SKKN Sử dụng tài liệu văn học giúp học sinh hứng thú học tập lịch sử Việt Nam 7

Trong nhà trường, bộ môn lịch sử là một trong những bộ môn có tầm quan trọng và có tính giáo dục rất lớn, nó cung cấp cho học sinh một bức tranh sinh động về lịch sử loài người và lịch sử dân tộc
SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NỘI  
MÃ SKKN  
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM  
Sử dụng tài liệu văn học giúp học sinh  
hứng thú học tập lịch sử Việt Nam 7  
Lĩnh vực: Lịch sử  
Cấp học: Trung học cơ sở  
Năm học 2015-2016  
1
1. ĐẶT VẤN ĐỀ:  
1.1. Lí do chọn đề tài:  
Trong nhà trường, bộ môn lịch sử một trong những bộ môn có tầm  
quan trọng và có tính giáo dục rất lớn, nó cung cấp cho học sinh một bức tranh  
sinh động về lịch sử loài người lịch sử dân tộc  
Trong quá trình giảng dạy môn lịch sử , các bài học nội dung truyền đạt  
cho học sinh chỉ những kênh chữ, một vài bài có cung cấp thêm hình ảnh.  
Trong các tiết dạy lịch sử đa số giáo viên chỉ chú ý bám sát nội dung kiến thức  
trong sách giáo khoa mà chưa chú ý sử dụng những hình thức khác để bổ trợ làm  
cho tiết học thêm sinh động.  
dụ như cung cấp thêm những hình ảnh ngoài sách giáo khoa hoặc  
những mẫu chuyện kể về những con người đã góp phần xây dựng đất nước để có  
được những thành tựu của hôm nay mà trong sách giáo khoa không đề cập đến.  
Qua tiết dạy không đem lại hứng thú cho học sinh, tiết học trở nên khô khan đôi  
lúc học sinh lại những suy nghĩ lệch lạc về những nhân vật lịch sử hoặc  
những sự kiện lịch sử quan trọng.  
Từ yêu cầu thực tế trên đòi hỏi chúng ta phải đổi mới phương pháp dạy  
học lịch sử nhằm giúp học sinh hứng thú học tập, phát huy tính tích cực của học  
sinh, giúp học sinh duy và nắm được nội dung kiến thức trọng tâm đã học.  
vậy người giáo viên phải biết sử dụng đến kiến thức các môn học khác  
như địa, công dân, văn học, vật lí… Những bộ môn đó làm cho giờ học lịch sử  
sống động hơn, hấp dẫn học sinh hơn. Trong đó nếu giáo viên biết vận dụng một  
số câu trích dẫn, câu văn, câu thơ, đoạn trích để miêu tả tường thuật một sự kiện,  
một cuộc đời hoạt động của nhân vật, một cuộc cách mạng…sẽ làm phong phú  
tri thức học sinh, giúp học sinh yêu thích, hứng thú say mê học tập môn lịch sử  
sẽ làm bớt đi skhô khan của giờ học môn lịch sử  
Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch sử  
nói riêng, tôi xin trình bày một số vấn đề về việc: Sử dụng tài liệu văn học  
giúp học sinh hứng thú học tập lịch sử Việt Nam 7”. Với việc nghiên cứu đề  
tài này, tôi mong muốn sẽ góp phần giúp giáo viên có một giờ dạy học hiệu  
quả tốt hơn, học sinh lĩnh hội kiến thức tự giác, chủ động, ngày càng yêu thích  
môn học.  
1.2. Phạm vi nghiên cứu:  
Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy học tập với “Gây hứng  
thú học tập lịch sử bằng tài liệu văn học ”. Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng  
cho đề tài này là khối 7 của trường THCS Khương Mai.  
1.3. Phương pháp nghiên cứu  
Thao giảng, dự giờ đồng nghiệp trao đổi rút kinh nghiệm qua từng tiết  
dạy.  
Nghiên cứu các tài liệu về phương pháp dạy học lịch sử.  
Sách giáo khoa, sách bài tập, sách giáo viên lịch sử lớp 7  
Các tác phẩm văn học có liên quan  
2
Sử dụng các câu hỏi điều tra có thể đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của  
việc đánh giá khả năng lĩnh hội kiến thức của học sinh trong việc giảng dạy môn  
lịch sử lớp 7, để khắc phục nhược điểm trong phương pháp kiểm tra đánh giá  
cần phối hợp các phương pháp hiện đại, trong đó phương pháp kiểm tra bằng  
câu hỏi trắc nghiệm khách quan.  
Kiểm tra đánh giá kết quả học sinh học và làm bài để từ đó điều chỉnh  
bổ sung hợp lí  
3
2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:  
2.1. Cơ sơ luận:  
2.1.1. Những yêu cầu chung đối với giáo viên lịch sử:  
Bất cứ giáo viên bộ môn nào đều phải tư tưởng, tình cảm đúng đắn  
lành mạnh, trong sáng, có lòng nhiệt thành đối với nghề nghiệp, thế giới  
khách quan khoa học và nhân sinh quan tiến bộ để góp phần hình thành thế hệ  
trẻ theo mục tiêu đào tạo của Đảng.  
Không ngừng nâng cao sự hiểu biết kiến thức bộ môn, có phương pháp  
dạy tốt, không ngừng hoàn thiện cải tiến phương pháp giảng dạy nghiệp vụ.  
Giảng dạy đưa đến cho thế hệ trẻ, giúp thế hệ trẻ tiếp nhận những giá trị  
quí báu của loài người về phương diện tri thức cũng như về phương diện tình  
cảm, tư tưởng góp phần bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho thế hệ trẻ.  
Giảng lịch sử giảng về quá khứ của hội loài người, quá khứ của dân  
tộc, quá khứ của địa phương. Những quá khứ đó lại có quan hệ mật thiết với  
hiện tại tương lai. Trong bài giảng, bài học lịch sử tư duy, tình cảm của giáo  
viên và học sinh hướng về những rất gần gũi đó những con người thật  
những con người cụ thể chứ không phải những con người hư cấu. Trong lịch  
sử dân tộc địa phương những con người đó lại càng gần gũi hơn đó tổ tiên,  
ông bà, cha mẹ, anh chị của những người đang giảng dạy học tập lịch sử  
Để giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức giáo viên bắt đầu từ việc giúp học  
sinh hiểu biết cụ thể, nắm được kiến thức lịch sử. Đó nhiệm vgiáo dưỡng và  
giáo dục. Có câu: “Lời khen của sử còn vinh dự hơn áo đẹp vua ban, lời chê của  
sử còn nghiêm khắc hơn búa rìu, sử thực sự là cái cân, cái gương của muôn đời.”  
Qua đó ta thấy được môn lịch sử vô cùng quan trọng không những cung cấp  
những kiến thức cơ bản về lịch sử dân tộc lịch sử thế giới mà còn góp phần  
quan trọng vào việc hình thành nhân cách cho học sinh  
2.1.2. Thực trạng dạy học ở trường THCS Khương Mai.  
a. Thuận lợi:  
Giáo viên có nhiều cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình  
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy  
học như: sử dụng dồ dùng trực quan, phương pháp giải quyết vấn đề, miêu tả, kể  
chuyện, nêu đặc điểm nhân vật …. Giáo viên tích cực hướng dẫn học sinh thảo  
luận nhóm, hỗ trợ kiến thức cho nhau, thông qua hoạt động này những học sinh  
yếu kém sẽ được sự hướng dẫn của giáo viên và các học sinh khá giỏi, học sinh  
sẽ nắm chắc kiến thức hiểu sâu hơn về bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch  
sử. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên kết hợp và khai thác triệt để các đồ  
dùng và phương tiện dạy học như tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, mô hình, ứng dụng  
công nghệ thông tin…  
Học sinh có chú ý nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu hỏi giáo  
viên đặt ra, một số em có chuẩn bị bài mới ở nhà. Đa số học sinh tham gia tích  
cực trong việc thảo luận nhóm và đã đưa hiệu quả cao trong quá trình lĩnh hội  
kiến thức. Học sinh yếu, kém đã đang nắm bắt kiến thức trọng tâm cơ bản  
thông qua các hoạt động như thảo luận nhóm, đọc sách giáo khoa, vấn đáp… các  
4
em đã mạnh dạn trả lời các câu hỏi ghi nhớ các sự kiện, nhân vật, một quá trình  
cách mạng trong việc chiếm lĩnh kiến thức của mình.  
b. Khó khăn:  
Vẫn còn một số ít giáo viên chưa tích cực hóa hoạt động của học sinh tạo  
điều kiện cho các em suy nghĩ, nắm vững kiến thức, vẫn còn sử dụng phương  
pháp dạy học “thầy nói, trò nghe’, “thầy đọc, trò chép”. Do đó nhiều học sinh  
chưa nắm kiến thức chỉ học thuộc một cách máy móc, trả lời câu hỏi thì nhìn  
sách giáo khoa hoàn toàn. Một số câu hỏi giáo viên đặt ra khó, học sinh không  
trả lời được nhưng lại không có câu hỏi gợi ý nên nhiều khi phải trả lời thay cho  
học sinh. Một số tiết giáo viên chỉ nêu vài câu hỏi chỉ gọi một số học sinh  
khá, giỏi trả lời, chưa có câu hỏi dành cho đối tượng học sinh yếu, kém, làm cho  
đối tượng này ít được chú ý và không được tham gia hoạt động đều này làm cho  
các em tự ti về năng lực của mình, các em cảm thấy chán nản và không yêu  
thích môn học.  
Học sinh chưa có tinh thần học tập, một số em vừa học vừa làm, việc tiếp  
thu bài chậm, đặt câu hỏi phải cụ thể, lặp lại nhiều lần. Các em chưa xác định  
được động cơ học tập, học như thế nào? học cho ai? học để làm gì? Vì thế các  
em chưa phát huy hết vai trò và trách nhiệm của người học sinh. Học sinh chưa  
xác định nội dung của bài học, tiếp thu bài một cách máy móc, các em luôn có  
tư tưởng lịch sử là môn phụ nên không cần thiết.  
c. Điều tra cụ thể:  
Trong quá trình vừa giảng dạy vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập  
bộ môn của học sinh vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy.Việc điều  
tra được thực hiện thông qua những câu hỏi phát triển tư duy trên lớp, kiểm tra  
15 phút, kiểm tra 1 tiết ….  
Qua điều tra, đa số học sinh chỉ trả lời những câu hỏi mang tính chất trình  
bày, còn những câu hỏi giải thích tại sao, so sánh, đánh giá nhận thức thì trả lời  
chưa được tốt, chưa biết vận dụng và liên hệ kiến thức giữa các bài các chương,  
chưa nắm rõ các sự kiện lịch sử qua các giai đoạn hay lẫn lộn giữa sự kiện này  
với sự kiện khác.  
2.2. Giải Pháp thực hiện:  
2.2.1. Đối với học sinh:  
Học sinh phải đọc trước bài mới trong sách giáo khoa, chuẩn bị tất cả các  
câu hỏi trong SGK phần sẽ học.  
Trong giờ học phải chú ý nghe giảng bài, tích cực phát biểu ý kiến, xây  
dựng bài, không tiếp thu máy móc phải có suy nghĩ.  
Biết cách làm việc theo nhóm, hợp tác với bạn để hoàn thành nhiệm vụ  
giáo viên giao cho.  
Học sinh tự giác học tập, dựa vào kiến thức giáo viên truyền thụ học sinh  
phải biết tự mình tìm tòi, sáng tạo, phân tích sự kiện hoặc so sánh sự kiện này  
với sự kiện khác.  
Học sinh cần quyển sổ tay để ghi những vấn đề, những thông tin giáo  
viên cung cấp mà không có trong sách giáo khoa.  
Học sinh phải biết sử dụng bản đồ, lược đồ trình bày diễn biến một cuộc  
khởi nghĩa hoặc một giai đoạn lịch sử.  
5
2.2.2. Đối với giáo viên:  
Chuẩn bị tất cả đồ dùng dạy học khi lên lớp: giáo án (hoặc giáo án điện  
tử), bản đtranh ảnh, sơ đồ….  
Hạn chế giảng giải, thuyết trình, hạn chế đưa ra những câu hỏi vụn vặt  
nên tập hợp các câu hỏi thành gợi ý, hướng giải quyết vấn đề.  
Khi giảng bài mới phải kết hợp nhiều phương pháp và kết hợp với liên hệ  
kiến thức cũ.  
Khi học sinh làm việc theo nhóm, giáo viên cần theo dõi, giải đáp ngay  
các thắc mắc của học sinh.  
Không nên đưa ra những câu hỏi quá đơn giản như: có, đúng, không, sai.  
Nếu đặt câu hỏi như vậy phải kèm theo vế sau như vì sao? Hoặc tại sao?  
Câu hỏi phải đi từ dễ đến khó, nếu đặt câu hỏi khó sẽ làm cho học sinh  
căng thẳng. Nếu câu hỏi khó giáo viên nên gợi ý cho học sinh trả lời, không nên  
cho học sinh suy nghĩ quá lâu làm không khí lớp nặng nề.  
Trong lúc học sinh suy nghĩ trả lời, giáo viên không nên hối thúc học  
sinh, có thể nêu gợi ý tạo cho học sinh không khí thoải mái.  
Khi học sinh trả lời giáo viên phải nhận xét câu trả lời của học sinh, nếu  
thiếu thể cho một học sinh khác bổ sung hoặc giáo viên trình bày cụ thể.  
Nếu dạy những bài có các danh nhân, vị anh hùng dân tộc nên sơ lược  
thân thế sự nghiệp, kết hợp giáo dục tư tưởng đạo đức.  
Nội dung bài phải thật ngắn gọn động nhưng phải đảm bảo nội dung  
cơ bản, cần nhấn mạnh ý chính của bài.  
2.2.3. Một số giải pháp thực tế gây hứng thú học tập lịch sử bằng tài  
liệu văn học :  
a. Phương pháp sử dụng tài liệu văn học:  
Trong thực tiễn dạy học, các tác phẩm văn học dân tộc cũng như thế giới  
có vai trò to lớn đối với việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Trước hết các  
tác phẩm văn học bằng những hình tượng cụ thể có tác động mạnh mẽ đến tư  
tưởng, tình cảm người đọc, trình bày những nét đặc trưng điển hình của các hiện  
tượng kinh tế, chính trị những qui luật của của đời sống hội. Trong khi sáng  
tác một tác phẩm nhà văn phải nghiên cứu các tài liệu lịch sử, không ít tác phẩm  
văn học tự nó là tư liệu lịch sử . Ví dụ như Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, Lục  
Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh…  
Trong việc giảng dạy, giáo viên thường sử dụng các loại tài liệu văn học  
chủ yếu: văn học dân gian, các tác phẩm ra đời vào thời xảy ra sự kiện lịch sử,  
truyện, tiểu thuyết, thơ….  
Văn học dân gian ra đời sớm với nhiều thể loại như : thần thoại, truyền  
thuyết, cổ tích dân ca, ca dao, tuyện trạng, truyện cười…. Đây là tài liệu phản  
ánh nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc. dụ như truyện Thánh  
Gióng, qua câu chuyện ta xác định được những yếu tố hiện thực của lịch sử là  
thời Hùng Vương thứ 6 (tương ứng với thời nhà Ân Trung Quốc), đồ sắt phát  
triển với vũ khí công cụ dùng đều bằng sắt (nón sắt, giáp sắt, gậy sắt, ngựa sắt),  
đồng thời nêu cao truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm, bảo vệ lãnh thổ  
(cả làng góp gạo thổi cơm cho Gióng ăn) hay Sơn Tinh – Thủy Tinh là biểu  
tượng đoàn kết, đồng lòng của dân tộc ta đắp đê chống bão, lũ lụt đặc trưng rất  
6
của cư dân trồng lúa nước của nhân dân ta trong buổi đầu lịch sử vừa dựng  
nước giữ nước.  
TK XVI – XVIII, thể loại văn học dân gian phát triển, các tác phẩm đã  
kích chế sự thối nát và lạc hậu của chế độ phong kiến đồng thời nói lên mơ ước  
của người dân có cuộc sống tốt đẹp hơn. Chẳng hạn như truyện “Trê Cóc”, một  
câu chuyện ngụ ngôn chủ ý bày tỏ cái thói "tranh hơi tức khí" gây nên những  
cuộc kiện tụng chỉ trích cái tệ nhũng lạm của bọn sai nha cùng cái bọn thầy  
. Ở truyện Trê Cóc còn có ý nghĩa về luân lý, bởi tác giả đã phô bày lắm nét  
hủ bại nực cười ở hội xưa, chung quanh những vụ kiện tụng trước cửa  
quan, người ta thấy trở đi trở lại những chữ “lo lót, lễ vật, lễ mọn, phí tổn”.  
Chung quy tchỉ người dân là phải chịu thiệt hại, thua cũng thiệt được cũng  
thiệt. Cóc sù sì, tkệch giống như những người dân chất phác hiền lành. Trê  
nhẵn nhụi, trơn tru hay chui luồn, thể tiêu biểu cho những người nết láu  
lĩnh, hay làm việc mờ ám...  
Sử dụng tài liệu văn học dân gian, không chỉ góp phần làm cho bài giảng  
sinh động, tạo được không khí gần gủi với bối cảnh lịch sử, sự kiện đang học mà  
giáo viên tiến hành có thể đạt được kết quả giáo dục tư tưởng đạo đức nói chung  
giáo dục truyền thống dân tộc nói riêng  
Các tác phẩm văn học vào thời diễn ra các sự kiện lịch sử có ý nghĩa  
đối với việc khôi phục hình ảnh quá khứ. Khi nói cuộc sống khốn khổ của tầng  
lớp nông dân Việt Nam đầu thế kỉ XX dưới chế độ thực dân nửa phong kiến thì  
phải kể đến tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố. Tác phẩm xoay quanh nhân vật  
chính là chị Dậu và gia đình, một điển hình của cuộc sống bần cùng hóa do sưu  
cao thuế nặng chế độ thực dân áp đặt lên xã hội Việt Nam. Tác phẩm này đã  
vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của hội thực dân nửa phong kiến đương  
thời. Đỉnh điểm của cơn cùng cực việc chị Dậu phải bán con, khoai và bán cả  
bầy chó để lấy tiền nộp sưu thuế cho chồng cảnh chị Dậu chạy ra giữa màn  
trời đêm tối đen như mực như cái tiền đồ của chị.  
Khi sử dụng tài liệu văn học phải đảm bảo tiêu chuẩn cơ bản là giá trị giáo  
dục – giáo dưỡng và giá trị văn học, các tài liệu đó phải giúp học sinh khôi phục  
lại bối cảnh lịch sử, hình ảnh các sự kiện, nhân vật của quá khứ để phục vụ được  
yêu cầu của nội dung bài học, phù hợp trình độ nhận thức của học sinh, không  
làm loãng nội dung bài học lịch sử.  
b.Cách sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 7  
Đưa một đoạn thơ, một đoạn văn ngắn nhằm minh họa những sự kiện  
đang học làm cho nội dung bài học thêm phong phú, giờ học thêm sinh động  
dụ dạy bài “Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427)” , trong trận Chi  
Lăng Xương Giang (10-1427)  
Ngày 8-10, Liễu Thăng hùng hổ dẫn quân ào ạt tiến vào biên giới nước ta, bị  
nghĩa quân phục kích giết hại ở ải Chi Lăng.  
Sau khi Liễu Thăng bị giết, phó tổng binh là Lương Minh lên thay, chấn  
chỉnh đội ngũ, tiến xuống Xương Giang (Bắc Giang ). Trên đường tiến quân,  
quân giặc liên tiếp bị phục kích ở Cần Trạm, Phố cát bị tiêu diệt đến ba vạn tên,  
Tổng binh Lương Minh bị giết tại trận, Thượng thư bộ Binh Lý Khánh phải thắt  
cổ tự tử.  
7
“ Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,  
Ngày hai mươi, Trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu.  
Ngày hăm lăm, tước Lương Minh bại trận tủ vong,  
Ngày hăm tám, Thượng thư Lý Khánh cung tế tự vẫn.  
…Đánh một trận, sạch không kình ngạc  
Đánh hai trận, tan tác chim muông  
…Đô đốc Thôi tụ gối dâng tấu tạ tội,  
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng…”  
(Bình Ngô đại cáo)  
dụ dạy bài “ Phong trào Tây Sơn cuộc khởi nghĩa của chàng Lía  
Cuộc sống người dân ngày càng cơ cực. Nỗi bất bình oán giận của các tầng  
lớp hội với chính quyền họ Nguyễn ngày càng dâng cao. Cuộc khởi nghĩa của  
chàng Lía đã bùng lên trong hoàn cảnh đó.  
…Lên yên thẳng xuống trùng trùng rinh rang  
Lau la kén đủ trăm ngàn ,  
Thình lình cướp trại đánh ngang quân triều.  
Quân binh đang lúc bao vây,  
Chợt đâu bị đánh, xiết bao hãi hùng…  
( vè Chang Lía)  
Khởi nghĩa của Lía bị dập tắt, nhưng hình ảnh chàng Lía còn mãi trong lòng  
người dân miền Trung:  
Ai vào Bình Định mà nghe,  
Nghe thơ chàng Lía, hát vè Quảng Nam.  
Chiều chiếu én liệng Truông Mây,  
Cảm thương chú Lía bị vây trong thành.  
Quang Trung đại phá quân Thanh (1789) :  
Đến Nghệ An, Quang Trung tiếp tục chuyển thên quân và làm lễ tuyên thệ.  
Trong lời dụ tướng sĩ, Quang Trung đã thể hiện quyết tâm đánh tan quân  
ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập dân tộc :  
Đánh cho đẻ dài tóc,  
Đánh cho để đen răng,  
Đánh cho nó chích luân bất phản  
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng hữu chủ ”  
Ngoài ra tài liệu văn học được sử dụng để tổ chức những buổi hoạt động  
ngoại khóa cho môn lịch sử và cách dễ thực hiện, đạt hiệu quả cao là đọc sách,  
nhằm cung cấp thêm kiến thức và phát triển tư duy cho học sinh. Muốn đưa tài  
liệu văn học vào dạy lịch sử trong hoạt động ngoại khóa có hiệu quả thì giáo  
viên phải giúp học sinh lập danh mục sách cần đọc, nêu một số tác phẩm truyện  
hoặc thơ có liên quan để học sinh tìm dễ dàng. Giáo viên có thể khơi dậy tính  
hiếu kì và lòng ham hiểu biết của học sinh bằng cách tóm tắt sơ lược nội dung  
trong sách, kể một vài chi tiết, những đoạn nhỏ trong sách để kích thích học sinh  
tiếp tục đọc để tìm hiểu  
2.3. Kết quả đạt được:  
8
Tôi đã sử dụng kinh nghiệm này vào các tiết dạy đạt được kết quả khả  
quan, khi sử dụng một số câu thơ, câu văn, câu trích dẫn… minh họa cho một sự  
kiện lịch sử, bài học lịch sử làm giờ học sinh động hơn, hấp dẫn học sinh hơn,  
giờ học đạt hiệu quả cao. Trong dạy học dùng thơ văn cho học sinh có vai trò  
tích cực, chủ động trong việc học tập, qua đó các em chủ động tìm những kiến  
thức đã học để hiểu sâu, toàn diện một sự kiện lịch sử, đồng thời học sinh còn ôn  
tập, củng cố, tổng hợp kiến thức ở mức độ cao hơn.  
2.4. Bài học kinh nghiệm:  
Hướng dẫn học sinh đọc sưu tầm các loại tài liệu tham khảo những  
tác phẩm văn học cho phù hợp, giúp học sinh chọn, xác định những tác phẩm  
nào phục vụ cho yêu cầu của dạy học lịch sử, tránh sử dụng những tác phẩm bịa  
đặt ảnh hưởng xấu đến nhận thức lịch sử của học sinh  
Giáo viên lịch sử phải luôn tìm tòi sáng tạo đổi mới trong phương pháp  
dạy học. kế hoạch cụ thể trong việc tìm kiếm thiết kế các đồ dùng dạy học  
đẹp chính xác phù hợp với nội dung bài dạy.  
Giáo viên cần nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, thường xuyên nghiên cứu  
thêm tài liệu tham khảo để cung cấp thêm thông tin và kiến thức ở mỗi bài học.  
kết hợp các phương tiện dạy học khác nhau như đồ dùng trực quan, hình ảnh,  
tranh vẽ, hệ thống thao tác sư phạm khi lên lớp.. để góp phần phát huy tính tích  
cực chủ động của học sinh trong mỗi tiết học, nâng cao hiệu quả giờ dạy.  
Giáo viên phải biết hướng dẫn tổ chức cho học sinh tự mình khám phá  
kiến thức mới, dạy cho học sinh không chỉ kiến thức cả phương pháp học  
trong đó, cốt lõi là tự học. Chính trong các hoạt động tự lực được giao cho từng  
cá nhân hoặc nhóm nhỏ tiềm năng sáng tạo của mỗi học sinh được bộc lộ và  
phát huy, Giáo viên phải biết luyện tập cho các em có thói quen nhìn nhận sự  
kiện dưới những góc độ khác, biết đặt ra nhiều giả thuyết khi lí giải một hiện  
tượng. Biết đề xuất những giải pháp khác nhau khi xử một tình huống. Phải  
giáo dục cho học sinh không vội bằng lòng với giải pháp đầu tiên được nêu  
ra, không suy nghĩ cứng nhắc theo những qui tắc đã học trước đó, không máy  
móc áp dụng những mô hình hành động đã gặp trong các bài học, trong sách vở  
để ứng xử trước những tình huống mới.  
Người giáo viên lịch sử cần bồi dưỡng năng khiếu vẽ bản đồ, lược đồ  
khoa học chính xác, sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm thu hút sự  
chú của học sinh làm cho học sinh yêu thích môn học.  
9
3.KẾT LUẬN  
3.1. Kết luận:  
Tài liệu văn học được vận dụng trong các tiết dạy sẽ đạt được kết quả cao  
nhất của học sinh về các mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển, giúp học sinh  
hứng thú học tập, lĩnh hội kiến thức nhanh và vận dụng một cách sáng tạo vào  
thực tế. Giáo viên không chỉ đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn để học sinh có cơ  
hội tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức mà còn phải biết vận dụng vốn kiến thức đã  
biết để hiểu kiến thức mới, như vậy mới phát huy tính tích cực chủ động  
của học sinh trong học tập.  
Trên đây là kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi, phần lớn dựa vào tình hình  
học tập của học sinh trường THPT Khương Mai nên khả năng áp dụng thực tiễn  
không rộng rãi và chắc chắn nhiều hạn chế, kính mong quí thầy đóng góp  
ý kiến thêm. Tôi chân thành cảm ơn!  
3.2. Kiến nghị:  
Hiện nay trong nhà trường đã được cấp nhiều thiết bị dạy học tuy vậy đối  
với môn lịch sử thì đồ dùng còn quá ít, vì vậy muốn đạt kết quả cao trong bộ  
môn này cần có thêm những yêu cầu sau:  
- Cần đủ tranh ảnh về các di tích lịch sử và di sản văn hóa, các chân  
dung nhân vật lịch sử  
- Cần tổ chức các cuộc thi sáng tạo sử dụng đồ dùng dạy học  
- Nên những buổi học ngoại khóa, tham quan các di tích, bảo tàng  
lịch sử  
- Cung cấp nhiều tư liệu để giảng dạy tốt phần lịch sử địa phương.  
10  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
- Sách giáo khoa, sách giáo viên, bài tập lịch s7– Nhà xuất bản Giáo dục.  
- Tài liệu hội thảo tập huấn : Đổi mới nội dung và phương pháp dạy lịch sử  
- Hoạt động dạy học ở trường THPT – Nhà xuất bản Giáo dục.  
- Phương pháp dạy học lịch sử của - Nhà xuất bản Giáo dục.  
- Lý luận dạy học lịch sử (Giáo trình của trường Đại học Cần Thơ)  
- Giáo dục học (lý luận dạy học tập II) Nhà xuất bản Giáo dục Nội  
- Đại cương lịch sử Việt Nam (tập II) Nhà xuất bản giáo dục.  
- Tinh Tuyển Văn học Việt Nam Nhà xuất bản khoa học hội  
11  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 12 trang minhvan 14/05/2025 110
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Sử dụng tài liệu văn học giúp học sinh hứng thú học tập lịch sử Việt Nam 7", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_su_dung_tai_lieu_van_hoc_giup_hoc_sinh_hung_thu_hoc_tap.doc