SKKN Tạo môi trường học tốt hơn cho trẻ có cá tính mạnh

Trong suốt thời gian ra trường thực dạy, đứng trên bục giảng trải nghiệm 10 năm thực tế, tôi luôn gặp những học sinh đặc biệt này, hầu như ở lớp nào cũng có, với những mức độ đặc biệt khác nhau.
PHẦN THỨ NHẤT  
MỞ ĐẦU  
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI  
Hơn lúc nào hết ngành Giáo dục đang đứng trước nhiều thách thức. Chúng ta  
đang thực sự được quan tâm sâu sắc, thậm chí là soi xét kỹ lưỡng của toàn xã  
hội về các vấn đề của ngành giáo dục, trong đó phải kể đến là các vấn đề mang  
tính chất “sự cố”.  
Không như các ngành nghề khác trong xã hội, ngành giáo dục một ngành  
nghề đặc biệt sản phẩm của chúng ta là những con người, những sản phẩm  
có giá trị hơn bất cứ sản phẩm tiên tiến hiện đại nào khác hiện nay. Tuy nhiên  
những người thầy, người cô, những nhà giáo đang gặp rất nhiều khó khăn nảy  
sinh mà nếu không thực sự linh hoạt sẽ không theo kịp sự vận động, thay đổi của  
hội hiện tại.  
hội sự thay đổi, tư duy con người sự thay đổi. Nếu như trước đây  
người thầy được coi là cha là mẹ thì giờ đây người thầy đóng vai trò như một sứ  
giả tri thức, một người định hướng, thậm chí là một người bạn.  
Nếu trước đây người thầy chỉ dạy học theo sách vở, giáo trình thì người thầy  
bây giờ người vừa phải tuân thủ kiến thức chuẩn, kỹ năng chuẩn, vừa không  
ngừng cập nhật, chọn lọc những thông tin, sự vận động của hội để đưa vào  
giảng dạy, nếu không sẽ lạc hậu, sẽ nhàm chán, sẽ không phát huy được tính tích  
cực của học sinh.  
Nếu trước đây khi trò sai, người thầy được nghiêm khắc phê bình, được xử  
phạt, được sự ủng hộ hoàn toàn từ hội, phụ huynh, được sự nể sợ của học  
trò.  
Thì hiện nay, trước sự phát triển ồ ạt của thông tin đại chúng, của mạng hội,  
của những ý kiến số đông nhưng chưa hẳn đã khách quan, trước mọi sự việc  
được coi là sự cố nghề nghiệp thì người thầy luôn là người bị chỉ trích đầu tiên,  
người thầy luôn là người nhận những hậu quả nặng nề sau cùng.  
1
Dư luận luôn chĩa mũi nhọn, những câu hỏi Tại sao..., Do đâu...mà thầy  
lại để xảy ra sự việc đáng tiếc đó mà không hiểu rằng cùng với sự phát triển  
của hội quyền con người, quyền của học sinh và phụ huynh quá cao, đã  
hình thành nên những nhóm phụ huynh phó mặc việc giáo dục con em mình cho  
nhà trường thầy cô, hình thành những nhóm học sinh còn thiếu hiểu biết cư  
sử sai nhưng vẫn được bênh vực bảo vệ.  
Chúng ta là những người làm giáo dục, chúng ta không có quyền từ chối  
những học sinh chưa ngoan, chưa giỏi mà chúng ta phải xác định đó mới là  
nhiệm vụ giáo dục quan trọng hiện nay, giúp giáo dục hình thành nhân cách  
sống, uốn nắn và xây dựng hội của những công dân tương lai tốt.  
Vậy chúng ta phải làm thế nào khi trong lớp học đa số học sinh có ý thức  
học thì có một vài học sinh đặc biệt, cách suy nghĩ, hành sử còn chưa đúng?  
Việc dạy các em học sinh đó như các bạn khác là rất khó, thậm chí còn ảnh  
hưởng xấu với nhóm học sinh đa số đó, lại càng không thể bỏ qua, hay dọa phạt  
liên tục với các em này.  
Trong suốt thời gian ra trường thực dạy, đứng trên bục giảng trải nghiệm  
10 năm thực tế, tôi luôn gặp những học sinh đặc biệt này, hầu như ở lớp nào  
cũng có, với những mức độ đặc biệt khác nhau.  
Nhưng điều đáng nói là hầu hết các em học sinh này đều rất nhanh nhẹn  
và thông minh, khác hẳn với các em học sinh bị khiếm khuyết về thần kinh hay  
còn gọi bệnh lí, các em học sinh này đều khá năng động, chủ động mà tôi gọi  
những em học sinh có cá tính mạnh.  
Đối với những học sinh này nếu dạy học theo cách thông thường rất  
khó, việc các em khó ngồi yên nghe giảng, thường quậy phá bạn bè, thầy cố,  
thường nghĩ ra nhiều chiêu trò và it quan tâm đến vấn đề thầy giảng, hay gây  
khó khăn cho thầy cố giáo và các bạn trong các giờ học thông thường.  
Tôi nghĩ chúng ta có thể đã lãng phí những nhân tố đặc biệt cho những  
cách giáo dục đại trà, cần có cách giáo dục đặc biệt phù hợp, một môi trường  
học phù hợp với các em, vì vậy tôi mạnh dạn viết đề cập đến vấn đề : “Tạo  
môi trường học tốt hơn cho trẻ có cá tính mạnh” trong sáng kiến kinh nghiệm  
2
của mình, để việc học đối với các em có kết quả tốt hơn, cũng tránh các sự cố  
không mong muốn đối với các học sinh này trong các giờ học.  
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU  
Mục tiêu của giáo dục hiện nay cũng như bất cứ giai đoạn phát triển nào  
của hội là giáo dục học sinh toàn diện về các mặt: Học lực, hạnh kiểm, văn,  
thể, mĩ kĩ năng cơ bản của con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Đó tạo  
ra những con người hữu ích cho xã hội, những con người thế hệ cách  
đạo đức, kiến thức kĩ năng, những con người sức khoẻ, tinh thần học  
tập cầu tiến, tính năng động sáng tạo trong công việc.  
Người ta ai cũng một tiềm năng to lớn. Nhưng người suốt cả  
đời không biết phát huy tiềm năng của mình bắt đầu từ đâu để đưa đến  
thành công. Cho nên họ đành bphí, để trôi đi biết bao nhiêu điều tốt đẹp trong  
đời.  
Nhiệm vụ của giáo dục là giúp con người ta phát huy những tiềm năng  
của họ, người thầy không những định hướng, giúp đỡ học sinh phát huy tiềm  
năng sẵn có còn phát hiện, khơi gợi, động viên nhưng giá trị tiềm ẩn thực tế  
nhiều khi bản thân người học chưa nhận thấy.  
Hiện nay, phát triển bền vững được xác định chiến lược ưu tiên hàng  
đầu của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Một trong những cơ sở, nền tảng  
quan trọng nhất để thực hiện chiến lược phát triển đó nguồn lực con người.  
Lịch sử phát triển hội đã chứng minh rằng, trong mọi giai đoạn, con người là  
yếu tố đóng vai trò quyết định sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của hội.  
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã hoàn toàn đúng khi khẳng định rằng, sự  
phát triển của hội không phải do bất kỳ một lực lượng siêu nhiên nào, mà  
chính con người đã sáng tạo nên lịch sử của mình - lịch sử hội loài người.  
Nhận thức rõ vai trò to lớn của nguồn lực con người, trong công cuộc đổi mới và  
phát triển đất nước theo định hướng hội chủ nghĩa vì "dân giàu, nước mạnh,  
hội công bằng, dân chủ, văn minh", Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn  
3
mạnh đến nguồn lực con nguời, coi đó nguồn lực nội sinh quan trọng  
nhất cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.  
Mục tiêu nghiên cứu vấn đnày mấu chốt là “Vai trò của người thầy trong vấn  
đề phát huy nguồn lực con người” trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.  
3. KHÁCH THỂ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU  
3.1. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU  
Bởi thông qua thời gian học trên lớp bản thân các em cũng thấy được ý  
nghĩa của việc học đối với nhận thức định hướng tương lai, tuy nhiên việc tập  
trung học tập ở mỗi tiết học thông thường là “khó” với nhiều học sinh hiếu  
động. Khi được hỏi các em có muốn một cách học khác hay một môi trường  
học khác tích cực hơn không thì các em đều lưỡng lự khó trả lời nhưng thái độ  
rất tò mò muốn biết muốn thử.  
Khi thực hiện đề tài nghiên cứu về việc “Tạo môi trường học tốt hơn cho  
trẻ có cá tính mạnh ” tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của bạn đồng  
nghiệp tổ chuyên môn và đặc biệt của các em học sinh thuộc nhóm đối tượng  
trên để tôi thực hiện và hoàn thành đề tài này.  
3.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU  
Đề tài nghiên cứu được dựa trên đối tượng chủ yếu học sinh hiếu động,  
nghịch ngợm, có cá tính mạnh, ít ngồi yên trong các giờ học bình thường ở  
trường THCS Khương Mai, cùng với sự tìm hiểu chia sẻ của các em về nhóm  
bạn cùng sở thích cá tính các trường THCS khác trong khu vực.  
4
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC  
Đối với nhóm trẻ có cá tính mạnh thể chia thành 2 nhóm nhỏ:  
+) Nhóm bệnh (được khám và kết luận của bác sĩ)  
+) Nhóm tâm lí ( thay đổi theo sự phát triển tâm sinh lí lứa tuổi và cá tính)  
Kể cả hai nhóm học sinh này khi ngồi học ở một giờ học thông thường  
các em đều khá mất tập trung, hay nói chuyện, nghịch ngợm, bày trò này cho kia  
trêu chọc bạn bè, đây là nguyên nhân của những giờ học mất trật tự, không chú  
ý, không hiệu quả, không chỉ cho riêng các học sinh này mà cho cả lớp. Đáng lo  
ngại hơn csự tiềm ẩn những mâu thuẫn nhỏ nhưng không được giải quyết dễ  
dẫn đến những mâu thuẫn lớn, thậm chí là giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực.  
Tình trạng bạo lực trong trường học đã đang diễn ra nóng bỏng trên  
khắp thế giới ở tất cả những cấp học, lớp học khác nhau. Bạo lực học đường  
không chỉ xảy ra ở học sinh nam mà còn cả ở học sinh nữ; không chỉ giữa học  
sinh với học sinh mà còn bạo lực giữa học sinh với giáo viên và giáo viên với  
học sinh.  
Tại Việt Nam, số liệu được Bộ Giáo dục đào tạo (GD- ĐT) đưa ra gần  
đây nhất, trong một năm học, toàn quốc xảy ra gần 1.600 vụ việc học sinh đánh  
nhau trong và ngoài trường học (khoảng 5 vụ/ngày). Cũng theo thống của  
Bộ GD-ĐT, cứ khoảng trên 5.200 học sinh (HS) thì có một vụ đánh nhau; cứ  
hơn 11.000 HS thì có một em bị buộc thôi học đánh nhau; cứ 9 trường thì có  
một trường học sinh đánh nhau ... Bạo lực học đường đã trở thành mối quan  
tâm của rất nhiều gia đình, các nhà trường và là nỗi trăn trở của toàn xã hội bởi  
hậu quả nghiêm trọng mà nó gây ra. Bài viết này sẽ cung cấp cho chúng ta có  
cách nhìn thấu đáo hơn về hậu quả của bạo lực học đường đối với gia đình, nhà  
trường và chính các em học sinh.  
Vậy nếu không giải quyết tốt vấn đề này thì những học sinh có cá tính  
mạnh này sẽ yếu tố tiềm ẩn nhiều nguy gây sự cố, gây nguy hiểm, ảnh  
hưởng không tốt cho tất cả mọi người có liên quan.  
5
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
Trong quá trình dạy học ở lớp, khi tiếp xúc với các đối tượng học sinh  
khác nhau, trong đó có nhóm học sinh có cá tính mạnh, dư năng lượng ,tài  
nghiên cứu này và có một số phương pháp để nghiên cứu như sau:  
1. Phương pháp nghiên cứu thuyết: Tìm hiểu, phân tích các nguồn tài liệu  
có liên quan nhằm xây dựng cơ sluận cho đề tài.  
2. Phương pháp quan sát: Nhằm tìm hiểu việc học của học sinh trong giờ  
học, đặc biệt là nhóm học sinh có cá tính mạnh.  
3. Phương pháp giả định: giả sử những môi trường học khác nhau như thế  
nào để cho học sinh đưa ra ý kiến cá nhân.  
4. Phương pháp điều tra: Phát các phiếu điều tra, thống kết quả nhằm  
đánh giá thực trạng học sinh có mong muốn gì, suy nghĩ nguyện vọng được  
học ở môi trường học thích hợp với mình như thế nào.  
5. Phương pháp thực nghiệm: Tách một số học sinh có cá tính mạnh, ít chú  
ý trong giờ học riêng để trao đỏi, trò chuyện và giao những nhiệm vụ đặc biệt.  
6. Phương pháp thống kê: dựa trên tỉ lệ kết quả điều tra của các phiếu được  
phát ra và thu vào, từ đó đánh giá và kết luận kết quả  
6. CƠ SỞ, PHẠM VI, THỜI GIAN NGHIÊN CỨU  
6.1. CƠ SỞ  
Được sự ủng hộ, tạo điều kiện của đồng nghiệp, học sinh và ban giám  
hiệu nhà trường cho những nghiên cứu, sáng tạo, sáng kiến trong giảng dạy.  
Dựa vào cơ sỏ kiến thức khoa học, đặc biệt kiến thức về tâm sinh lí lứa  
tuổi bản thân tôi được đào tạo trong bộ môn Sinh học phụ trách việc đứng  
lớp giảng dạy với các đối tượng, lứa tuổi khác nhau trong nhóm tuổi thiếu niên  
THCS (từ 11 đến 15 tuổi)  
6.2. PHẠM VI  
Ban đầu phạm vi nghiên cứu trong các lớp học, trong quy mô trường  
THCS Khương Mai, sau đó cùng với sự hợp tác của học sinh có thể phát triển  
6
mở rộng phạm vi nghiên cứu đến các trường học lân cận, mong muốn được tìm  
hiểu và lan tỏa rộng hơn.  
6.3. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU  
Thời gian quan tâm và xác định nghiên cứu đề tài năm 2015. Bắt tay vào  
nghiên cứu các tài liệu có liên quan, tiến hành phát phiếu điều tra, soạn thảo và  
đưa thành đề tài nghiên cứu chính thức bắt đầu năm học 2017 khi đăng đề tài  
sáng kiến kinh nghiệm của năm học.  
7
PHẦN THỨ 2  
QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU  
CHƯƠNG 1  
CƠ SỞ LUẬN THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHÊN CỨU  
1.1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU  
Trước đây vấn đề về học sinh nghịch ngợm, ít chú ý trong giờ học, hay bày  
trò quậy trong lớp được đề cập đến rất nhiều trong các đề tài nghiên cứu về tâm  
sinh lí lứa tuổi, trong các sáng kiến kinh nghiệm của giáo viên các bậc học,  
trong các tài liệu nghiên cứu y học về vấn đề phát triển thần kinh,... Nhưng hầu  
hết đối tượng này thường được gọi chung là học sinh cá biệt.  
Trong hệ thống giáo dục đã cả hệ thống giáo dục đặc biệt như những trung  
tâm giáo dưỡng thanh thiếu niên hay ngay cả ở Nội cũng một môi trường  
dành cho học sinh cá biệt hoạt động rất hiệu quả trường THPT dân lập Đinh  
Tiên Hoàng. Trường THPT Đinh Tiên Hoàng được thành lập từ năm 1989, lúc  
đó ở Việt Nam mới bắt đầu công nhận nền kinh tế thị trường, trong giáo dục có  
thêm trường ngoài công lập. Bên cạnh những mặt tích cực của kinh tế thị trường  
là làm cho Việt Nam phát triển thì bên cạnh đó mặt trái, làm cho giáo dục bị  
ảnh hưởng nhiều, nhiều hành vi vi phạm pháp luật hơn trước.  
Từ thực trạng đó những đề xuất thành lập trường THPT DL Đinh Tiên  
Hoàng để giúp những học sinh khó khăn, biệt. TS. Tùng Lâm khẳng định: “  
mô hình của nhà trường là mô hình đặc biệt, thể hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ  
Chí Minh là “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn - Phần nhiều do giáo dục mà nên", tức  
là ai cũng phải được học hành.  
Quan điểm của nhà trường, theo TS. Nguyễn Tùng Lâm “trường thường  
xuyên nhận những học sinh trượt vào các trường công lập mà hàng năm các  
trường công lập những học sinh đặc biệt, nghịch ngợm nhà trường vẫn tiếp  
tục nhận, vẫn phải đảm bảo cho học sinh tốt nghiệp đi vào các trường đại  
học, cao đẳng”  
8
Tuy nhiên ở khối THCS vẫn chưa một mô hình tương tự, với những hình  
thức tổ chức, giáo trình thực hiện riêng đặc trưng phù hợp với tâm lí lứa tuổi  
THCS dành cho các em  
1.2. CƠ SỞ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI  
1.2.1. Cơ sở 1: nghiên cứu công văn về việc xây dựng môi trường học tập  
cho học sinh.  
Căn cứ công văn số 282/BGĐT –CTHSSV về việc đẩy mạnh xây dựng môi  
trường văn hóa trong học tập, ban hành ngày 25 tháng 1 năm 2017.  
Nội dung cần quan tâm: “Thời gian qua, hầu hết các sở giáo dục đào tạo, các  
cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng sư phạm, trung cấp sư phạm (sau đây gọi tắt là  
các cơ sở đào tạo) đã thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Bộ Giáo dục Đào tạo  
(GD&ĐT) về xây dựng môi trường văn hóa trong trường học, góp phần nâng  
cao chất lượng giáo dục đào tạo. Bên cạnh việc triển khai các hoạt động giáo  
dục, các nhà trường đã chú trọng tổ chức hiệu quả các hoạt động văn hóa, văn  
nghệ; từng bước xây dựng, hoàn thiện triển khai bộ quy tắc ứng xử văn hóa,  
góp phần xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, thân thiện, giúp học sinh,  
sinh viên phát huy tính tích cực trong học tập, chủ động tham gia các hoạt động  
hội, rèn luyện kỹ năng sống định hướng nghề nghiệp; hệ thống các khẩu  
hiệu trong khuôn viên nhà trường được sử dụng nhìn chung phù hợp và phát huy  
hiệu quả giáo dục; khuôn viên nhà trường ngày càng xanh, sạch, đẹp, cơ sở vật  
chất, trang thiết bị dạy học, hệ thống thư viện, hạ tầng công nghệ thông tin và  
các phương tiện dạy học hiện đại từng bước được đầu tư, đáp ứng yêu cầu ngày  
càng cao của môi trường giáo dục; đội ngũ cán bộ quản lí, nhà giáo tích cực học  
tập, nâng cao trình độ, đổi mới phương pháp quản lý, phương pháp dạy học,  
giáo dục. Môi trường văn hóa học đường, bao gồm cả môi trường vật chất và  
môi trường tinh thần nhiều chuyển biến tích cực.  
Tuy nhiên, ở một số nhà trường chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của việc  
giáo dục HSSV thông qua việc tổ chức các hoạt động văn hóa; nội dung, hình  
thức tổ chức hoạt động chưa phù hợp, một số hoạt động văn hóa còn mang tính  
9
hình thức, thiếu sáng tạo và ít đem lại hiệu quả giáo dục, thậm chí gây quá tải,  
khó khăn cho người học. Việc xây dựng tổ chức thực hiện quy tắc ứng xử văn  
hóa ở một số cơ sở giáo dục còn nặng về hình thức, chưa sự đầu tư đúng  
mức, nội dung chưa cụ thể, giáo điều, chưa phù hợp với các bậc học.... Ở một số  
nhà trường, quan hệ ứng xử giữa các thành viên chưa chuẩn mực, chưa theo  
đúng tinh thần “Tôn sư trọng đạo”. Việc sử dụng khẩu hiệu vẫn còn tình trạng  
lạm dụng số lượng, nội dung chưa phù hợp lứa tuổi, điều kiện văn hóa các vùng  
miền...  
Để xây dựng mỗi trường học trở thành một trung tâm văn hóa, giáo dục rèn  
luyện con người về tưởng, phẩm chất, nhân cách, lối sống, Bộ Giáo dục và  
Đào tạo đề nghị các sở giáo dục đào tạo, cơ sở đào tạo triển khai các nhiệm  
vụ sau:  
1. Tăng cường tổ chức các hoạt động văn hóa  
- Các nhà trường cần tăng cường tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ bằng  
nội dung và hình thức phù hợp với tình hình chính trị, văn hóa, xã hội, đối tượng  
tham gia và điều kiện thực tế của địa phương.  
- Mỗi cơ sở giáo dục cần xây dựng hệ giá trị, văn hóa đạo đức cốt lõi làm chuẩn  
mực, để mọi thành viên đồng thuận lấy đó làm mục tiêu phấn đấu.  
- Các cơ sở đào tạo cần xây dựng tổ chức hoạt động các câu lạc bộ văn nghệ,  
thể thao để tập hợp thu hút và giáo dục toàn diện đối với người học, góp phần  
xây dựng môi trường học đường an toàn, lành mạnh, thân thiện.  
- Phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục và xây  
dựng môi trường văn hóa trường học. Tăng cường kiểm tra đôn đốc; kịp thời  
biểu dương, khen thưởng đối với những cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc.  
2. Xây dựng triển khai bộ quy tắc ứng xử văn hóa trong trường học  
Quy tắc ứng xử trong trường học những chuẩn mực, giá trị và hành vi ứng xử  
văn hóa thông qua các hoạt động giao tiếp, sinh hoạt, làm việc, học tập…, nhằm  
điều chỉnh cách thức ứng xử của mọi thành viên trong nhà trường theo thuần  
phong mỹ tục; tạo môi trường làm việc, học tập thân thiện, hợp tác, trách nhiệm,  
cởi mở, trung thực, văn minh trong nhà trường”  
10  
1.2.2. Cơ sở 2: Nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THCS.  
a. Đặc điểm hoạt động học tập ở nhà trường THCS.  
Động cơ học tập của học sinh THCS rất phong phú đa dạng, nhưng chưa  
bền vững, nhiều khi còn thể hiện smâu thuẩn của nó.  
Thái độ đối với học tập của học sinh THCS cũng rất khác nhau. Tất cả các  
em đều ý thức được tầm quan trọng sự cần thiết của học tập, nhưng thái độ sự  
biểu hiện rất khác nhau, được thể hiện như sau:  
- Trong thái độ học tập: từ thái độ rất tích cực, có trách nhiệm, đến thái độ  
lười biếng, thơ ơ thiếu trách nhiệm trong học tập.  
- Trong sự hiểu biết chung: từ mức đphát triển cao và sự ham hiểu biết  
nhiều lĩnh vực tri thức khác nhau ở một số em, nhưng ở một số em khác thì mức  
độ phát triển rất yếu, tầm hiểu biết rất hạn chế.  
- Trong phương thức lĩnh hội tài liệu học tập: từ chỗ kỹ năng học tập  
độc lập, nhiều cách học đến mức hoàn toàn chưa kỹ năng học tập độc lập,  
chỉ biết học thuộc lòng từng bài, từng câu, từng chữ.  
- Trong hứng thú học tập: từ hứng thú biểu hiện rệt đối với một lĩnh  
vực tri thức nào đó và có những việc làm có nội dung cho đến mức đhoàn toàn  
không có hứng thú nhận thức, cho việc học hoàn toàn gò ép, bắt buộc.  
Nhiều công trình nghiên cứu đã chra, để giúp các em có thái độ đúng  
đắn với việc học tập thì phải:  
- Tài liệu học tập phải súc tích về nội dung khoa học.  
- Tài liệu học tập phải gắn với cuộc sống của các em, làm cho các em hiểu  
rõ ý nghĩa của tài liệu học.  
- Tài liệu phải gợi cảm, gây cho học sinh hứng thú học tập.  
- Trình bày tài liệu, phải gợi cho học sinh có nhu cầu tìm hiểu tài liệu đó.  
- Phải giúp đỡ các em biết cách học, phương pháp học tập phù hợp.  
11  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 27 trang minhvan 14/05/2025 100
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Tạo môi trường học tốt hơn cho trẻ có cá tính mạnh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_tao_moi_truong_hoc_tot_hon_cho_tre_co_ca_tinh_manh.doc