trong hai đoạn văn trên đoạn nào là văn bản văn
xuôi, đoạn nào thuộc văn bản kịch? vì sao?
HS: Đoạn 1 là văn bản truyện
Đoạn 2 là văn bản kịch.
Vì ở đoạn 1 chỉ là những lời trần thuật lại nội dung câu chuyện giữa Trần
Thủ Độ và Phú nông của người dẫn truyện.
Còn ở đoạn 2, là những lời đối đáp trực tiếp giữa anh Lê và anh Thành.
GV: Các đoạn văn trên được trích từ đâu?
HS: Đoạn 1 trích trong truyện Thái sư Trần Thủ Độ.
Đoạn 2 trích trong màn kịch: Người công dân số một.
Có thể cho học sinh phân biệt lời đối thoại và lời độc thoại trong ví dụ sau:
Đoạn 1: "- Mình đang làm gì vậy nhỉ! sao lại thế này? sao mà mình lơ đãng
thế này cơ chứ?
- Không, không thể được, mình phải cố gắng lên!"
Đoạn 2: " Lê:- Vậy anh vào Sài Gòn này làm gì?
Thành: Anh Lê này! anh học trường sa -xơ-lu-lô-ba...thì...ờ...anh là người
nước nào?
Lê: Anh hỏi lạ thật. Anh người nước nào thì tôi là người nước ấy.
Thành: Đúng! Chúng ta là đồng bào. Cùng máu đỏ da vàng với nhau. Nhưng
anh có khi nào nghĩ đến đồng bào không?...
Ở đây, học sinh dễ dàng nhận ra: Đoạn 1 là lời độc thoại, đoạn 2 là lời đối
thoại.
GV chỉ cần hỏi thêm vì sao Đoạn 1 là lời độc thoại, Đoạn 2 là lời đối thoại?
HS: Đoạn 1 là lời độc thoại vì người ấy đang nói một mình,
5
Ng-êi thùc hiÖn: §Æng ThÞ B¶y
Tr-êng TiÓu häc DiÔn Yªn 2
Mét sè biÖn ph¸p gióp häc sinh "TËp viÕt ®o¹n ®èi tho¹i" trong m«n TLV 5
Đoạn 2 là lời đối thoại vì đây là lời đối thoại giữa anh Lê và anh Thành
trong màn kịch: " Người công dân số một".
GV nhấn mạnh: Lời độc thoại cũng là ngôn ngữ kịch.
Mặt khác: Từ điển thuật ngữ văn học do nhà xuất bản giáo dục in năm 2004,
trang 168 có nói rõ về ngôn ngữ trong kịch: "Trong kịch, những lời phát biểu của
nhân vật (trong đối thoại hoặc trong độc thoại) nói lên hành động, ý chí và sự tự
khám phá tích cực của họ có một ý nghĩa quyết định”.
Chẳng hạn: Anh Lê nói với anh Thành (trong màn kịch: Người công dân số một):
" Lê: - Anh ơi, Phú Lãng Sa ở xa lắm đấy. Tàu biển chạy hàng tháng mới tới
nơi. Một suất vé hàng ngàn đồng. Lấy tiền đâu mà đi?
Thành: - Tiền đây chứ đâu? (xòe hai bàn tay ra). Tôi có anh bạn tên là Mai
quê ở Hải Phòng. Anh ấy làm bếp ở dưới tàu La-tút-sơ Tơ-rê-vin. Tôi đang nhờ
anh ấy xin cho một chân gì đó..."
Còn những lời trần thuật (câu chuyện kể của nhân vật về những điều đã qua,
sự thông báo của người dẫn truyện, những lời chỉ dẫn của tác giả trong kịch bản)
chỉ đóng vai trò thứ yếu và nhiều khi không cần đến.
Vậy thì ngôn ngữ kịch là gì? GV phải làm rõ về nó như thế nào?
Thực chất ngôn ngữ kịch là lời thoại (lời đối thoại hoặc độc thoại) là lời phát
biểu của nhân vật được tái hiện lại, và thể hiện trực tiếp bằng lời nói cho chúng ta
nghe thấy. Qua lời thoại mà người nghe (người đọc) hiểu nhân vật, hiểu hoàn cảnh,
hiểu sự việc.
Chẳng hạn: Khi nghe đoạn đối thoại sau thì ta sẽ biết được là lời nói của
lính, Trần Thủ Độ và Phú nông (trong lời thoại mở đầu cho tiết tập viết đoạn đối
thoại: “Xin Thái sư tha cho!”):
"Lính: (Bước vào) - Bẩm Thái sư! Người nhà phu nhân đã tới rồi ạ.
Trần Thủ Độ: - Cho anh ta vào!
(Lính đi ra sau đó dẫn vào một người khoảng 30 tuổi, ăn mặc nhà giàu
nhưng hơi quê kệch.)
Phú nông: - Lạy Đức ông!
Trần Thủ Độ: - Ngươi có phải là Đặng Văn Sửu không?.."
Bởi vậy mà: Kịch bản chỉ là những lời thoại của nhân vật.
b/ Hình thức trình bày văn bản: Khác biệt với văn bản truyện, văn bản kịch được
trình bày theo một hệ thống các lời thoại của nhân vật trong một (hai) màn kịch.
Khi viết lời thoại phải viết tên nhân vật trước (chữ nghiêng), trước lời thoại phải
đặt dấu gạch ngang (gạch đầu dòng) để báo hiệu đó là lời nói của nhân vật. Các từ
6
Ng-êi thùc hiÖn: §Æng ThÞ B¶y
Tr-êng TiÓu häc DiÔn Yªn 2
Mét sè biÖn ph¸p gióp häc sinh "TËp viÕt ®o¹n ®èi tho¹i" trong m«n TLV 5
in nghiêng trong dấu ngoặc đơn đứng đầu hay giữa lời thoại thể hiện thái độ, tác
phong, cử chỉ, tính cách, hành động của mỗi nhân vật (đã thể hiện ở các ví dụ nêu
trên).
2.2. Giúp học sinh phân biệt ngữ liệu ở sách giáo khoa.
Một việc làm không thể thiếu và góp phần cho sự thành công khi dạy học sinh
tập viết đoạn đối thoại là phân tích các ngữ liệu trong sách giáo khoa. Thế nên cần
giúp học sinh nắm và hiểu được sách đã cung cấp cho người đọc:
- Tên đoạn đối thoại cần viết.
- Đoạn trích của truyện làm cơ sở cho việc viết đoạn đối thoại.
- Viết lời thoại dựa vào nội dung chính của đoạn trích.
- Nhân vật xuất hiện trong đoạn đối thoại.
- Gợi ý lời thoại, cụ thể là đã nêu lên sự việc diễn ra trong hoàn cảnh của đoạn đối
thoại.
- Một vài câu thoại mở đầu cho đoạn đối thoại mà học sinh có nhiệm vụ viết tiếp
cho hoàn chỉnh đoạn đối thoại.
Cần lưu ý cho học sinh ở chỗ: Các từ in nghiêng trong dấu ngoặc đơn đứng
đầu hay giữa lời thoại thể hiện thái độ, tác phong, cử chỉ, tính cách, hành động của
nhân vật. Đây là mấu chốt để phân biệt tính cách, hành động của nhân vật mà viết
lời thoại sát đúng, phù hợp vói từng nhân vật. Đồng thời khi thể hiện, tái hiện lại
nhân vật trong kịch bản thì đây là cơ sở giúp cho người được giao nhiệm vụ sắm
vai sẽ thâm nhập và thể hiện thành công hơn.
Như vậy, đề bài đã cung cấp cho học sinh: Một cốt truyện thể hiện trong
đoạn trích làm cơ sở cho việc viết lời đối thoại; các nhân vật của truyện, ý nghĩa
câu chuyện thể hiện trong đoạn trích. Không những thế, đề bài còn cung cấp cho
người học một số gợi ý lời đối thoại; đó chính là những sự việc và một vài câu mở
đầu cho đoạn đối thoại cần viết. Như vậy kiểu bài tập này yêu cầu học sinh chuyển
một đoạn văn xuôi thành một văn bản kịch.
ở đây, mức độ đặt ra chỉ là hoàn chỉnh một đoạn đối thoại đã có câu mở đầu,
đã có nội dung cụ thể ở các gợi ý lời thoại. Nhiệm vụ của học sinh chỉ là viết tiếp
lời thoại của các nhân vật trong đoạn kịch.
Cụ thể: Tập viết đoạn đối thoại ở Tuần 26, sách giáo khoa đã cho ta biết:
1. Đoạn trích trong truyện Thái sư Trần Thủ Độ.
2. Tên đoạn đối thoại cần viết: Giữ nghiêm phép nước.
3. Nhân vật: Trần Thủ Độ; Linh Từ Quốc Mẫu; người quân hiệu; một vài người
lính và gia nô
7
Ng-êi thùc hiÖn: §Æng ThÞ B¶y
Tr-êng TiÓu häc DiÔn Yªn 2
Mét sè biÖn ph¸p gióp häc sinh "TËp viÕt ®o¹n ®èi tho¹i" trong m«n TLV 5
4. Cảnh trí: Một căn phòng rộng có kê án thư, trên có hộp bút, mấy cuốn sách, một
chiếc quạt. Trần Thủ Độ đang ngồi đọc sách.
5. Thời gian: Khoảng gần trưa.
6. Gợi ý lời đối thoại: Linh Từ Quốc Mẫu phàn nàn với Trần Thủ Độ về chuyện bà
bị người quân hiệu coi thường.
- Trần Thủ Độ lệnh cho quân lính đi bắt người quân hiệu.
- Quân lính áp giải người quân hiệu vào.
- Trần Thủ Độ hỏi người quân hiệu có đúng là ông ta bắt vợ ông xuống kiệu
không, có biết bà là phu nhân của Thái Sư không.
- Người quân hiệu khẳng định là anh ta biết và kể lại đầu đuôi câu chuyện.
- Trần Thủ Độ khen ngợi, thưởng vàng và lụa cho người quân hiệu.
7. Có 4 câu thoại mở đầu cho đoạn đối thoại.
Phân tích và hiểu rõ các ngữ liệu trong sách giáo khoa là yếu tố cần thiết giúp
cho học sinh viết được và viết một cách hoàn chỉnh lời thoại cho mỗi nhân vật.
2.3. Giúp học sinh viết hoàn chỉnh lời thoại.
Để hướng dẫn học sinh viết được lời thoại cho nhân vật, giáo viên nhấn mạnh:
Tính cách nhân vật được thể hiện trong lời thoại. Viết lời thoại cho nhân vật, trước
hết phải bắt đầu bằng việc tìm hiểu tính cách nhân vật; và quan trọng hơn là hiểu
tính cách đó thể hiện ra như thế nào trong hoàn cảnh cụ thể của câu chuyện. Hay
nói cách khác, khi viết lời thoại của nhân vật, các em cần làm rõ những tính cách
này của nhân vật. Mỗi nhân vật có một lối nói riêng. Cũng như mỗi nhân vật đã
từng có một tính cách không giống nhau. Chẳng hạn: Tính cách của Trần Thủ Độ
trong truyện "Thái sư Trần Thủ Độ" là nghiêm minh, ngay thẳng, nhân hậu, gương
mẫu,... Còn tính cách của Phú nông là hám danh, hống hách, ít hiểu biết,...
Đây là yếu tố đặc biệt không thể bỏ qua khi viết lời thoại, để có lời thoại đúng
và hay, phù hợp với nội dung đoạn kịch là phải biết dựa vào tính cách nhân vật.
Chẳng hạn: Với tính cách của Phú nông thì viết lời thoại cần phải thể hiện tính hỗn
xược, hách dịch mà kém hiểu biết khi Trần Thủ Độ hỏi ông ta làm thế nào để biết
tội phạm, như là: "Kẻ nào giám trái lệnh quan lại trói cổ ngay lại, tống vào nhà
giam", hay là: "Dạ bẩm... bẩm... con cứ thấy nghi nghi là bắt ạ"... Với tính cách của
Trần Thủ Độ thì viết lời thoại thể hiện tính ngay thẳng, nghiêm minh, nhân hậu
như: "Ngươi tưởng phép nước là chuyện đùa chăng?...( Trần Thủ Độ phán xét tội
nhưng lại tha cho Phú nông) "Ngươi đã biết thì được. Hãy về lo mà làm ăn, làm
một người dân tốt."...
8
Ng-êi thùc hiÖn: §Æng ThÞ B¶y
Tr-êng TiÓu häc DiÔn Yªn 2
Mét sè biÖn ph¸p gióp häc sinh "TËp viÕt ®o¹n ®èi tho¹i" trong m«n TLV 5
Một yếu tố tiếp theo rất đặc biệt quan trọng, là cơ sở, là yếu tố góp phần quyết
định thành công trong kịch bản là cách sử dụng từ hô ứng. Xưng hô trong lời thoại
chính là sự bộc lộ trực tiếp tính cách riêng, thái độ, vị thế xã hội, mối quan hệ,...
của nhân vật. Sau khi nghe xong lời thoại, ta có thể hiểu và thấy rõ về hoàn cảnh,
tính cách, nếp sống, thái độ cư xử... của từng nhân vật trong kịch bản. Đó thường
là: ta- ngươi, con- đức ông, con- phu nhân, ta- hắn, ta- mày, mình - cậu,...dạ, bẩm,
vâng, lạy quan, lạy ngài, hãy, lui, xin,... Hoặc thái độ lo lắng, sợ hãi, vội vã, cương
quyết, dứt khoát,...
Ví dụ: Từ xưng hô giữa Tin-tin và Em bé thứ nhất trong đoạn kịch: Trong công
xưởng xanh (ở vương quốc tương lai) (TV4)
"Tin- tin: - Cậu đang làm gì với đôi cánh xanh ấy?
Em bé thứ nhất: - Mình sẽ dùng nó vào việc sáng chế trên trái đất.
Tin- tin: - Cậu sáng chế cái gì?
Em bé thứ nhất: - Khi nào ra đời, mình sẽ chế ra một vật làm cho con người hạnh
phúc..."
Hay từ xưng hô giưã Trần Thủ Độ và người quân hiệu (trong màn kịch: Giữ
nghiêm phép nước):
"Trần Thủ Độ: - Ngẩng mặt lên! Ngươi có biết phu nhân ta không?
Người quân hiệu: (vẻ lo lắng) - Bẩm Đức ông, con biết phu nhân ạ..."
Hơn thế nữa, khi hướng dẫn học sinh viết lời thoại, giáo viên cũng cần quan
tâm đến các kĩ năng: Dùng từ, sử dụng dấu câu, đặt câu, nghĩa từng câu, chỗ ngắt
nghỉ, nhấn giọng,... Câu thoại phải viết ngắn gọn, súc tích, chính xác mà dễ hiểu,
không chỉ về mặt ngữ pháp mà còn về mặt từ, ý; lời thoại phải bộc lộ nét riêng,
hình tượng riêng của từng nhân vật, trước câu thoại thường đặt dấu gạch ngang để
thể hiện đó là tiếng nói của nhân vật (các ví dụ đã nêu trên). Bởi trong kịch lời
thoại là tất cả. Chẳng hạn: Viết lời thoại về Trần Thủ Độ phải khác với lời thoại
phú nông, quân hiệu, lính hầu... Khi thoại là người nghe nhận ra rằng đó là lời nói
của ai, nói về việc gì, thái độ, mối quan hệ giữa họ ra sao.
Ví dụ: Thái độ cương quyết của Trần Thủ Độ, thái độ lo lắng, sợ hãi của Phú nông
(trong màn kịch: “Xin thái sư tha cho!”)
"Trần Thủ Độ: (cương quyết) - Ta đã nể tình phu nhân mà cho ngươi làm câu
đương đấy thôi. Chặt một ngón chân chỉ là để phân biệt chức câu đương của ngươi
mà thôi.
Phú nông: (vội vã) - Con không giám xin chức này nữa. Xin Thái Sư tha tội cho
con! Xin Thái Sư tha tội cho!...
9
Ng-êi thùc hiÖn: §Æng ThÞ B¶y
Tr-êng TiÓu häc DiÔn Yªn 2
Mét sè biÖn ph¸p gióp häc sinh "TËp viÕt ®o¹n ®èi tho¹i" trong m«n TLV 5
Như vậy, các lời thoại trong một màn kịch có sự liên kết chặt chẽ với nhau. Lời
thoại sau là sự tiếp diễn về kết cấu, nội dung, mục đích, thái độ, hành động, sự
việc... được nêu ra trong lời thoại trước. Lời thoại được viết theo lối mở, linh hoạt,
không gò ép, áp đặt đơn điệu theo một hình thức nhất định nào đó. Có nghĩa là
cùng một tình huống (một sự việc, một hành động...) nào đó của một nhân vật,
nhưng ta có thể viết lại bằng nhiều lời thoại khác nhau. Miễn rằng, khi kết thúc
màn kịch thì "hậu" của nó không thay đổi.
Chẳng hạn: Kết thúc màn kịch" Giữ nghiêm phép nước", người quân hiệu được
Trần Thủ Độ ban thưởng thì viết lời thoại để kết thúc màn kịch phải thể hiện có
ban thưởng cho người quân hiệu, chứ không thể không có thưởng.
* Trong khi học sinh viết lời thoại, giáo viên cần hướng cho các em viết
được hai hoặc ba lời thoại cho một gợi ý. Sau đó, giúp các em thảo luận chọn ra lời
thoại đúng, hay, phù hợp nhất với nhân vật (cụ thể ở hoạt động 2: Làm mẫu được
giới thiệu trong giáo án). ë nội dung này, giáo viên dành thời gian cho học sinh
tương đối nhiều hơn so với hoạt động khác (10 phút) (đối tượng học sinh lớp tôi).
Lời thoại đã được viết xong, giáo viên tổ chức cho học sinh sắm vai, tập nói
lời thoại theo nhóm. Trong từng nhóm, mỗi em được sắm vai một nhân vật, tái
hiện lại lời nói, hành động của nhân vật mà mình lựa chọn. Bước tiếp theo là các
nhóm được thoại trước lớp, là cơ hội để các em phát huy, thể hiện khả năng của
mình; tạo không khí thi đua, sôi nổi, vui nhộn trong lớp học. Đây là hoạt động bổ
ích nhất cho các em; qua tập thoại, các em sẽ đánh giá, so sánh được kết quả của
nhóm mình - nhóm bạn. Từ đây, các em lại rút kinh nghiệm chỉnh sửa, bổ sung lời
thoại một lần nữa (nếu cần), để hoàn chỉnh lời thoại, hoàn chỉnh kịch bản; sản
phẩm đích thực mà các em đã đạt được theo yêu cầu, mục đích tiết học đề ra
(cụ thể ở hoạt động 3: Làm theo mẫu đã được giới thiệu trong giáo án).
Đây là biện pháp trọng tâm nhất, cơ bản nhất trong ba biện pháp mà tôi đã
nêu ra ở trên; giáo viên chủ động, vận dụng linh hoạt biện pháp này sẽ là yếu tố
quyết định hiệu quả của tiết học. Còn biện pháp một và biện pháp hai là cơ sở, tiền
đề cho việc thực hiện thành công biện pháp thứ ba.
2.4. Các hoạt động cơ bản để tiến hành dạy học"Tập viết đoạn đối thoại".
* Hoạt động 1: Tìm hiểu yêu cầu bài.
* Hoạt động 2: Làm mẫu: Giúp học sinh thể hiện lời thoại của 1,2,... sự việc và
nhận xét, chỉnh sữa lời thoại.
* Hoạt động 3: Làm theo mẫu:
10
Ng-êi thùc hiÖn: §Æng ThÞ B¶y
Tr-êng TiÓu häc DiÔn Yªn 2
Mét sè biÖn ph¸p gióp häc sinh "TËp viÕt ®o¹n ®èi tho¹i" trong m«n TLV 5
a. Thoại trong nhóm: Sắm vai, tập thoại, nhận xét lời thoại, góp ý chỉnh sửa cho
nhau.
b. Thoại trước lớp: Một vài nhóm sắm vai, thoại trước lớp, lớp nhận xét, đánh giá,
chỉnh sửa lời thoại.
c. Viết lời thoại: Học sinh tự viết lời thoại sau khi đã nghe nhận xét và rút kinh
nghiệm của bạn.
Cả ba hoạt động trên có mối quan hệ khăng khít với nhau; hỗ trợ cho nhau,
hoạt động này là điều kiện, tiền đề cho hoạt động kia và ngược lại. Với đối tượng
học sinh của tôi, khi dạy không xem nhẹ hoặc bỏ qua hoạt động nào. Có thể nhấn
mạnh thêm ở hoạt động 2,3.
* Hoạt động 4: Củng cố.
Sau đây, tôi xin giới thiệu giáo án dạy tiết Tập viết đoạn đối thoại: "Giữ
nghiêm phép nước" Tuần 26 mà tôi đã thực hiện ở lớp tôi dạy học (chỉ giới thiệu
phần dạy bài mới).
TẬP VIẾT ĐOẠN ĐỐI THOẠI: GIỮ NGHIÊM PHÉP NƯỚC
Nội dung Thời Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
cơ bản
gian
.
- Trong tiết học hôm nay, các
em tập viết đoạn đối thoại "Giữ - Nghe
nghiêm phép nước".
Dạy bài
mới
- Yêu cầu 1 HS đọc mục 1,2 - 1 em ®äc môc 1, môc 2
trong SGK
Hoạt
- Bài tập này, yêu cầu chúng ta - Tr¶ lêi: ChuyÓn mét ®o¹n
động 1
làm gì?
truyÖn th¸i s- TrÇn Thñ §é
Nhấn mạnh (NM): Các em viết thµnh mét mµn kÞch b»ng
tiếp các lời thoại để hoàn chỉnh c¸ch viÕt tiÕp c¸c lêi ®èi
màn kịch
tho¹i.
Tìm hiểu
yêu cầu 5p
- Hãy đọc đoạn trích trong - Đọc đoạn trích.
truyện thái sư Trần Thủ Độ và
bài
cho biết đoạn trích giúp ta hiểu - Trả lời: Trần Thủ Độ là
thêm điều gì về Thái sư?
người công minh, ngay
thẳng, nhân hậu.
11
Ng-êi thùc hiÖn: §Æng ThÞ B¶y
Tr-êng TiÓu häc DiÔn Yªn 2
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN “Tập viết đoạn đối thoại” trong môn tập làm văn lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_tap_viet_doan_doi_thoai_trong_mon_tap_lam_van_lop_5.doc