SKKN Sử dụng trò chơi trong dạy học môn hóa học ở trường THPT nhằm kích thích sự hứng thú học tập của học sinh
Nhằm đổi mới dạy học theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh. Giúp cho giáo viên có kĩ năng tốt nhất trong việc thiết kế các trò chơi, hướng dẫn học sinh thiết kế trò chơi và cách thức tổ chức các hoạt động trò chơi học tập để dạy học sinh trong môn Hóa học ở trường THPT cho phù hợp với nội dung.
MỤC LỤC
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ.......................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................ 3
2. Mục đích nghiên cứu:......................................................................................... 4
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:........................................................................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: .................................................................. 5
1.Cơ sở khoa học.................................................................................................... 6
1.1.Tổng quan nghiên cứu vấn đề:..................................................................... 6
1.2. Các khái niệm cơ bản................................................................................... 7
1.2.1. Trò chơi.................................................................................................. 7
1.2.2. Trò chơi dạy học.................................................................................... 7
2.1. Tổ chức khảo sát thực trạng......................................................................... 8
2.2. Kết quả khảo sát........................................................................................... 9
trường THPT.................................................................................................... 9
2.2.1.1. Mẫu khảo sát.................................................................................... 9
2.2.1.2. Kết quả khảo sát: ........................................................................... 10
2.2.2.1. Mẫu khảo sát.................................................................................. 11
2.2.2.2. Kết quả khảo sát. ........................................................................... 12
3. Biện pháp giải quyết vấn đề:............................................................................ 13
3.1.Xây dựng kế hoạch ..................................................................................... 13
3.2.1. Giáo viên thiết kế trò chơi. .................................................................. 14
3.2.1.2. Bài 14: Vật liệu polime.................................................................. 23
3.2.2. Học sinh thiết kế trò chơi..................................................................... 27
1
và hợp chất của chúng ................................................................................ 31
3.3. Kết quả thực nghiệm.................................................................................. 39
1. Kết luận:........................................................................................................... 45
2. Kiến nghị :........................................................................................................ 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 47
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GV
Giáo viên
HS
Học sinh
PPDH
THPT
GDĐT
SKKN
Phương pháp dạy học
Trung học phổ thông
Giáo dục đào tạo
Sáng kiến kinh nghiệm
2
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, những năm trước, phương pháp và hình thức dạy học
trong nhà trường phổ thông còn nặng về lý thuyết, ít thực hành thực nghiệm; việc
dạy học theo lối truyền thụ kiến thức một chiều “thầy giảng, trò chép” phần nào
mang tính áp đặt, ít khơi dậy cá tính, sự sáng tạo và khả năng tự học của học sinh...
Công tác kiểm tra đánh giá còn nặng về đánh giá định kỳ và đánh giá sự ghi nhớ
kiến thức của học sinh. Việc đánh giá quá trình và đánh giá học sinh vận dụng kiến
thức học được vào giải quyết vấn đề của thực tế cuộc sống chưa được quan tâm
đúng mức.
Xác định được vấn đề này, từ năm 2013, Bộ GDĐT đã ban hành nhiều văn
bản chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện các phương pháp dạy học/hoạt động
giáo dục và kiểm tra đánh giá tích cực. Nổi bật trong số đó có công văn số 3535
(năm 2013) Hướng dẫn triển khai thực hiện phương pháp “Bàn tay nặn bột” và các
phương pháp dạy học tích cực khác; công văn 791 (năm 2013) Hướng dẫn thí
điểm phát triển chương trình giáo dục nhà trường phổ thông; công văn 5555 (năm
2015) Hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm
tra, đánh giá; tổ chức và quản lí các hoạt động chuyên môn của trường trung
học…Nhiều mô hình giáo dục tích cực như Trường học mới, Dạy học Mỹ thuật
theo phương pháp của Đan Mạch, Dạy học gắn với sản xuất - kinh doanh - dịch vụ
và bảo vệ môi trường tại địa phương… cũng được Bộ GDĐT cho thí điểm triển
khai. Song song với đó, Bộ tăng cường chỉ đạo hướng dẫn dạy học vận dụng kiến
thức liên môn vào giải quyết các vấn đề thực tiễn thông qua “Dạy học dựa trên dự
án”, tổ chức các “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo”. Công văn 4612 (năm 2017)
hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục phổ thông hiện hành theo định hướng
phát triển năng lực và phẩm chất học sinh từ năm học 2017-2018 là bước tổng kết
các đổi mới trước đây để triển khai đồng bộ ở các địa phương, vừa là sự chuẩn bị
để giáo viên, các nhà trường từng bước làm quen, tiệm cận với yêu cầu của chương
trình GDPT mới
Đặc biệt gần đây, thông tư số 32/2018/TT-BGĐT ngày 26/12/2018 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo nêu định hướng về phương pháp giáo dục trong Chương trình
giáo dục phổ thông 2018 có nội dung :” Các môn học và hoạt động giáo dục trong
nhà trường áp dụng các phương pháp tích cực hóa hoạt động học sinh, trong đó giáo
viên đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn hoạt động cho học sinh, tạo môi trường học tập
thân thiện và những tình huống có vấn đề để khuyến khích học sinh tích cực tham
gia vào các hoạt động học tập, tự phát huy tiềm năng và những kiến thức, kỹ năng
đã tích lũy được để phát triển.” Công văn hướng dẫn số 1602/SGD&ĐT-GDTrH
ngày 30/8/2019 của sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An về việc hướng dẫn thực hiện
nhiệm vụ giáo dục trung học năm học 2019-2020 “ Thực hiện thường xuyên, hiệu
quả các phương pháp, hình thức và kỹ thuật dạy học tích cực; Đổi mới phương thức
đánh giá học sinh” nhằm phát triển phẩm chất năng lực học sinh. Công văn hướng
3
dẫn số 319/CĐN ngày 12/10/2017 của Công đoàn Giáo dục Nghệ An về việc tham
gia thực hiện phong trào thi đua “Đổi mới, sáng tạo trong dạy và học” giai đoạn
2016 - 2020.
Việc chỉ đạo và hướng dẫn triển khai đổi mới phương pháp, hình thức dạy
học, kiểm tra đánh giá của Bộ GDĐT và Sở GDĐT suốt giai đoạn vừa qua được
đánh giá là “có tác động tích cực”, không ít địa phương, nhà trường đã thực hiện
tốt và nâng cao được chất lượng giáo dục. Bản thân tôi và đồng nghiệp cũng đã
thực hiện đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, kiểm tra đánh giá học
sinh theo định hướng tiếp cận năng lực. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều phương pháp và
kĩ thuật dạy học phát huy tính tích cực học tập cho học sinh vẫn chưa được triển
khai, một trong những phương pháp dạy học chưa được đông đảo giáo viên THPT
quan tâm sử dụng đó là phương pháp dụng trò chơi trong dạy học. Việc sử dụng trò
chơi trong dạy học là một biện pháp dạy học phù hợp với xu hướng đổi mới dạy
học hiện đại. Trong chương trình dạy học môn Hóa học ở trường THPT, nhiều nội
dung nếu được thiết kế để tổ chức theo trò chơi dạy học sẽ phát huy được tính tích
cực học tập của học sinh và mang lại hiệu quả cao trong quá trình dạy học theo
định hướng phát triển phẩm chất năng lực cho học sinh. Xuất phát từ những lý do
trên, tôi chọn đề tài “SỬ DỤNG TRÒ CHƠI TRONG DẠY HỌC MÔN HÓA
HỌC Ở TRƯỜNG THPT NHẰM KÍCH THÍCH SỰ HỨNG THÚ HỌC TẬP
CỦA HỌC SINH” để nghiên cứu và thực hiện.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nhằm đổi mới dạy học theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh.
Giúp cho giáo viên có kĩ năng tốt nhất trong việc thiết kế các trò chơi, hướng dẫn
học sinh thiết kế trò chơi và cách thức tổ chức các hoạt động trò chơi học tập để
dạy học sinh trong môn Hóa học ở trường THPT cho phù hợp với nội dung.
Thông qua hoạt động học tập là trò chơi và hoạt động thiết kế trò chơi để
giúp HS thêm hứng thú học tập và tiếp thu bài tốt hơn, thêm yêu thích môn Hóa
học, đồng thời cũng hình thành cho các em các phẩm chất: trách nhiệm, trung thực,
chăm chỉ …và các năng lực : Tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn
đề và sáng tạo, Công nghệ thông tin… Vì thế cùng với các phương pháp dạy học
khác, sử dụng trò chơi trong dạy học Hóa học ở trường THPT là phương pháp
nhằm tích cực hoá hoạt động học sinh, phát huy tính tích cực, tính chủ động, tính
sáng tạo của học sinh trong học tập.
Tổ chức báo cáo chuyên đề: “ thiết kế Games-based-learnig nhằm phát triển
phẩm chất, năng lực cho HS” với đồng nghiệp để chia sẻ kinh nghiệm trong việc
thiết kế trò chơi, hướng dẫn học sinh thiết kế trò chơi, và cách thức tổ chức các
hoạt động trò chơi trong quá trình dạy học ở trường THPT.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu ở trên, tôi đề ra các nhiệm vụ và kế hoạch
nghiên cứu cụ thể như sau:
4
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc xây dựng và sử dụng trò
chơi trong dạy học ở trường THPT nơi công tác.
- Khảo sát thực trạng việc thiết kế và sử dụng trò chơi trong dạy học ở trường
THPT nơi công tác.
- Xây dựng hệ thống các trò chơi; hướng dẫn học sinh thiết kế và tổ chức trò chơi
trong dạy học môn Hóa học 12 ở trường THPT và các biện pháp sử dụng hệ thống
trò chơi do GV và HS đã thiết kế.
- Đánh giá hiệu quả của phương pháp về khả năng định hướng phát triển phẩm
chất, năng lực cho HS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là hệ thống trò chơi dạy học trong dạy học môn Hóa
học 12 ở trường THPT, các phương pháp và kĩ thuật tổ chức dạy học tích cực:
phương pháp trò chơi, phương pháp hợp tác nhóm, kĩ thuật mảnh ghép, kĩ thuật sơ
đồ tư duy, kĩ thuật Think-pair-share,....
Đề tài được bắt đầu tìm hiểu và tiến hành từ tháng 8 năm 2019, được áp
dụng vào giảng dạy ở một số lớp tại trường THPT nơi tôi đang giảng dạy.
Báo cáo và rút kinh nghiệm tại trường tháng 3 năm 2020.
5
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
1.Cơ sở khoa học
1.1.Tổng quan nghiên cứu vấn đề:
Ở các nước phát triển, nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy áp dụng trò chơi
vào việc dạy học(Game Based Learning) là cực kì hữu ích để thúc đẩy sự phát
triển tư duy, sáng tạo, khả năng vận dụng kiến thức của HS. Tại Thụy Điển, trò
chơi Minecraft nổi tiếng hiện đang được sử dụng để dạy học sinh các môn khoa
học, toán và địa lý. Cũng từ trải nghiệm thực tế cho con học online qua các phần
mềm hoặc website nổi tiếng trên thế giới, tôi nhận thấy rằng các phầm mềm hoặc
các website đó thiết kế chủ yếu dựa trên hoạt động chơi, giúp con say mê và hứng
thú học. Chẳng hạn, Chương trình tiếng Anh Lingokids được thiết kế bởi các
chuyên gia, giảng viên và giáo viên chuyên về giảng dạy ngôn ngữ cho trẻ em. Nội
dung xây dựng bởi Oxford University Press, thiết kế trải nghiệm bởi các chuyên
gia am hiểu phương pháp giáo dục cho trẻ nhỏ, rất khéo léo dẫn dắt trẻ đi từ trò
chơi tương tác thú vị tới clip bài giảng của giáo viên bản ngữ, rồi các bài hát,
các câu chuyện và các trò chơi từ vựng thú vị khác. Với Lingokids, trẻ thực sự thấy
mình được chơi, chơi vui vẻ và trở thành đứa trẻ song ngữ nhờ những bài học
tương tác chất lượng cao được thiết kế theo hệ thống chủ đề rõ ràng. Chương trìn
Matific là chương trình học toán bằng tiếng Anh theo cách thật sinh động và thú vị
qua các trò chơi tương tác. Với khoảng 2.000 trò chơi được thiết kế kỹ lưỡng về
nội dung, matific giúp trẻ tiếp nhận các khái niệm toán học một cách đơn giản và
gần gũi do luôn có sự liên hệ với tình huống thực tiễn xung quanh trẻ.
Hiện nay, hàng tỉ giáo viên trên thế giới ngày đêm đang thay đổi phương
pháp dạy học, không ngừng sáng tạo để tạo ra cách thức dạy học cho các chủ đề
dạy học, sử dụng trò chơi trong dạy học, chỉ cần tìm kiếm với các từ khóa “ How
to make game based learning”, “game based learning”,“Chemistry games”… trên
Google.com, trên Pinterest.com , Youtube.com chúng ta sẽ thu được rất nhiều kết
quả, nhiều ý tưởng trò chơi dạy học mà các giáo viên và học sinh trên thế giới đã
thực hiện. Nhiều chuyên gia còn cho rằng: "Những lớp học tương lai nên được
“game hóa” để học sinh không cảm giác mình đang thật sự học, cảm thấy thoải mái
và yêu thích việc học hơn."
Ở Việt Nam, có nhiều tác giả như Phan Huỳnh Hoa, Vũ Minh Hồng, Trương
Kim Oanh, Phan Kim Liên, Lê Bích Ngọc, Nguyễn Ánh Tuyết, Nguyễn Ngọc
Trâm… đã nghiên cứu về việc thiết kế và sử dụng trò chơi dạy học dưới các góc độ
và các bộ môn khác nhau. Các tác giả đặc biệt quan tâm đến ý nghĩa phát triển của
trò chơi học tập, không chỉ phát triển ở các giác quan mà phát triển các chức năng
tâm lý chung của người học. Trong tác phẩm “trò chơi trẻ em”, tác giả Nguyễn
Ánh Tuyết đã đề cập đến trò chơi trí tuệ. Loại trò chơi này có tác dụng thúc đẩy
hoạt động trí tuệ của trẻ. Trong tác phẩm này, bà đã giới thiệu một số trò chơi trí
tuệ dành cho trẻ em [7]. Còn tác giả Trần Thị Ngọc Trâm đã thiết kế một hệ thống
6
trò chơi học tập nhằm phát triển khả năng khái quát hóa của trẻ mẫu giáo lớn [8].
Một số luận văn, luận án và các nhà nghiên cứu gần đây cũng đề cập đến việc xây
dựng và sử dụng trò chơi dạy học nhằm phát huy tính tích cực của người học[9].
Tuy nhiên, các tác giả chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu chủ yếu là trẻ nhỏ, rất ít
các đề tài nghiên cứu liên quan đến thiết kế và sử dụng trò chơi học tập đối với học
sinh THPT, đó chính là cơ sở, là động lực cho việc nghiên cứu đề tài của tôi.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Trò chơi
Chơi là một trong những hoạt động của con người, có mặt trong đời sống
con người ở mọi lứa tuổi, mặc dù hình thức chơi thay đổi khi một người lớn lên già
đi. Khi chơi, cả người lớn lẫn trẻ em đều say mê, vui vẻ, thoải mái. Rõ ràng khó
có thể đưa ra một khái niệm chung cho một hiện tượng “chơi” trong toàn bộ phạm
vi hoạt động rộng lớn của con người vì hình thức thể hiện của hoạt độngchơi vô
cùng đa dạng cả về nội dung lẫn hình thức. Theo từ điển Tiếng Việt, chơi là hoạt
động giải trí hoặc nghỉ ngơi; dùng làm thú vui, thú tiêu khiển; có quan hệ quen
biết, gần gũi nhau trên cơ sở cùng chung thú vui, thú tiêu khiển; hoạt động chỉ
nhằm cho vui mà thôi, không có mục đích gì khác...[6]
Một số nhà tâm lý – giáo dục học cho rằng trò chơi là do bản năng quy
định, chơi chính là sự giải tỏa năng lượng dư thừa và trò chơi là hoạt động trí tuệ
thuần túy là một nhân tố quan trọng đối với sự phát triển trí tuệ. Những đặc điểm
của trò chơi là: vui, độc lập (hạn chế trong một địa điểm và một khoảng thời gian),
may rủi, không sinh lợi (những người chơi không đạt tới một lợi ích vật chất cụ
thể), có luật chơi [10]
Trò chơi được truyền thụ từ thế hệ này sang thế hệ khác chủ yếu bằng con
đường giáo dục. Các trò chơi đều có luật lệ, quy tắc, nhiệm vụ, yêu cầu tức là có
tổ chức và thiết kế, nếu không có những thứ đó thì không phải trò chơi mà chỉ có
sự chơi đơn giản. Như vậy, trò chơi là tập hợp các yếu tố chơi, có hệ thống và có tổ
chức, vì thế luật hay quy tắc chính là phương tiện tổ chức tập hợp đó.
Tóm lại, trò chơi chính là sự chơi có luật, những hành vi chơi tùy tiện, bất
giác không gọi là trò chơi.
1.2.2. Trò chơi dạy học
Trò chơi dạy học có nguồn gốc trong nền giáo dục dân gian, trong những trò
chơi đầu tiên của mẹ với con, trong các trò vui và những bài hát khôi hài làm cho
đứa trẻ chú ý đến những vật xung quanh, gọi tên các vật đó và dùng hình thức đó
để dạy con, những trò chơi đó có chứa đựng các yếu tố dạy học.
Tổng hợp các lý thuyết nghiên cứu về trò chơi dạy học của các nhà nghiên
cứu , có tác giả cho rằng những trò chơi giáo dục được lựa chọn và sử dụng trực
tiếp để dạy học, tuân theo mục đích, nội dung, các nguyên tắc và phương pháp dạy
học, có chức năng tổ chức, hướng dẫn và động viên trẻ hay học sinh tìm kiếm và
7
lĩnh hội tri thức, học tập và rèn luyện kỹ năng, tích lũy và phát triển các phương
thức hoạt động và hành vi ứng xử xã hội, văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ, pháp luật,
khoa học, ngôn ngữ, cải thiện và phát triển thể chất, tức là tổ chức và hướng dẫn
quá trình học tập của học sinh khi họ tham gia trò chơi gọi là trò chơi dạy học. Các
nhiệm vụ, quy tắc, luật chơi và các quan hệ trong trò chơi dạy học được tổ chức
tương đối chặt chẽ trong khuôn khổ các nhiệm vụ dạy học và được định hướng vào
mục tiêu, nội dung học tập. Trò chơi dạy học được sáng tạo ra và được sử dụng bởi
các nhà giáo và người lớn dựa trên những khuyến nghị của lý luận dạy học, đặc
biệt là của lý luận dạy học các môn học cụ thể. Chúng phản ánh lý thuyết, ý tưởng,
mục tiêu của nhà giáo, là một trong những hoạt động giáo dục không tuân theo bài
bản cứng nhắc như những giờ học.
1.2.3. Ý nghĩa của trò chơi trong dạy học.
Học trong quá trình vui chơi, là quá trình lĩnh hội tri thức vốn sống một
cách nhẹ nhàng, tự nhiên không gò bó phù hợp với đặc điểm tâm lí sinh học ở học
sinh. Học tập bằng trò chơi sẽ khơi dậy hứng thú tự nguyện, làm giảm thiểu sự
căng thẳng thần kinh ở các em. Trong lúc chơi tinh thần của học sinh thường rất
thoải mái nên khả năng tiếp thu kiến thức trong lúc chơi sẽ tốt hơn, hoặc sau khi
chơi cũng sẽ tốt hơn. Trò chơi dạy học giúp xua đi nỗi lo âu nặng nề của việc học
cho học sinh, giúp gắn kết tình cảm giữa HS với HS và giứa HS với giáo viên.
Trong quá trình chơi, học sinh huy động các giác quan để tiếp nhận thông
tin. Học sinh phải tự phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa làm cho các giác
quan tinh nhạy hơn, ngôn ngữ mạch lạc hơn, các thao tác trí tuệ được hình thành.
Học sinh tiếp thu, lĩnh hội và khắc sâu được nhiều tri thức, nhiều khái niệm. Trò
chơi dạy học cũng có thể hình thành nên cho học sinh những kĩ năng của môn học,
học sinh không chỉ có cơ hội tìm hiểu kiến thức, ôn tập lại các kiến thức đã biết mà
còn có thể có được kinh nghiệm, hành vi. Một số trò chơi dạy học còn giúp cho
học sinh có khả năng tư duy, cách giải quyết vấn đề nhanh nhẹn không chỉ trong
lĩnh vực mình chơi mà cả các lĩnh vực của cuộc sống… Trên cơ sở đó trò chơi dạy
học có thể định hướng phát triển phầm chất, năng lực cho HS.
2.Thực trạng thiết kế và sử dụng trò chơi trong dạy học ở trường THPT
2.1. Tổ chức khảo sát thực trạng
- Mục đích khảo sát: Xây dựng cơ sở thực tiễn cho việc đề thiết kế và sử dụng trò
chơi trong dạy học môn Hóa học ở trường THPT.
- Đối tượng khảo sát: GV và HS trường THPT nơi tôi công tác.
- Nội dung khảo sát:
1) Nhận thức của HS về việc thiết kế và sử dụng trò chơi trong dạy học ở trường
THPT.
2) Thực trạng thiết kế và sử dụng trò chơi dạy học trong dạy học ở THPT của GV
8
- Phương pháp khảo sát: Bằng phương pháp quan sát (thông qua dự giờ, thăm lớp),
điều tra bằng phiếu Google forms, phỏng vấn trực tiếp GV, HS… để thu thập
thông tin về thực trạng nghiên cứu.
- Thời gian khảo sát: Tháng 8 năm 2019.
2.2. Kết quả khảo sát
2.2.1 Nhận thức của HS về việc thiết kế và sử dụng trò chơi trong dạy học ở
trường THPT.
2.2.1.1. Mẫu khảo sát
Để phục vụ cho việc nghiên cứu của Cô, mong các em HS vui lòng cho biết
ý kiến của mình về những vấn đề sau bằng cách đánh dấu (x) vào trước câu trả lời
đúng với ý kiến của các em, hoặc ghi câu trả lời vào một số câu hỏi dưới đây . Xin
chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các em HS!
Câu 1: Các em HS cho biết ở THPT các em đang học, GV có sử dụng trò
chơi trong dạy học không?
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Rất ít khi
Không bao giờ
Câu 2: Trong dạy học ở trường THPT, theo các em HS thì GV thiết kế và sử
trò chơi trong dạy học là?
Rất cần thiết
Cần thiết
Không cần thiết
Câu 3: Ở trường các em, khi GV sử dụng trò chơi, các em cảm thấy?
Rất thích, hào hứng tham gia
Thích
Bình thường
Căng thẳng, mệt mỏi.
Uể oải, chán nản.
Câu 4: Ở trường THPT, khi tham gia trò chơi do GV thiết kế, tổ chức chơi
và trò chơi do HS tự thiết kế rồi tổ chức cho nhau chơi thì các em thấy?
Thích trò chơi do GV thiết kế và tổ chức.
Thích trò chơi do HS tự thiết kế và tổ chức cho nhau chơi
Thích cả 2 cách.
9
Không thích cách nào.
Ý kiến khác.
2.2.1.2. Kết quả khảo sát:
Qua 4 câu hỏi nhiều lựa chọn, kết quả hỏi ý kiến 93 HS các lớp tôi trực tiếp
giảng dạy, cho thấy:
- 75,3 % số HS cho rằng GV “rất ít khi” sử dụng trò chơi trong dạy học ở trường
THPT.
- 61,3% số HS khẳng định việc xây dựng và sử dụng trò chơi trong dạy học ở
trường THPT là “cần thiết”, và không có HS nào lựa chọn là “không cần thiết”
- Về hứng thú của HS khi GV sử dụng trò chơi trong dạy học ở trường THPT thì
hầu hết học sinh lựa chọn “ Thích” hoặc “ Rất thích”. Cũng có một số ít HS lựa
chọn “bình thường”.
10
- Đặc biệt, các em HS ở trường THPT thích được tự thiết kế trò chơi và tổ chức
cho nhau chơi trong quá trình học tập
Qua kết quả khảo sát HS, tôi thấy rằng việc thiết kế và sử dụng trò chơi
trong giảng dạy ở trường THPT nói chung và môn Hóa học nói riêng là cần thiết,
phù hợp với nhu cầu học tập của HS.
2.2.2.Thực trạng thiết kế và sử dụng trò chơi trong dạy học ở THPT của GV
2.2.2.1. Mẫu khảo sát.
Để giúp tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình, mong quý Thầy (Cô) vui
lòng cho biết ý kiến của mình về những vấn đề sau bằng cách đánh dấu (x) vào
trước câu trả lời đúng với ý kiến của Thầy (Cô) hoặc ghi câu trả lời vào một số câu
hỏi dưới đây. Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của quý Thầy (Cô)!
Câu 1: Thầy (Cô) cho biết sự cần thiết của việc sử dụng trò chơi dạy học
trong dạy học ở trường THPT?
Rất cần thiết
Cần thiết
Không cần thiết.
Ý kiến khác….
Câu 2: Theo Thầy (Cô) sử dụng trò chơi trong dạy học trên lớp ở trường
THPT có tác dụng như thế nào?
Định hướng phát triển các phẩm chất cho HS.
Định hướng phát triển các năng lực cho HS.
Định hướng phát triển phẩm chất, năng lực cho HS.
Không có tác dụng.
Ý kiến khác.
Câu 3: Trong dạy học ở trên lớp, nếu Thầy Cô sử dụng trò chơi thì sẽ sử
dụng trong nội dung nào?
Khởi động.
11
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Sử dụng trò chơi trong dạy học môn hóa học ở trường THPT nhằm kích thích sự hứng thú học tập của học sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_su_dung_tro_choi_trong_day_hoc_mon_hoa_hoc_o_truong_thp.pdf