SKKN Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học ngữ văn bậc trung học cơ sở

Ngữ văn là một bộ môn thuộc lĩnh vực khoa học xã hội. Đây là môn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Ngữ văn cung cấp cho chúng ta những tri thức nhất định về cuộc sống đa chiều, đa diện đang diễn ra, đồng thời, bồi đắp tư tưởng, tình cảm và góp phần hình thành, hoàn thiện nhân cách đạo đức cho mỗi cá nhân.
PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO HẠ HÒA  
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ LANG SƠN  
SÁNG KIẾN  
SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN  
BẬC TRUNG HỌC CƠ SỞ  
Họ và tên: Nguyễn Thị Vân Anh  
Chức vụ: Giáo viên  
Hạ Hòa, năm 2019  
MỤC LỤC  
NỘI DUNG  
MỤC  
TRANG  
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN  
I
Cơ sở luận  
1
2
2
II  
Phương pháp tiếp cận tạo ra sáng kiến  
Mục tiêu  
III  
CHƯƠNG II: MÔ TẢ SÁNG KIẾN  
Nêu vấn đề của sáng kiến kinh nghiệm  
Phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề  
Chỉ ra các tồn tại, hạn chế  
I
1
2
3
4
4
4
4
5
6
Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế  
Phân tích, đánh giá và chỉ ra tính cấp thiết cần tạo ra sáng  
kiến  
II  
1
Giải pháp để thực hiện sáng kiến kinh nghiệm  
Tìm hiểu về sơ đồ duy  
6
6
9
2
Cách sử dụng SĐTD trong quá trình tổ chức các hoạt  
động dạy học  
III  
IV  
Kết quả khả năng áp dụng, nhân rộng  
Giải pháp tổ chức thực hiện  
18  
20  
CHƯƠNG III: KẾT LUẬN ĐỀ XUẤT/KIẾN  
NGHỊ  
I
Kết luận  
21  
II  
Ý kiến đề xuất kiến nghị  
21  
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT  
Stt  
1
Danh mục chữ viết tắt  
Ý nghĩa  
Sơ đồ tư duy  
SĐTD  
PPDH  
THCS  
2
Phương pháp dạy học  
Trung học cơ sở  
3
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN  
I. Cơ sở luận  
Ngữ văn một bộ môn thuộc lĩnh vực khoa học hội. Đây là môn học có  
vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người.  
Ngữ văn cung cấp cho chúng ta những tri thức nhất định về cuộc sống đa chiều,  
đa diện đang diễn ra, đồng thời, bồi đắp tư tưởng, tình cảm và góp phần hình  
thành, hoàn thiện nhân cách đạo đức cho mỗi cá nhân. Ngữ văn trong nhà trường  
được chia thành ba phân môn đó là: Văn bản, Tiếng Việt, Tập làm văn. Từng  
khía cạnh, nội dung của ba phân môn này đều có ý nghĩa thiết thực, gắn liền với  
thực tế đời sống. Ngoài ra, Ngữ Văn còn là môn học mối quan hệ với rất  
nhiều các môn học khác trong các nhà trường. Học tốt môn Ngữ Văn sẽ tác  
động tích cực tới các môn học khác và ngược lại.  
Tuy nhiên, trên thực tế, dạy học Ngữ văn còn gặp không ít khó khăn. Một  
bộ phận học sinh chưa niềm yêu thích, say mê và hứng thú đối với môn học  
này. Các em chưa cảm nhận được hết những giá trị nhân văn cũng như sự hữu  
ích mà môn học mang lại. Mặt khác Ngữ văn cũng bộ môn đòi hòi năng khiếu  
sự cảm nhận tinh tế của cá nhân mỗi học sinh. Cùng với những lí do trên thì  
trong quá trình dạy học Ngữ văn còn tồn tại nhiều bất cập. Xu hướng đọc – chép  
vẫn phổ biến nhiều ở các nhà trường, chưa sự đổi mới trong phương pháp  
giảng dạy. Do đó, chất lượng hiệu quả của bộ môn Ngữ văn đạt được chưa  
cao, đặc biệt đối với các trường Trung học cơ sở.  
Ngày 05/5/2006, Btrưởng Bộ Giáo dục đào tạo đã ban hành Quyết  
định s16/2006/BGDĐT nêu rõ nhng định hướng đổi mi phương pháp  
giáo dc, to điu kin thun li để giáo viên thc hin vic đổi mi PPDH.  
Từ đó, việc thực hiện đổi mới được diễn ra liên tục và toàn diện trên tất cả các  
môn học. Đặc biệt, năm học 2011 - 2012 năm học BGiáo dục đào tạo tiếp  
tục đổi mới phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn trong  
trường phổ thông. Trước tình hình đó, đòi hỏi mỗi giáo viên giảng dạy Ngữ văn  
cần phải sự thay đổi tư duy, cách nghĩ và cách làm của mình. Giáo viên cần  
lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo  
của người học thông qua các PPDH mới mẻ, linh hoạt hiệu quả.  
Nói tới PPDH là nói đến cách dạy của người thầy. Cùng một nội dung, một  
đơn vị kiến thức nhưng mỗi người giáo viên sẽ những cách truyền thụ riêng,  
không giống nhau. Thực tế cho thấy, nếu giáo viên có sự thay đổi, tích cực áp  
dụng các phương pháp mới vào giảng dạy thì sẽ đem lại kết quả cao hơn so với  
việc dạy học thụ động, theo lối mòn trước đây. Đối với môn Ngữ văn, đây là  
môn học đặc thù riêng. Bởi, ngoài tính công cụ, nó còn có tính nghệ thuật,  
tính nhân văn rất cao. Do đó, để học sinh học tốt môn Ngữ Văn ở trường phổ  
thông nói chung, người giáo viên phải chú trọng đến phương pháp dạy học, phải  
tìm tòi, sáng tạo, nghiên cứu và áp dụng những hình thức, biện pháp tổ chức dạy  
học mới, hiện đại, sinh động, đưa học sinh đến với môn học này một cách tự  
giác, bằng niềm say mê thật sự.  
Trong những năm gần đây, một trong những phương pháp dạy học mới và  
hiện đại nhất được đưa vào là phương pháp dạy học bằng sơ đồ tư duy (SĐTD).  
Sơ đồ tư duy kế thừa, mở rộng hình thức ghi chép, sử dụng bảng biểu, sơ đồ  
nhưng ở mức độ cao hơn. Nó là một công cụ tổ chức tư duy được tác giả Tony  
Buzan (người Anh) nghiên cứu kỹ lưỡng phổ biến rộng khắp trên thế giới. Có  
thể khẳng định rằng PPDH bằng SĐTD một trong những PPDH hiện đại. Nó  
giúp học sinh dễ ghi nhớ, phát triển nhận thức, khả năng tư duy, óc tưởng tượng  
khả năng sáng tạo...Đây một công cụ hữu hiệu trong quá trình dạy học hiện  
nay.  
II. Phương pháp tiếp cận tạo ra sáng kiến  
- Tìm hiểu bằng cách đọc, nghiên cứu tài liệu về các phương pháp dạy học  
tích cực đang được áp dụng trong quá trình dạy học của các nước trên thế giới  
ở Việt Nam. Tham khảo các tài liệu khoa học về phương pháp sử dụng SĐTD  
trong dạy học, từ đó, định hướng cách thức vận dụng SĐTD vào giảng dạy môn  
Ngữ văn ở bậc Trung học co sở.  
- Tham khảo, lấy ý kiến từ đồng nghiệp thông qua các hoạt động đàm thoại,  
trao đổi, tổng kết kinh nghiệm ở các buổi thảo luận chuyên đề, dự giờ thăm lớp,  
nghiên cứu bài học.  
- Sử dụng phương pháp điều tra khảo sát, thăm dò ý kiến để tìm hiểu tình  
hình thực tế giảng dạy môn Ngữ văn hiện nay, nắm bắt được thái độ của học  
sinh đối với môn học. Sau đó, dựa trên kết quả thu thập, giáo viên so sánh, phân  
tích nhằm đánh giá kết quả nhận thức của người học sau khi đã áp dụng SĐTD  
vào giảng dạy một tiết học cụ thể.  
- Tiến hành dạy thực nghiệm, sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong quá trình dạy  
học để quan sát được thái độ, tâm lý, khả năng tiếp cận với phương pháp mới  
của học sinh. Từ đó, những điều chỉnh thích hợp, nhằm hoàn thiện hơn nữa  
phương pháp sử dụng SĐTD vào dạy học môn Ngữ văn.  
III. Mục tiêu  
- Mục tiêu của sáng kiến kinh nghiệm này giúp mỗi giáo viên có thêm cái  
nhìn thấu đáo hơn về việc đổi mới phương pháp dạy học trong giảng dạy môn  
Ngữ văn. Sáng kiến đề xuất, làm rõ hơn về phương pháp sử dụng SĐTD, định  
hướng cho người dạy cách thức thiết kế, các bước tổ chức và các hoạt động có  
thể tiến hành SĐTD để đạt được hiệu quả cao nhất.  
- Sáng kiến kinh nghiệm này xuất phát từ những trăn trở của tôi trong quá  
trình dạy môn Ngữ văn ở bậc Trung học cơ sở. Đồng thời, nhằm tổng kết  
phương pháp, cách thức kĩ năng, kinh nghiệm mà tôi thu được từ thực tiễn giảng  
dạy của bản thân. Thông qua sáng kiến này, tôi mong muốn góp một phần nhỏ  
vào đổi mới PPDH đối với môn Ngữ văn nói riêng và quá trình đổi mới căn bản  
và toàn diện giáo dục nói chung.  
- Với sáng kiến kinh nghiệm tôi tập trung vào vấn đề: “Sử dụng sơ đồ tư  
duy trong dạy học Ngữ văn bậc Trung học cơ sở”, như một giải pháp hữu hiệu  
để các đồng nghiệp cùng tham khảo. Từ đó, giúp nhau tháo gỡ phần nào thực  
trạng dạy học văn hiện nay, không ngừng nâng cao chất lượng dạy học, mang  
đến một tâm thế mới, sự say mê, hứng khởi của học sinh mỗi khi bước vào một  
tiết học môn Ngữ văn.  
CHƯƠNG II: MÔ TẢ SÁNG KIẾN  
I. Nêu vấn đề của sáng kiến kinh nghiệm  
1. Phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề  
Trong những năm gần đây, việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục,  
trong đó đổi mới phương pháp giảng dạy luôn được cả hội quan tâm. Làm  
sao để nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục? Làm thế nào để truyền lửa tri  
thức một cách sinh động, hấp dẫn nhất? bằng cách nào để khơi dậy hứng thú  
cũng như niềm say mê học tập cho học sinh? Đây những câu hỏi thường trực  
khiến cho người giáo viên vô cùng trăn trở. Để giải quyết vấn đề trên rất nhiều  
phương pháp và kĩ thuật dạy học đã được đưa ra và ứng dụng tại nhà trường  
phổ thông với mong muốn nâng cao chất lượng hiệu quả cho các môn học,  
trong đó bộ môn Ngữ văn. Đây điểm mới mẻ thuận lợi rất lớn, góp phần  
không nhỏ để đưa các phương pháp học tập sáng tạo, tiến bộ tiếp cận gần hơn  
đến thầy cô và các em học sinh.  
Trong các phương pháp dạy học Ngữ văn thì sử dụng sơ đồ tư duy không  
hẳn một phương pháp quá mới mẻ và khó khăn khi thực hiện. Chúng ta có thể  
bắt gặp dạng đơn giản nhất của sơ đồ tư duy thông qua hình thức sơ đồ hóa kiến  
thức Tiếng Việt ở các bài học trong Sách giáo khoa Ngữ văn thuộc bậc Trung  
học cơ sở. Phương pháp này giúp cho học sinh có thể hệ thống kiến thức một  
cách ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thuộc, đồng thời, phát huy được khả năng tưởng  
tượng phong phú những năng lực riêng của từng cá nhân. Đặc biệt, giảng dạy  
bằng sơ đồ tư duy phát huy tính tích cc nhiu nht trong các giôn tp. Khi hc  
sinh trthành chththành nhân vt trung tâm trong mi tiết hc, các em strở  
nên hào hng và hăng say hơn trong hc tp.  
Thc tế hin nay, hu hết các trường Trung hc cơ sở đều có mt đội ngũ  
giáo viên ging dy Ngvăn có kinh nghim, tâm huyết vi nghvà luôn sn  
sàng hc hi, trau di các phương pháp dy hc mi nhm nâng cao cht lượng  
bmôn. Điu kin cơ svt cht, trang thiết bị đồ dùng dy hc tương đối đầy đủ  
phc vkhá tt cho quá trình vn dng các phương pháp hc tp vào tng tiết  
hc, đặc bit là phương pháp sdng bn đồ tư duy.  
Tuy nhiên, bên cnh nhng thun li trên, còn tn ti nhng khó khăn nht  
định khiến cho vic sdng sơ đồ tư duy trong dy hc Ngvăn chưa đạt được  
hiu qucao nht. Nhng khó khăn này xut phát ctphía người dy, người hc  
và mt syếu tkhác bên ngoài.  
2. Chỉ ra các tồn tại, hạn chế  
a. Về phía học sinh  
Đa shc sinh còn thờ ơ đối vi bmôn Ngvăn. Các em chưa tìm thy  
được nim say mê, hng thú vi môn hc. Do đây là môn hc yêu cu đối tượng  
hc cn có nhng cm nhn, rung động mc độ nht định đối vi nhng ni  
dung được truyn ti. Vic hc sinh có tâm lý thụ động, ngi tư duy tưởng tượng  
nh hưởng không nhỏ đến khnăng tiếp thu tri thc ca các em. Cho nên, sử  
dng sơ đồ tư duy vào ging dy môn Ngvăn trong nhà trường là rt cn thiết,  
để to nên hng thú góp phn khơi dy tình cm ca hc sinh đối vi môn hc  
này.  
b. Về phía giáo viên  
Mc dù đội ngũ giáo viên Trung hc cơ shu hết có kinh nghim và năng  
lc, nhưng khnăng vn dng các phương pháp và kĩ thut dy hc tích cc vào  
tiết hc còn hn chế, chưa mang li hiu qucao. Mt sbphn giáo viên còn  
thụ động, ngi đổi mi, hoc còn loay hoay chưa tìm ra cách thc hp lý để khiến  
gihc ca mình trnên sinh động, thu hút được hc sinh. Hin nay, giáo viên ở  
bc Trung hc cơ sở đã bước đầu tiếp cn và sdng sơ đồ tư duy vào dy hc  
Ngvăn, nht là đối vi các tiết hc cn ôn tp và hthng hóa kiến thc như ở  
phân môn Tiếng Vit. Tuy nhiên, vic sdng này còn thiếu linh hot, chưa đồng  
đều, phbiến, chưa phát huy được hết khnăng tư duy, sáng to ca hc sinh.  
Ngoài ra, hu hết giáo viên mi chdng li vic sdng sơ đồ tư duy để hệ  
thng hóa kiến thc sau mi bài hc, hay mi bài ôn tp, tng kết mt phân  
môn, mt mng kiến thc nào đó mà thôi. Hchưa mnh dn đưa sơ đồ tư  
duy vào tt ccác khâu trong quá trình dy hc làm hn chế đi tính cht phổ  
biến và đa năng ca phương pháp này. Vì vy, chưa phát huy mt cách đầy  
đủ công dng ca sơ đồ tư duy trong quá trình dạy học môn Ngữ văn.  
3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế  
- Học sinh chưa yêu thích môn Ngữ văn nói chung, còn thụ động trong tiếp  
nhận, khả năng cảm thụ còn hạn chế.  
- Do đặc thù của bộ môn Ngữ văn là môn học những yêu cầu nhất định  
về năng lực thẩm mĩ. Yếu tố về năng khiếu chi phối một phần không nhỏ đến  
quá trình học tập kết quả đạt được của học sinh.  
- Phần lớn phụ huynh học sinh chưa sự quan tâm chưa thoả đáng đối với  
môn Ngữ văn nên định hướng cho học sinh theo học các môn khoa học tự nhiên.  
Do vậy phần nào ảnh hưởng đến tâm lí học của học sinh.  
- Nhà trường tổ chuyên môn: mặc dù có tổ chức thực hiện đổi mới  
phương pháp giảng dạy, tuy nhiên hình thức chưa đa dạng, hiệu quả còn hạn  
chế, gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận và áp dụng phương pháp mới.  
- Giáo viên: còn quen với các phương pháp cũ, chưa thực sự chủ động  
trong việc đổi mới phương pháp. Khi sử dụng phương pháp mới vào giờ học còn  
lúng túng, chưa thực hiện đúng các bước tiến hành nên hiệu quả đạt được chưa  
cao.  
- Cơ svt cht, trang thiết b, đồ dùng dy hc phc vcho bmôn còn  
thiếu xót. Thi gian mi tiết hc chcó 45 phút trong đó giáo viên va truyn ti  
kiến thc va phi hướng dn hc sinh trong các hot động hc.  
- Hơn thế na, sĩ smi lp hc tương đối đông nên rt khó cho giáo viên  
trong vic theo sát, kèm cp tng hc sinh trong mt tiết hc.  
4. Phân tích, đánh giá và chỉ ra tính cấp thiết cần tạo ra sáng kiến  
Từ thực trạng của việc đổi mới phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn ở bậc  
Trung học cơ sở nói chung, và tại trường THCS Lang Sơn nói riêng, tôi thấy  
rằng để nâng cao chất lượng bộ môn, đạt được năng lực cho học sinh (năng lực  
tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực giao tiếp, năng  
lực sử dụng ngôn ngữ) và hình thành các em niềm say mê, yêu thích môn học  
một vấn đquan trọng cần thiết.  
Ngữ văn là môn học mang tính nhân văn rất cao và có ý nghĩa quan trọng  
đối với việc bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, hoàn thiện nhân cách cho học sinh.  
vậy, cần phải sự thay đổi trong phương pháp để các em hiểu thấy được  
những giá trị của môn học, nhằm đưa Ngữ văn trở về với đúng vị trị của nó  
trong nhà trường, tránh tư tưởng ngại học, ngại tư duy tưởng tượng của học sinh.  
Đồng thời, giúp cho các bậc phụ huynh có những định hướng đúng đắn hơn, từ  
đó, động viên khích lệ con em mình trong việc học tập môn học này.  
Ngoài ra, trong xu thế đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục hiện nay, để  
bắt kịp với những bước tiến của giáo dục trên thế giới, thì việc áp dụng các  
phương pháp mới trong giảng dạy là hoàn toàn cần thiết. sẽ góp phần đưa  
việc dạy học Ngữ văn thoát khỏi lối mòn đang tồn tại, khơi dậy được hứng  
thú của người học. Chính vì vậy, tôi thấy cần phải có sáng kiến kinh nghiệm “Sử  
dụng sơ đồ duy trong dạy học Ngữ văn bậc Trung học cơ sở” để giải quyết được  
thực trạng trên, khắc phục những hạn chế vốn có và phát huy một cách mạnh mẽ  
vai trò của môn Ngữ văn trong nhà trường.  
II. Giải pháp để thực hiện sáng kiến  
Để sử dụng sơ đồ tư duy một cách hiệu quả, khắc phục được những khó  
khăn đang tồn tại, trước hết, chúng ta phải những tri thức nhất định về nó.  
Vậy sơ đồ tư duy hiểu một cách đầy đủ là gì? Nó được cấu tạo, xây dựng, thiết  
kế như thế nào? Quy trình tổ chức và các tiện ích mà sơ đồ tư duy mang lại ra  
sao? Bằng cách trả lời những câu hỏi này, chúng ta sẽ có cái nhìn toàn diện và  
khai thác được tối đa những công dụng đa năng sơ đồ này mang lại.  
1. Tìm hiểu về sơ đồ tư duy  
1.1. Khái niệm  
Sơ đồ tư duy hay còn gọi Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map) là  
PPDH chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi,  
đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến  
thức,...bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc,  
chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt, đây một dạng sơ đồ mở, không yêu  
cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, các em có thể vẽ thêm hoặc bớt các  
nhánh, dùng những màu sắc, hình ảnh, chữ viết và các cụm từ diễn đạt khác  
nhau,...  
1.2. Cấu tạo  
- Ở giữa sơ đồ một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ  
đề.  
- Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm  
chủ đề.  
- Phát triển các nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ.  
- Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung  
tâm thì ý càng cụ thể, chi tiết.  
Ảnh minh họa cấu tạo Sơ đồ tư duy  
1.3. Các bước thiết kế một SĐTD  
Để thiết kế một SĐTD vẽ thủ công trên bảng, trên giấy..., hay trên  
phần mềm Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây:  
Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ  
hình ảnh minh họa cho chủ đề - nếu hình dung được)  
Bước 2: Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ  
chủ đề, thì ta đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý chính,  
đặt tiêu đề các nhánh chính, nối chúng với trung tâm.  
Bước 3: Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để làm  
mỗi ý chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển khai  
thành mạng lưới liên kết chặt chẽ.  
Bước 4: Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các  
ý, tạo tác động trực quan, dễ nhớ.  
*Lưu ý:  
- Nên chọn hướng giấy ngang để khổ giấy rộng, thuận lợi cho việc vẽ các  
nhánh con.  
- Nên dùng các nét vẽ cong, mềm mại thay vì vẽ các đường thẳng để thu  
hút sự chú ý của mắt, như vậy SĐTD sẽ lôi cuốn, hấp dẫn hơn.  
- Các nhánh càng ở gần trung tâm thì càng được đậm hơn, dày hơn.  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 28 trang minhvan 31/05/2024 1210
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học ngữ văn bậc trung học cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_su_dung_so_do_tu_duy_trong_day_hoc_ngu_van_bac_trung_ho.doc