SKKN Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) ,lớp 10, Ban cơ bản
Ở Việt Nam, hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XI ngày 4.11.2013 đã thông qua chủ trương “ Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Trong giáo dục, quy trình đào tạo được xem như là một hệ thống bao gồm các yếu tố: mục tiêu, chương trình đào tạo, nội dung, phương pháp dạy học, phương tiện dạy học... Trong đó việc đổi mới phương pháp dạy học được coi là vấn đề then chốt của đổi mới giáo dục.
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỉ XXI, do tốc độ phát triển của xã hội hết sức nhanh
chóng, với những biến đổi liên tục và khôn lường; để chuẩn bị cho thế hệ trẻ đối
mặt và đứng vững trước những thách thức của đời sống, vai trò của giáo dục
ngày càng được quan tâm và đầu tư hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh đó, từ
những nước đang phát triển đến những nước phát triển đều nhận thức được vai
trò và vị trí hàng đầu của giáo dục, đều phải đổi mới giáo dục để có thể đáp ứng
một cách năng động hơn, hiệu quả hơn những nhu cầu của sự phát triển đất
nước.
Ở Việt Nam, hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XI
ngày 4.11.2013 đã thông qua chủ trương “ Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Trong giáo dục, quy
trình đào tạo được xem như là một hệ thống bao gồm các yếu tố: mục tiêu,
chương trình đào tạo, nội dung, phương pháp dạy học, phương tiện dạy học...
Trong đó việc đổi mới phương pháp dạy học được coi là vấn đề then chốt của
đổi mới giáo dục.
Bộ môn Lịch sử là một trong những môn học có ưu thế trong việc giáo
dục thế hệ trẻ. Việc đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử là một yêu cầu cấp
thiết góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục, mục tiêu môn học. Nhận thức được
tầm quan trọng đó, trong những năm gần đây vấn đề đổi mới phương pháp dạy
học theo định hướng phát triển năng lực học sinh đã và đang được nhiều giáo
viên quan tâm song còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được mục tiêu và yêu cầu
của xã hội. Nhiều giáo viên vẫn còn dạy theo lối truyền thống, sử dụng tư liệu
lịch sử chỉ mang tính minh họa, không phát huy được tính tích cực của học sinh,
do đó các em không hứng thú học tập môn Lịch sử và dẫn đến coi nhẹ bộ môn.
Để khắc phục tình trạng trên một yêu cầu đặt ra đối với mỗi giáo viên Lịch sử là
phải không ngừng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực
học sinh.
Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài “Sử dụng tư liệu lịch sử theo
hướng phát triển năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam
(Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) ,lớp 10, Ban cơ bản”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Mục đích: Sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học phần Lịch sử phong
kiến Việt Nam ( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) và đề xuất một số biện
pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thưc hiện mục đích trên, đề tài tập trung vào
giải quyết một số nhiệm vụ sau:
1
+ Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn việc sử dụng tư liệu lịch sử theo
hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
+ Tìm hiểu chương trình lịch sử phong kiến Việt Nam ( Từ thế kỉ X đến
nửa đầu thế kỉ XIX) từ đó xác định nội dung tư liệu lịch sử cần sử dụng và đề
xuất một số biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học
sinh khi dạy học phần lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế
kỉ XIX) .
+ Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng các biện pháp từ đó rút ra kết
luận khoa học về việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học
sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến
nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản.
- Phạm vi nghiên cứu: Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng
lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa
đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản.
4. Đóng góp của đề tài.
- Khẳng định được vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng tư liệu lịch sử theo
hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông
- Phản ánh được thực trạng sử dụng tư liệu lịch sử trong trường phổ thông
- Đề xuất một số biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển
năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến
nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản.
2
PHẦN II: NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận và thực tiễn
1. Cơ sở lý luận
1.1. Quan niệm
1.1.1. Quan niệm về tư liệu lịch sử
Lịch sử là những gì đã xẩy ra trong quá trình phát triển của xã hội loài
người, đồng thời nó cũng tồn tại khách quan với chúng ta. Do xẩy ra trong quá
khứ cho nên con người không thể quan sát trực tiếp các sự kiện, quá trình lịch sử
đó; do vậy việc nhận thức lịch sử phải dựa vào nhiều tư liệu lịch sử khác nhau.
Tư liệu lịch sử có tầm quan trọng đặc biệt với khoa học lịch sử nói chung
cũng như việc học lịch sử nói riêng. Khoa học lich sử tồn tại được trên cơ sở các
sự kiện lịch sử, mà các sự kiện lịch sử lại là những tế bào cấu thành lịch sử mà
các tế bào đó là từ các tư liệu lịch sử. Tư liệu lịch sử tồn tại cho khoa học lịch sử
và ngược lại khoa học lịch sử không thể thiếu nó. Tư liệu lịch sử như một cầu
nối nhà nghiên cứu với quá khứ nói cách khác nó như một thứ nguyên vật liệu
để chế tạo ra sản phẩm khác.
Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về tư liệu lịch sử:
Theo phương diện xã hội, tư liệu lịch sử là một phương diện xã hội để bảo
tồn, lưu giữ, truyền bá. Theo phương diện triết học Lapađanhiepxki định nghĩa
tư liệu lịch sử là khái niệm phản ánh đặc tính của hiện vật có thể được thu nhận
tri thức của hiện vật khác. Nhà sử học người Nga Chi-khơ-mi-rốp cho rằng tư
liệu lịch sử là tất cả những gì còn sót lại của cuộc sống đã qua. Rê-bans cho rằng
tư liệu lich sử là tổng hợp thành quả từ hoạt động nhận thức và thực tiễn của con
người được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng phương diện xã hội.
Trong Bách khoa toàn thư tư liệu lịch sử là những gì phản ánh trực tiếp quá khứ.
Xét về mặt lý luận có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm tư liệu lịch sử.
Song ta có thể hiểu tư liệu lịch sử là những di tích của quá khứ, xuất hiện như
sản phẩm của quan hệ xã hội nhất định, mang trong mình nó những dấu vết của
quan hệ ấy phản ánh trực tiếp và trừu tượng hóa một mặt hoạt động nào đó của
con người.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu tư liệu lịch sử là các sự kiện, tài liệu mà
mỗi giáo viên cần phải sưu tầm để tìm hiểu quá trình lịch sử đang học. Tư liệu
càng sinh đông, phong phú bao nhiêu thì sự kiện càng cụ thể, càng hay bấy
nhiêu. Trong dạy học lịch sử, điều kiện cơ bản nhất để tái tạo hình ảnh quá khứ
là tư liệu lịch sử. Nếu không có nguồn tư liệu phong phú, không cung cấp được
nguồn tư liệu cụ thể chân thực thì dù có vận dụng phương pháp giảng dạy nào đi
chăng nữa cũng không thể đạt hiệu quả mong muốn. Nói như vậy để hiểu rằng,
các nguồn tư liệu lịch sử có vai trò cực kì quan trọng, như nhà sử học Ba Lan
J.iopolski đã viết: Tư liệu luôn là tài sản quý giá nhất của nhà sử học, không có
3
nó ta không thể là nhà sử học. Và nếu xem một công trình nghiên cứu lịch sử là
một món ăn thì các nguồn tư liệu chính là những sản phẩm, những gia vị để chế
biến nên món ăn đó. Không có nguồn tư liệu lịch sử thì lịch sử không thể được
viết ra “ không có cái gì có thể thay thế tư liệu, không có chúng thì không có
lịch sử”
Khoa học lịch sử có nguồn sử liệu hết sức phong phú và đa dạng. Tùy
theo nội dung phản ánh và tính chất của sử liệu người ta thường chia tư liệu
thành nhiều nhóm khác nhau nhưng tựu chung lại có ba nhóm tư liệu lịch sử
chính: Tư liệu thành văn, tư liệu hiện vật và tư liệu trực quan. Trong mỗi nhóm
này lại bao gồm nhiều loại tư liệu mang những đặc điểm, nội dung phản ánh và
xuất xứ khác nhau. Cách phân loại này chỉ mang tính tương đối.
Nhóm tư liệu thành văn: Tư liệu thành văn hay còn gọi là tư liệu chữ viết
vì mọi nội dung lịch sử của nó đều được biểu thị bằng chữ viết. Nguồn tư liệu
này chiếm khối lượng lớn và đặc biệt quan trọng, đôi khi chiếm địa vị chủ yếu
trong các nguồn sử liệu, có thể sử dụng trong giảng dạy bất cứ bài học lịch sử
nào. Hơn nữa tư liệu thành văn có nội dung phong phú, gọn nhẹ, dễ sưu tầm và
sử dụng. Với khối lượng lớn và hết sức đa dạng như vậy nên người ta đã chia tư
liệu thành văn thành những nhóm hoặc loại khác nhau: có loại mang tính chất
văn học như sử biên niên, hồi ký..., có loại mang tính chất khế ước, chế định như
các loại văn tự, luật pháp... Song mọi sự phân loại chỉ có tính chất tương đối vì
nguồn sử liệu này được viết ra không hoàn toàn theo những khuôn khổ nhất định
cho một giai đoạn lịch sử. Dù được phân loại theo nhiều cách khác nhau, nhìn
một cách tổng thể tư liệu thành văn có ưu điểm nổi bật là phản ánh tương đối
toàn diện và chi tiết các sự kiện, nhất là về đời sống chính trị, xã hội. Cũng do
ưu điểm đó, tư liệu thành văn bao giờ cũng được sử dụng phổ biến và tập trung
hơn.
Nhóm tư liệu hiện vật: là những sản phẩm trong quá trình hoạt động thực
tiễn và hoạt động nhận thức của con người, tồn tại dưới dạng các hiện vật như
các di tích lịch sử, di chỉ khảo cổ học. Tư liệu hiện vật cực kì phong phú và đa
dạng. Đây chính là những tư liệu “biết nói” có giá trị rất lớn, không chỉ đối với
các nhà nghiên cứu mà cả trong giảng dạy lịch sử, nó như một minh chứng nói
lên sự thật lịch sử mà không ai chối bỏ được.
Hiện nay chúng ta còn giữ được một số lượng di tích lịch sử khá lớn ở hầu
khắp các địa phương trong cả nước. Thông qua các di tích này chúng ta có thể
tiến hành các hoạt động ngoại khóa, tham quan trải nghiệm cho học sinh.
Bên cạnh các di tích lịch sử, tư liệu hiện vật còn bao gồm các di vật khảo
cổ học hiện đang được lưu giữ, trưng bày tại các bảo tàng lịch sử, bảo tàng dân
tộc học. Đây là những bằng chứng xác thực, trực quan sinh động rất hấp dẫn đối
với học sinh, giúp các em khắc sâu kiến thức.
4
Tư liệu trực quan: Bao gồm nhiều loại khác nhau như tranh ảnh, bản đồ,
sa bàn, mô hình, phim ảnh, băng ghi âm...Tư liệu trực quan góp phần quan trọng
tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình
trạng “ hiện đại hóa” lịch sử của học sinh.
1.1.2. Quan niệm, đặc điểm, yêu cầu về năng lực và dạy học phát triển
năng lực môn Lịch sử ở trường phổ thông.
1.1.2.1. Quan niệm về năng lực và dạy học năng lực.
Theo từ điển Tiếng Việt, năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự
nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó.
Chương trình giáo dục phổ thông của New Zealand đã định nghĩa năng
lực: “ Năng lực là một khả năng hành động hiệu quả hoặc là sự phản ứng thích
đáng trong các tình huống phức tạp nào đó”
Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục cũng đã cố gắng định nghĩa
khái niệm năng lực. F.E. Weinert cho rằng: “ Năng lực được thể hiện như một
hệ thống khả năng, sự thành thạo hoặc những kĩ năng thiết yếu, có thể giúp con
người đủ điều kiện vươn tới một mục đích cụ thể”; còn J. Coolahan thì viết rằng:
năng lực được xem như là “những khả năng cơ bản dựa trên cơ sở tri thức, kinh
nghiệm, các giá trị và thiên hướng của một con người được phát triển thông qua
thực hành giáo dục”...
Có thể thấy dù cách phát biểu có khác nhau, nhưng các cách hiểu trên đều
khẳng định: nói đến năng lực là phải nói đến khả năng thực hiện, là phải biết
làm chứ không chỉ biết và hiểu. Tất nhiên, hành động (làm) hay thực hiện ở đây
phải gắn với ý thức và thái độ; phải có kiến thức và kỹ năng, chứ không phải
làm một cách máy móc, mù quáng, đúng như chương trình giáo dục phổ thông
của Indonesia đã xác định: “ Năng lực là những kiến thức, kỹ năng và các giá trị
được phản ánh trong thói quen suy nghĩ và hành động của mỗi cá nhân. Thói
quen tư duy và hành động kiên trì, liên tục có thể giúp một người trở nên có
năng lực, với ý nghĩa làm một việc gì đó trên cơ sở có kiến thức, kỹ năng và các
giá trị cơ bản”
Phân loại năng lực là một vấn đề rất phức tạp. Kết quả phụ thuộc vào
quan điểm và tiêu chí phân loại. Nhìn vào chương trình thiết kế theo năng lực
của các nước có thể thấy hai loại chính. Đó là năng lực chung và năng lực cụ
thể, chuyên biệt.
Năng lực chung là năng lực cơ bản thiết yếu của con người có thể sống và
làm việc bình thường trong xã hội. Năng lực này được hình thành và phát triển
do nhiều môn học, liên quan đến nhiều môn học.
Năng lực cụ thể, chuyên biệt là năng lực riêng được hình thành và phát
triển do một lĩnh vực hoặc môn học nào đó.
5
Tiếp thu quan niệm về năng lực của các nước phát triển, chương trình
giáo dục phổ thông tổng thể của Việt Nam ( 7/2017) đã xác định: Năng lực là
thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình
học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ
năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí... thực hiện
thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những
điều kiện cụ thể. Có hai loại năng lực lớn: Năng lực cốt lõi và năng lực đặc biệt.
- Năng lực cốt lõi: là năng lực cơ bản, thiết yếu mà bất kỳ ai cũng cần
phải có để sống, học tập và làm việc hiệu quả.
- Năng lực đặc biệt: là những năng khiếu về trí tuệ, văn nghệ, thể thao, kỹ
năng sống...nhờ tố chất sẵn có ở mỗi người.
Cũng theo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, năng lực cốt lõi
gồm năng lực chung và năng lực chuyên môn.
- Năng lực chung là năng lực được tất cả các môn học và hoạt động giáo
dục góp phần hình thành, phát triển như: năng lực tự chủ và tự học, năng lực
giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
- Năng lực chuyên môn là năng lực được hình thành, phát triển chủ yếu
thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định như: năng lực ngôn
ngữ, năng lực tính toán, năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội, năng lực công
nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất.
Có thể nói, dạy học theo hướng nội dung lấy khối lượng kiến thức, kĩ
năng làm mục tiêu hướng tới; do đó càng cung cấp nhiều nội dung, học sinh biết
càng nhiều càng tốt. Cách dạy học này không quan tâm nhiều đến việc vận dụng
kiến thức đã biết và hiểu vào thực hành, liên hệ và ứng dụng vào các tình huống
của đời sống. Hệ quả học sinh có thể biết rất nhiều nhưng làm thì không được
bao nhiêu; kiến thức rất uyên bác nhưng thực hành rất lúng túng, vụng về.
Dạy học theo hướng phát triển năng lực nhằm khắc phục những hạn chế
nêu trên của dạy học theo nội dung. Vì thế, mục tiêu cuối cùng của dạy học phát
triển năng lực không phải là hệ thống kiến thức, là khối lượng nội dung, là biết
thật nhiều mà là năng lực cần có để sống tốt hơn, làm việc hiệu quả hơn, đáp
ứng được những yêu cầu của xã hội đang thay đổi từng ngày. Như thế nội dung
kiến thức ở đây là phương diện để đạt được mục đích cuối cùng là năng lực. Tư
tưởng này chi phối cách lựa chọn nội dung dạy học và phương pháp dạy học.
Mỗi khi dạy một vấn đề, một kiến thức nào đó, người giáo viên cần phải xác
định rõ dạy cái gì, để làm gì, giúp ích gì cho người học.
Tuy nhiên, chú ý mục tiêu phát triển năng lực không có nghĩa là xem nhẹ
kiến thức. Không có kiến thức thì không thể có năng lực. Kiến thức vẫn là cốt
lõi để tạo ra năng lực. Năng lực giống như một khối bê tông trong đó tổng hợp
6
nhiều chất liệu: sắt thép, xi măng, cát, sỏi, đá, nước và các chất phụ gia khác.
Trong cái khối bê tông ấy sắt thép làm rường cột. Sắt thép chính là kiến thức.
Tóm lại, dạy học phát triển năng lực vẫn coi trọng nội dung kiến thức tuy
nhiên chỉ mình nội dung kiến thức chưa đủ; cần thay đổi cách dạy và cách học
theo hướng học sinh chủ động tham gia kiến tạo nội dung kiến thức, vận dụng tri
thức vào cuộc sống và hình thành phương pháp tự học để có thể học suốt đời.
1.1.2.2. Đặc điểm và yêu cầu dạy học phát triển năng lực môn Lịch sử
ở trường phổ thông.
Năng lực môn Lịch sử là một thành phần của năng lực tìm hiểu xã hội
trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể. Đối với học sinh cấp trung học
phổ thông, yêu cầu tìm hiểu về năng lực xã hội bao gồm những nội dung sau
đây:
- Một là, hiểu và vận dụng được những cách tiếp cận và phương pháp
nghiên cứu cơ bản của khoa học xã hội: Vận dụng được các nguyên tắc, phương
pháp, kỹ thuật cơ bản thu thập và xử lý thông tin; Biết trình bày và phân tích các
nhân vật, sự kiện, quá trình xã hội từ những góc độ, chiều cạnh khác nhau; Nắm
được cách trình bày các ý kiến, lập luận, tranh luận về các vấn đề xã hội.
- Hai là, nắm được các tri thức cơ bản về đối tượng của các khoa học xã
hội: Hiểu được một số khái niệm cơ bản liên quan đến đối tượng của khoa học
xã hội như: phân hóa xã hội, khác biệt xã hội và xung đột xã hội, chiến tranh,
cách mạng, tiến bộ xã hội...; Hiểu được những tri thức cơ bản về một số đối
tượng của khoa học xã hội như quá trình tiến hóa của lịch sử nhân loại, lịch sử
các nền văn minh, giá trị đạo đức truyền thống, bản sắc văn hóa và giao lưu văn
hóa, quá trình phát triển nhân cách, ...
- Ba là, nắm được những tri thức cơ bản về xã hội loài người, hiểu được
những quy luật chung của quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam trong mối liên hệ với khu vực và thế giới; hiểu được các xu hướng vận
động cơ bản của nhân loại trên các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, tư
tưởng, văn hóa, nghệ thuật, quốc phòng và an ninh...
- Bốn là, vận dụng những tri thức về xã hội và văn hóa vào cuộc sống:
Biết tự nghiên cứu về một vấn đề của xã hội; Biết tham gia tranh luận về một
hoặc một số vấn đề đang đặt ra trong đời sống xã hội đương đại, nhất là các vấn
đề có liên quan đến thế hệ thanh niên hiện nay; Có thái độ tích cực với những
chính sách của Nhà nước và biết cách tuyên truyền, giải thích cho gia đình, bạn
bè, cộng đồng hiểu và tham gia ủng hộ; Có niềm tin vào tính đúng đắn của các
chuẩn mực đạo đức và những giá trị xã hội tốt đẹp, có trách nhiệm đối với bản
thân và xã hội.
Trên cơ sở những yêu cầu về tìm hiểu xã hội, môn Lịch sử ở trường phổ
thông giúp học sinh phát triển và hoàn thiện những năng lực chuyên môn Lịch
7
sử, bao gồm: Năng lực tìm tòi và khám phá Lịch sử; Năng lực nhận thức và tư
duy Lịch sử; Năng lực vận dụng kiến thức Lịch sử vào thực tiễn giúp học sinh
có khả năng tiếp cận và xử lý thông tin từ những nguồn khác nhau, có khả năng
xâu chuỗi các sự kiện lịch sử có liên quan, đưa ra nhận xét cá nhân về các sự
kiện lịch sử, xây dựng năng lực phản biện và sáng tạo, từ đó có khả năng vận
dụng những kinh nghiệm lịch sử vào thực tiễn, dùng tri thức lịch sử để giải thích
những vấn đề hiện tại. Trên nền tảng đó, học sinh được truyền cảm hứng để yêu
thích môn Lịch sử, có định hướng để lựa chọn nghề nghiệp, đồng thời trân trọng
truyền thống lịch sử, di sản lịch sử.
Năng lực tìm tòi khám phá lịch sử : Thể hiện qua việc nhận diện và sử
dụng tư liệu lịch sử, phân biệt được các loại hình tư liệu lịch sử ( văn bản chữ
viết, hiện vật lịch sử, tranh ảnh, biểu đồ, bản đồ...), hiểu được nội dung, khai
thác và sử dụng được tư liệu lịch sử trong quá trình học tập. Tái hiện và trình
bày lịch sử như mô tả, trình bày (nói hoặc viết) diễn trình của các sự kiện, nhân
vật, quá trình lịch sử từ đơn giản đến phức tạp, xác định được các sự kiện lịch sử
trong không gian và thời gian cụ thể.
Năng lực nhận thức và tư duy lịch sử : Thể hiện qua việc giải thích được
nguồn gốc, sự vận động của các sự kiện lịch sử từ đơn giản đến phức tạp; chỉ ra
được quá trình phát triển của lịch sử theo lịch đại và đồng đại; so sánh sự tương
đồng và khác biệt giữa các sự kiện lịch sử, lý giải được mối quan hệ nhân quả
trong tiến trình lịch sử. Đưa ra những ý kiến nhận xét, đánh giá của cá nhân về
các sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử trên cơ sở nhận thức và tư duy lịch sử;
hiểu được sự tiếp nối và thay đổi của lịch sử; biết suy nghĩ theo những chiều
hướng khác nhau khi xem xét, đánh giá, hay đi tìm câu trả lời về một sự kiện,
nhân vật, quá trình lịch sử.
Năng lực vận dụng kiến thức lịch sử vào thực tiễn: Thể hiện qua khả năng
kết nối quá khứ với hiện tại, vận dụng kiến thức lịch sử để lý giải những vấn đề
của thực tiễn cuộc sống. Trên nền tảng đó, học sinh có khả năng tự tìm hiểu
những vấn đề lịch sử, phát triển năng lực sáng tạo, có khả năng tiếp cận và xử lý
thông tin từ những nguồn khác nhau, có ý thức và năng lực tự học lịch sử suốt
đời.
1.1.3. Quan niệm về sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển
năng lực học sinh
Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh không có
nghĩa là để cho học sinh tự làm việc với các tư liệu lịch sử trong giờ học bộ
môn, càng không phải giáo viên đặt nhiều câu hỏi đối với các tư liệu lịch sử mà
mình đưa ra cho các em, cũng không phải càng sử dụng được nhiều tư liệu lịch
sử trong một giờ học lịch sử là đã phát huy được tính tích cực của các em. Sử
dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh nghĩa là trong các
hoạt động học tập, giáo viên luôn điều khiển, hướng dẫn các em chủ động làm
8
việc với các tư liệu lịch sử để tự mình tạo được các biểu tượng lịch sử cụ thể,
trên cơ sở đó hình thành các khái niệm và rút ra các quy luật, bài học lịch sử.
Khi sử dụng các tư liệu lịch sử theo hướng phát huy tính tích cực của học
sinh, các em luôn tỏ ra thích thú, chú ý học tập, hăng hái tham gia phát biểu ý
kiến, ghi chép bài. Chủ động tìm thêm các tư liệu khác ngoài tư liệu mà giáo
viên cung cấp, luôn hứng thú học tập, hoàn thành tốt những nhiệm vụ mà thầy
cô giao cho. Ham mê nghiên cứu và vận dụng những kiến thức đã học vào học
tập và lao động.
Khi sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh, các
em sẽ độc lập, chủ động làm việc với các tư liệu, giải quyết các vấn đề dưới sự
hướng dẫn, điều khiển của giáo viên.
1.2. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát
triển năng lực học sinh.
Tư liệu lịch sử là phương tiện cần thiết đối với việc dạy và học lịch sử ở
trường phổ thông. Mỗi loại loại tư liệu có một vị trí cụ thể trong việc sử dụng và
có vai trò nhất định đối với hiệu quả bài học.
Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh có ý nghĩa
to lớn về mặt kiến thức, kĩ năng và thái độ.
Về mặt kiến thức: Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, tư liệu lịch
sử là nguồn cung cấp kiến thức quan trọng cho học sinh. Việc sử dụng tư liệu
lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh có ý nghĩa to lớn về mặt bồi
dưỡng kiến thức cho học sinh. Tư liệu lịch sử là một phương tiện quan trọng để
cụ thể hóa kiến thức lịch sử đang học, nhằm tạo cho học sinh có biểu tượng rõ
ràng, cụ thể, có hình ảnh, tăng thêm tính chất sinh động, gợi cảm của bài giảng
và gây hứng thú cho việc học tập của các em.
Trong dạy học lịch sử, giáo viên hướng dẫn, tổ chức các hoạt động học
tập cho học sinh thông qua hệ thống các tư liệu lịch sử khiến các em tích cực
hoạt động, phát huy trí sáng tạo, lựa chọn tốt các kiến thức từ các tư liệu lịch sử
và tạo biểu tượng lịch sử. Khi đã tạo được những biểu tượng lịch sử quá khứ
chân thực, cụ thể, giúp học sinh tránh được hiện tượng “hiện đại hóa” lịch sử.
Ví dụ, khi dạy về “Tình hình Nông nghiệp nước ta ở các thế kỷ XVI-
XVIII”, giáo viên sử dụng các tư liệu thành văn sau: “Nhiều người nuớc ngoài
có mặt thời đó đã rất ngợi ca sự trù phú của đất đai. Giáo sĩ Marini trong tập ký
sự về Đường ngoài đã để hẳn một chương để mô tả "sự màu mỡ của Vương
quốc" này ("Vương quốc xứ Đàng ngoài"). Marini viết: "Đất đai màu mỡ và
không lúc nào nghỉ sản xuất. Nhân dân rất hiểu giá trị của ruộng đất nên không
bỏ hoang và những người nội trợ giỏi, sau khi thu hoạch mùa màng xong, lập
tức lại cày bừa ngay và gieo hạt. Và như vậy mỗi năm họ thường thu được 2, 3
vụ. Ở những nơi nào không trồng lúa được thì họ trồng cây ăn quả và thu hoạch
9
lớn. Cây cối tươi tốt đến nỗi lúc nào cũng chỉ thấy một màu xanh tựa như một
khu rừng với một mùa xuân vĩnh viễn".
Về giống lúa, theo ghi chép của Lê Quý Đôn thế kỷ XVIII: Vùng châu thổ
sông Hồng có 8 giống lúa chiêm, 27 giống lúa mùa, 29 giống lúa nếp. Nông
nghiệp Đàng Trong có 26 giống lúa nếp, 23 giống lúa tẻ. "Tháng tư hàng năm
lúa chín đầy đồng, gặt hái không kịp, mỗi mẫu thu hoạch từ 90 đến 120 gánh
lúa." Theo giáo sĩ Bo-ri: "Đất đai màu mỡ và sinh lợi....đến nỗi hàng năm họ gặt
lúa 3 lần, thu hoạch được một lượng thóc phong phú đến mức không ai cần lao
động thêm để kiếm sống....quanh năm họ có nhiều hoa quả, những thứ lạ như
dưa bở, dưa chuột, dưa hấu, mít, sầu riêng, dừa, trầu cau, bắp cải, thuốc lá,
mía....đồng ruộng của họ đầy những gà vịt nhà và gà rừng."
Trên cơ sở những tư liệu trên giúp học sinh hiểu được sự phát triển trù
phú của Nông nghiệp với nhiều loại giống cây trồng phong phú.
Việc sử dụng tư liệu lịch sử sẽ giúp học sinh ít tốn công sức mà thu nhận
có hiệu quả kiến thức lịch sử; những đoạn trích ngắn gọn, súc tích giúp học sinh
xích lại gần hơn với hiện thực quá khứ.
Bên cạnh đó việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực
học sinh góp phần nâng cao trình độ nhận thức của học sinh. Lịch sử phản ánh
những sự kiện, hiện tượng đã diễn ra trong quá khứ, khi học sinh được dựng lại
bức tranh trong quá khứ cũng là lúc các em tự trau dồi cho mình những kiến
thức của nhân loại. Ví dụ, khi học về “Những thành tựu văn hóa nước ta thời
phong kiến”, giáo viên hướng dẫn học sinh sưu tầm và viết báo cáo về sự hiểu
biết các công trình kiến trúc thời đó. Thông qua đó, giáo viên hướng dẫn học
sinh nhận xét về nghệ thuật kiến trúc nước ta thời phong kiến. Khi các em tự sưu
tầm và tìm hiểu về các công trình nghệ thuật kiến trúc dưới sự định hướng của
giáo viên thì sự hiểu biết về văn hóa của các em được nâng lên đáng kể.
Về thái độ: Việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực
học sinh không chỉ giúp học sinh có biểu tượng chính xác, sinh động về sự kiện,
hiện tượng lịch sử mà còn khơi dậy cho các em những cảm xúc lịch sử, là cơ sở
để giáo dục đạo đức cho học sinh. Ví dụ khi dạy về “Các cuộc kháng chiến
chống Mông – Nguyên thời Trần ở thế kỉ XIII” giáo viên trích dẫn lời “Hịch
tướng sỹ” của Trần Hưng Đạo và những câu trả lời của Trần Hưng Đạo đối với
vua Trần trong kế sách đánh giặc. Từ đó, giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra
được nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên và
giải thích vì sao nhân dân lại đoàn kết với triều đình để chống giặc. Qua đó khơi
dậy lòng yêu nước, khâm phục và biết ơn đối với các anh hùng dân tộc từ đó các
em có ý thức bảo vệ nền độc lập và thống nhất của Tổ quốc.
Sử dụng tư liệu theo hướng phát triển năng lực học sinh đòi hỏi học sinh
phải tự làm việc nhiều với các nguồn tư liệu, điều này góp phần rèn luyện cho
10
các em tinh thần chuyên cần, hăng say và sáng tạo trong lao động và học tập,
chủ động trong công việc.
Về phát triển: Sử dụng tư liệu theo hướng phát triển năng lực học sinh có
tác dụng to lớn trong việc phát triển toàn diện học sinh đặc biệt là tư duy. Để
hiểu các sự kiện hiện tượng lịch sử một cách cụ thể, sinh động, học sinh phải
chủ động quan sát, tri giác, phát huy trí tưởng tượng, phán đoán, so sánh, đối
chiếu những sự kiện, hiện tượng lịch sử nhằm hiểu bản chất của vấn đề. Khi học
sinh tích cực độc lập hoạt động tư duy nhận thức, làm việc với các tư liệu lịch sử
sẽ giúp các em phát triển ngôn ngữ, trí nhớ và tư duy của mình. Ví dụ, khi dạy
chủ đề “Văn hóa Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX” giáo viên hướng
dẫn học sinh tìm các tư liệu lịch sử nói tình hình tôn giáo nước ta giai đoạn này
hoặc giáo viên cung cấp cho các em tư liệu lịch sử về tôn giáo nước ta từ thế kỉ
X đến nửa đầu thế kỉ XIX rồi hướng dẫn học sinh tự làm việc với các tư liệu
thông qua các câu hỏi gợi mở của giáo viên.
- Vì sao Phật giáo trở thành “Quốc giáo” thời Lí, Trần?
- Nho giáo du nhập vào nước ta khi nào, vị trí của nó qua các thời kì ? Vì
sao từ thời Lê sơ Nho giáo giữ vị trí độc tôn và Phật giáo bị hạn chế?
- Nhà Nguyễn có chính sách gì trước sự du nhập Thiên chúa giáo ? Vì
sao?
Để trả lời các câu hỏi trên, học sinh phải đọc các tư liệu mà giáo viên
cung cấp, phải nghiên cứu, phân tích, tổng hợp và đánh giá, rút ra kết luận.
Thông qua việc hoàn thành nhiệm vụ học tập đó sẽ giúp cho học sinh phát triển
được khả năng tri giác.
Mặt khác việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học
sinh góp phần phát triển các thành phần nhân cách của các em. Khi sử dụng tư
liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sẽ tạo ra trong các em những cảm
xúc lịch sử như sự yêu ghét, khâm phục hay căm thù, kích thích các hứng thú
học tập, ý chí vượt khó để hoàn thành nhiệm vụ. Bằng sự tích cực tư duy, chủ
động hoạt động học tập, sáng tạo qua sử dụng tư liệu lịch sử và kiến thức trong
sách giáo khoa, các em sẽ trở nên năng động hơn, tự tin, linh hoạt trước tập thể
và ngày càng làm chủ được kiến thức của mình. Chẳng hạn khi dạy về “Sự
thành lập và chính sách của nhà Mạc” giáo viên nêu rõ những ý kiến đánh giá
khác nhau về Mạc Đăng Dung. Có ý kiến cho rằng: “Mạc Đăng Dung là kẻ “
nghịch thần”, cướp ngôi nhà Lê, đáng bị lên án. Tuy nhiên lại có nhận định cho
rằng sự xuất hiện của Mạc Đăng Dung trên chính trường là một tất yếu, đáp ứng
yêu cầu, đòi hỏi của xã hội lúc bấy giờ. Ông là một danh nhân, có công lao lớn
đối với lịch sử dân tộc”. Quan điểm của em trước những ý kiến trên.
Để trả lời được câu hỏi trên đòi hỏi học sinh phải căn cứ vào hoàn cảnh
thành lập, chính sách của nhà Mạc kết hợp với tư liệu lịch sử để phân tích, rút ra
nhận xét. Với các hoạt động như vậy sẽ giúp học sinh phát triển tư duy phản
11
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) ,lớp 10, Ban cơ bản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_su_dung_tu_lieu_lich_su_theo_huong_phat_trien_nang_luc.docx