SKKN Sử dụng bản đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở bậc học Trung học cơ sở

Bản đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng hình ảnh, màu sắc để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Đó là một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể được miêu tả như một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não người, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. Bản đồ tư duy giúp cho học sinh có được phương pháp học tập hiệu quả hơn
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ  
Ngữ văn là môn học thuộc nhóm ngành khoa học hội, có vai trò đặc biệt  
quan trọng trong quá trình giáo dục, cũng như đối với đời sống sự phát triển tư  
duy của con người. Mặc vậy, một thực tế rất nhiều học sinh thế hệ hiện nay  
không còn yêu thích, có hứng thú học tập môn ngữ văn; cũng như chưa ý thức được  
vai trò, ý nghĩa to lớn của môn học này. Thực trạng đáng suy ngẫm trên bắt nguồn  
từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân cơ bản xuất phát từ chính quá trình  
dạy học môn ngữ văn trong các nhà trường phổ thông hiện nay: hoạt động dạy  
học ngữ văn, nhất đối với các bài học nội dung trọng tâm là truyền đạt kiến  
thức cho học sinh, dường như mới chỉ dừng ở những “kênh chữ”, một số bài có  
cung cấp thêm hình ảnh. Nhiều giáo viên mới chỉ tập trung bám sát nội dung kiến  
thức trong sách giáo khoa mà chưa thực sự chú ý sử dụng những hình thức khác để  
bổ trợ, làm cho tiết học thêm sinh động. Những tiết học Ngữ văn do vậy trở nên  
kém sinh động, hấp dẫn, thậm chí có phần nặng nề, không tạo được hứng thú, khơi  
dậy niềm say mê tìm hiểu, khám phá các em. Chính vì lẽ đó, việc đổi mới  
phương pháp, cách thức tổ chức dạy học môn ngữ văn trong các nhà trường hiện  
nay để nhằm vừa đảm bảo trang bị kiến thức, vừa tạo được sự hấp dẫn, lôi cuốn các  
em tích cực tham gia học tập, yêu thích môn Ngữ văn một yêu cầu bức thiết.  
Bn đồ tư duy là mt hình thc ghi chép sdng hình nh, màu sc để mở  
rng và đào sâu các ý tưởng. Đó là mt công ctchc tư duy nn tng, có thể  
được miêu tnhư mt kĩ thut hình ha vi skết hp gia tng, hình nh,  
đường nét, màu sc phù hp vi cu trúc, hot động và chc năng ca bnão  
người, giúp con người khai thác tim năng vô tn ca bnão. Bản đồ tư duy giúp  
cho hc sinh có được phương pháp hc tp hiu quhơn: vic sdng bn đồ tư  
duy để tiếp cn, mrng và hthng tri thc giúp các em khc phc tình trng  
hc bài nào biết bài y, “hc trước quên sau”; đồng thi biết liên kết các đơn vị  
kiến thc vi nhau, cũng như vn dng nhng tri thc đã hc ttrước vào nhng  
phn hc sau. Ngoài ra, sdng mô hình bn đồ tư duy giúp hc sinh mt mt  
va đọc sách, nghe ging trên lp, đồng thi biết cách tghi chép, ghi nhcác  
thông tin, kiến thc trng tâm. Nói cách khác, sdng thành tho bản đồ tư duy  
trong hc tp giúp hc sinh có được phương pháp hc chủ động, động lp, sáng  
to và không ngng phát trin tư duy.  
Trong những năm gần đây, cùng với việc đổi mới chương trình Sách giáo  
khoa và phương pháp giảng dạy trong các nhà trường phổ thông, Bộ GD&ĐT tiếp  
tục đẩy mạnh đổi mới phương pháp giảng dạy ngữ văn nhằm nâng cao chất lượng  
1/24  
dạy học bộ môn quan trọng này. Một trong những phương pháp giảng dạy mới,  
hiện đại rất được chú trọng dạy học bằng bản đồ tư duy - mt phương pháp hin  
cũng đang được rt nhiu nước trên thế gii áp dng. Thực tế cho thấy, việc vận  
dụng phương pháp này vào quá trình dạy học môn ngữ văn đã cho thấy hiệu quả  
nhất định; bước đầu đã khắc phục được tâm lý ngại học ngữ văn ở học sinh, đồng  
thời đem đến cho các em cái nhìn mới, tư duy mới, cũng như khơi gợi ở các em  
tình yêu đối với môn học này.  
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Sử dụng bản đồ tư duy  
trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở bậc học Trung học cơ sở”  
cho nghiên cứu của mình.  
2/24  
PHẦN 2: NỘI DUNG  
2.1. Vận dụng bản đồ tư duy trong quá trình dạy học  
Quá trình dạy học trong nhà trường bao gồm hoạt động giảng dạy của giáo  
viên và học tập của học sinh. Bản chất của hoạt động dạy - học là quá trình truyền  
thụ tri thức, kỹ năng của giáo viên và lĩnh hội, làm chủ các kiến thức, kỹ năng của  
người học thông qua bài dạy; những tri thức, kỹ năng đó được người học tiếp cận,  
ghi nhớ, vận dụng trong mỗi bài học, cũng như trong thực tế đời sống hàng ngày.  
Chính vì lẽ đó, ghi nhớ một yêu cầu, thao tác hết sức quan trọng trong quá trình  
học tập của học sinh. Việc tìm ra một phương pháp giúp ghi nhớ, khắc sâu tri thức  
một cách hiệu quả, từ đó tạo cơ sở cho mở rộng, sáng tạo tri thức có vai trò, ý nghĩa  
đặc biệt quan trọng đối với cả hoạt động dạy của giáo viên cũng như hoạt động học  
tập của học sinh.  
Tuy nhiên, có một thực tế hiện nay, khối lượng kiến thức trong các môn học ở  
hầu hết các cấp học đang trở nên “quá tải”, tạo ra áp lực không nhỏ đối với cả hoạt  
động dạy học của giáo viên lẫn việc học tập của học sinh: thời gian có hạn kiến  
thức phải học ngày càng nhiều; “sức học” của học sinh có hạn nhiều môn học  
đang trở nên “quá tải”;… Điều này dẫn đến thực trạng nhiều học sinh cảm thấy  
ngại học, lười học; giáo viên không có điều kiện khắc sâu, mở rộng bài giảng vì  
phải tập trung “đối phó” với khối lượng bài dạy.  
Để giải quyết vấn đề trên, việc vận dụng phương pháp bản đồ tư duy trong quá  
trình dạy học đang cho thấy những hiệu quả tích cực. Phương pháp dạy học  
bằng bản đồ tư duy không chỉ giúp giáo viên và học sinh “đơn giản hóa” nội dung  
kiến thức của môn học, từ đó giải quyết vấn đề “quá tải” về mặt kiến thức; mà còn  
đem lại cho các em một cái nhìn tổng quát, đa chiều về nội dung bài học, từ đó có  
khả năng ghi nhớ, cũng như xâu chuỗi các kiến thức một cách hiệu quả hơn, đồng  
thời giúp cho việc học tập của các em không trở thành nhàm chán.  
Bn đồ tư duy là mt hình thc ghi chép thông qua vic sdng màu sc,  
hình nh để mrng và đào sâu các ý tưởng. Nó có vai trò như mt công ctổ  
chc tư duy nn tng. Vic vn dng bn đồ tư duy trong quá trình dạy học giúp  
học sinh có được phương pháp hc tp hiu quhơn, đồng thi tăng cường tính  
tích cc hc tp các em. Các kết qunghiên cu khoa hc đã chng minh, bộ  
não ca con người có khnăng khc sâu, duy trì lâu hơn đối vi nhng thông tin  
được chính bn thân mi người “khám phá” thông qua vic tviết, v- “mã hóa”  
theo ngôn ngriêng ca mi cá nhân. Do đó, vic sdng bản đồ tư duy không  
3/24  
chgiúp cho mi hc sinh gia tăng tích cc trong hc tp, mà còn giúp huy động  
ti đa tim năng tư duy, suy lun các em. Thc tế cho thy, nhiu hc sinh mc  
dù khá chăm chhc tp, song kết quả đạt được vn không cao: các em  
thường hc bài nào biết bài đó, hc trước quên sau, nht là không biết liên hcác  
kiến thc vi nhau, hay vn dng nhng kiến thc đã hc bài trước vào nhng  
phn được hc vsau. Mt khác, rt nhiu em trong quá trình đọc sách hoc nghe  
ging trên lp gp phi khó khăn trong vic ghi chép, ghi nhkiến thc đã đọc  
hoc đã được thy cô ging dy. Vi vic sdng thành tho bn đồ tư duy trong  
hc tp, hc sinh có được mt công chiu qutrong vic ghi nh, lưu gikiến  
thc mt cách tích cc, chủ động sáng to thông qua những hình khối, đường nét,  
màu sắc sinh động, cũng chứa đựng khả năng dẫn dắt, gợi mở to lớn.  
2.2. Thực trạng vận dụng phương pháp bản đồ tư duy trong dạy học  
Ngữ văn hiện nay  
Ngữ văn một môn học vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, tuy nhiên, có  
một thực tế là, ngày càng có nhiều học sinh không còn yêu thích môn học này,  
thậm chí thờ ơ, lười học, dẫn đến ngại học môn văn. Nhiều học sinh có tố chất,  
năng khiếu môn Ngữ văn cũng không có mong muốn được tham gia đội tuyển học  
sinh giỏi văn ở trường; nhiều bậc phụ huynh cũng không khuyến khích, động viên  
con em mình “tập trung”, “đầu tư lâu dài” cho môn ngữ văn trong định hướng học  
tập cũng như phát triển về lâu dài. Do đó, với không ít học sinh, việc học tập môn  
ngữ văn trở nhiều khi chỉ mang tính đối phó; các tiết học môn văn dường như đem  
đến những “áp lực”, nhàm . Thực tế trên đã dẫn đến nhiều “hậu quả” rất đáng suy  
ngẫm: không khó để nhận ra những lỗi sai cơ bản rất nhiều mắc phải trong quá  
trình tạo lập văn bản đơn giản như dùng từ, đặt câu, lỗi chính tả, lôgic, bố cục;…  
nhiều em bị hổng kiến thức văn học, cũng như hạn chế về năng lực tư duy ở mức  
đáng báo động, mà “minh chứng” là những bài văn “cười ra nước mắt” đã không  
còn là hiếm gặp hiện nay.  
Thực trạng đáng suy ngẫm trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có  
những nguyên nhân xuất phát từ những hạn chế, bất cập của người dạy, cả  
những nguyên nhân thuộc về chính bản thân người học. Về phía người dạy, thể  
thấy đa sgiáo viên đều có tình yêu nghề, có ý thức về chuyên môn; tuy nhiên, vẫn  
còn tồn tại nhiều mặt hạn chế: phương pháp giảng dạy chậm đổi mới, chưa thực sự  
“phù hợp” với tất cả các đối tượng học sinh, nhất với một bộ phận học sinh có  
lực học kém, dẫn đến chất lượng, hiệu quả học tập chưa cao; phương tiện, cơ sở vật  
chất phục vụ cho việc đổi mới phương pháp, áp dụng phương pháp giảng dạy tích  
4/24  
cực còn nhiều thiếu thốn; một số giáo viên chưa thực sự “tâm huyết”, say nghề, có  
ý thức tìm tòi đào sâu kiến thức, làm phong phú và sinh động bài dạy; ngoài ra còn  
phải kể đến những bất cập trong cơ cấu, phân phối chương trình sách giáo khoa,…  
cũng những nguyên nhân dẫn đến việc tiếp thu bài giảng của học sinh còn nhiều  
hạn chế.  
Về phía học sinh, nhiều em còn ngại học, lười suy nghĩ, không tập trung  
nghe giảng, dẫn đến tâm thế thiếu tích cực, chủ động trong việc học tập môn ngữ  
văn. Một số em có phụ huynh đi làm xa, hoặc do bận công việc nên ít có điều kiện  
dành thời gian quan tâm, kèm cặp con em mình học tập; chưa kể nhiều em ngoài  
giờ học trên lớp, còn phải phụ giúp gia đình trong việc mưu sinh nên không có  
nhiều thời gian giành cho việc tự học. Bên cạnh đó, thể thấy trong bối cảnh  
những điều kiện đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần ngày càng không  
ngừng được nâng cao như hiện nay, rất nhiều học sinh đã bị lôi cuốn, sa đà và các  
loại hình giải trí khác nhau, dẫn tới sao nhãng việc học, nhất học thêm và tự học  
nhà.  
Để khắc phục thực trạng bất cập nêu trên, thiết nghĩ cần một hệ giải pháp  
toàn diện, hiệu quả trong việc tạo chuyển biến theo hướng nâng cao chất lượng  
giảng dạy đối với đội ngũ giáo viên, cũng như thái độ tích cực của học sinh trong  
việc học tập môn ngữ văn. Trong đó, việc đổi mới phương pháp giảng dạy, cũng  
như vận dụng các phương pháp giảng dạy tích cực, hiện đại để nhằm không chỉ  
trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng cho học sinh, mà còn tạo ra sức lôi cuốn, khơi  
gợi ở các em niềm yêu thích với môn học đặc biệt quan trọng này là một trong  
những trọng tâm cần được ưu tiên. Chính vì lẽ đó, việc vận dụng phương pháp bản  
đồ tư duy trong dạy học môn ngữ văn với những hiệu quả bước đầu phương  
pháp này đem lại đã đang nhận được rất nhiều sự quan tâm. Tuy nhiên, thực tế  
hiện nay, việc tìm hiểu, vận dụng bản đồ tư duy của nhiều giáo viên dường như  
mới chỉ đang dừng ở mức độ “tự phát”, tùy thuộc vào quan điểm tiếp cận cũng như  
“năng lực” cá nhân của mỗi người. Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu sâu về  
phương pháp này, từ đó đi đến xây dựng “mô thức ứng dụng” có tính chất phương  
pháp luận nhằm hướng tới vận dụng phương pháp một cách bài bản, phổ biến tối  
ưu thiết nghĩ hết sức cần thiết.  
2.3. Một số biện pháp vận dụng bản đồ tư duy để nâng cao chất lượng  
dạy học môn Ngữ văn  
2.3.1. Hướng dẫn học sinh phương pháp thiết kế, xây dựng bản đồ tư duy  
5/24  
Bn đồ tư duy là hình thc ghi chép sdng màu sc, hình nh để mrng  
đào sâu các ý tưởng. Sử dụng bản đồ tư duy là sử dụng những hình khối, đường  
nét, màu sắc để phát triển định hướng và ghi nhớ những khối lượng thông tin có  
liên quan. Do đó khi xây dựng bản đồ tư duy, cần yêu cầu học sinh thực hiện theo  
các bước sau:  
Bước 1: Vẽ ý tưởng trung tâm  
- Ý tưởng trung tâm là vấn đề chính mà chúng ta đang quan tâm tới. Để biểu  
diễn ý tưởng trung tâm, có thể vẽ một hình ảnh hoặc viết chữ (ngắn gọn) liên quan  
tới chủ đề được đề cập. Tuy nhiên, thông thường việc sử dụng hình ảnh hiệu quả  
hơn, vì nó mang tính biểu tượng và có ưu thế vượt trội trong việc gợi mở các liên  
tưởng so với dùng từ ngữ.  
Bước 2: Vẽ các nhánh chính  
- Các nhánh chính là các ý tưởng lớn được phát triển trên nền tảng chủ đề  
trung tâm. Nó có thể những kiến thức mà chúng ta đã được học cần ghi nhớ,  
hoặc thể là các dạng bài tập phương pháp làm bài tương ứng của dạng bài văn  
đó mà ta xét có liên quan tới chủ đề chính. Các nhánh chính có thể được vẽ theo  
nhiều cách khác nhau (tùy thuộc ý tưởng của mỗi cá nhân hay của nhóm) sao cho  
chúng mang tính gợi mở cao và hiệu quả nhất trong việc ghi nhớ; nói cách khác,  
việc vẽ các nhánh chính nên được để học sinh thoải mái sáng tạo một cách tự  
nhiên.  
- Trên các nhánh chính này là các từ khóa ngắn gọn và mang tính chất gợi ý.  
Khuyến khích các em vẽ thêm hình ảnh đó mang tính minh họa.  
Bước 3: Vẽ các nhánh thứ cấp  
- Đây là các nhánh được vẽ từ nhánh chính. Nó bổ sung ý cho nhánh chính.  
Chúng ta có thể vẽ thêm nhiều nhánh thứ cấp, tuy nhiên cần quan tâm tới không  
gian mà chúng ta được cung cấp.  
- Tương tnhư nhánh chính, các chtrên nhánh thcp cũng là các tkhóa  
mang tính gi nh, và có thbsung hình nh để thêm phn sinh động.  
Nguyên lý quan trọng trong dạy học bằng bản đồ tư duy là nó dựa trên sự  
liên tưởng “ý này gợi mở ý kia” tạo ra không gian vô tận trong học tập và sáng tạo  
của học sinh.  
6/24  
nhiều cách khác để vẽ bản đồ tư duy; ngoài ra, việc chia nhỏ các bước tùy  
vào những tình huống hay yêu cầu của từng vấn đề mà ta cần tả.  
2.3.2. Vận dụng bản đồ tư duy trong quá trình dạy học  
a) Sử dụng bản đồ tư duy để kiểm tra bài cũ  
Giáo viên đưa ra một từ khoá liên quan nội dung kiến thức của bài cũ, sau  
đó yêu cầu học sinh vẽ bản đồ tư duy bằng cách đặt ra các câu hỏi gợi ý để các  
em tìm ra các nội dung liên quan; từ đó các em có thể vẽ các nhánh con và hoàn  
thiện bản đồ duy. Thông qua bản đồ tư duy này, học sinh sẽ nhớ lại các nội dung  
đã học, đồng thời khắc sâu kiến thức.  
dụ:  
Khi dạy bài đến “ Nói giảm nói tránh” (Ngữ văn 8), để kiểm tra bài cũ, thay  
đặt câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc cho các em làm bài tập nào đó rồi cho điểm,  
giáo viên đưa ra từ khoá “NÓI QUÁ”. Sau đó yêu cầu học sinh vẽ bản đồ tư duy  
lên bảng (giáo viên đưa ra những hỏi khác gợi ý để học sinh có thể vẽ tiếp các  
nhánh con và bổ sung dần các ý nhỏ (nhánh con cấp 2, cấp 3…). Sau khi học sinh  
vẽ xong, học sinh thuyết trình trước lớp; các em khác theo dõi, nhận xét, bổ sung  
7/24  
nếu cần thiết. Cuối cùng, giáo viên sẽ nhận xét và cho điểm.  
Bản đồ tư duy bài “ Nói quá” – Ngữ văn 8  
b) Sử dụng bản đồ tư duy để hỗ trợ giảng dạy kiến thức mới  
Đối với việc dạy bài mới, để sử dụng bản đồ tư duy hiệu quả, yêu cầu giáo  
viên cần thực hiện việc chuẩn bị từ trước một cách kỹ lưỡng. Từ nội dung bài học,  
giáo viên “mô hình hóa” dưới dạng một bản đồ tư duy rồi vẽ trên máy (nếu dạy  
bằng giáo án điện tử) hoặc trên giấy A4 (nếu dạy giáo án thường). Khi lên lớp, giáo  
viên sử dụng bản đồ tư duy đó để hướng dẫn học sinh khai thác từng nội dung của  
bài học (mỗi nội dung được biểu đạt tương ứng với một nhánh con của bản đồ tư  
duy).  
Một số lưu ý khi giáo viên sử dụng bản đồ tư duy vào việc hỗ trợ dạy học  
kiến thức mới:  
- Giáo viên chỉ đóng vai trò là người gợi ý, dẫn dắt để học sinh chủ động  
trong tiếp thu kiến thức. Do đó, tính tích cực và sáng tạo của các em sẽ được phát  
huy tối đa, lớp học sẽ trở nên sôi nổi, sinh động hơn, các em cũng tỏ ra thích thú,  
hào hứng với tiết học ngữ văn hơn.  
8/24  
- Giáo viên có thể dùng những phương tiện sẵn của lớp: bảng đen, bảng  
phụ, phấn màu, bút màu, giấy A4 hoặc A0.  
- Giáo viên thể dùng phấn màu vẽ trực tiếp lên bảng (nếu khả năng vẽ),  
hoặc thể dùng máy; có thể vẽ trên giấy A4 hoặc A0 bằng bút màu.  
- Giáo viên thể vẽ trước một bản đồ tư duy chỉ có các nhánh, sau đó giảng  
tới đâu thì hướng dẫn cho học sinh điền chữ tới đó.  
Thông qua bản đồ tư duy đó học sinh có thể nắm được toàn bộ kiến thức bài  
học một cách dễ dàng.  
dụ 1:  
Với văn bản: Thầy bói xem voi” (Ngữ văn 6), sau phần đọc và tìm hiểu  
chung, giáo viên vẽ mô hình bản đồ tư duy lên bảng. Bản đồ tư duy gồm 5 nhánh  
chính, ở mỗi nhánh có thể phân thành nhiều nhánh thứ cấp tuỳ thuộc vào nội dung,  
kiến thức của bài học.  
Để thể hoàn thiện được mô hình BĐTD của bài học, giáo viên sử dụng hệ  
thống câu hỏi định hướng để khai thác kiến thức:  
+ Bố cục của văn bản: Học sinh dựa vào văn bản để xác định các ý chính  
(hoàn cảnh các thầy bói xem voi, cách xem voi, các thầy nhận xét về con voi, hậu  
quả,...)  
+ Tiếp tục hoàn thành các nhánh của bản đồ tư duy bằng cách trả lời hệ  
thống câu hỏi nhỏ có tính gợi mở (các thầy xem voi trong hoàn cảnh nào, cách xem  
voi của các thầy ra sao,...). Từ đó giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra nhận xét về  
kết quả của cách xem voi phiến diện; sau đó khái quát thành bài học về cách nhìn  
nhận đánh giá sự vật, hiện tượng…  
9/24  
Bản đồ tư duy văn bản “Thầy bói xem voi” - Ngữ văn 6  
dụ 2:  
Khi học bài “So sánh(Ngữ văn 6), đầu giờ học, giáo viên có thể kiểm tra sự  
chuẩn bị bài nhà của học sinh, sau đó dẫn dắt vào bài học. Giáo viên ghi nhan đề  
bài học lên bảng, khái quát lại các phương diện kiến thức cần tìm về các phép tu từ  
đã học ở tiết học trước.  
Ở tiết học so sánh này ta cũng tìm hiểu kiến thức qua các phương diện: Khái  
niệm, cấu tạo, tác dụng và các kiểu so sánh. Từ việc khái quát kiến thức cơ bản về  
so sánh, giáo viên lần lượt hoàn thiện bản đồ tư duy trên bảng thông qua ngữ liệu  
mẫu sách giáo khoa. Việc hoàn thiện bản đồ tư duy phải sự “phối hợp” giữa giáo  
viên và học sinh. Đầu giờ giáo viên cho từ khoá “So sánh” rồi yêu cầu học sinh vẽ  
bản đồ tư duy bằng cách đưa ra các tình huống qua hệ thống câu hỏi phát hiện, gợi  
mở, khái quát… cho các em để các em có thể vẽ tiếp các nhánh con và bổ sung dần  
10/24  
các ý nhỏ (nhánh thứ cấp 2, cấp 3…). Học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động  
dạy học do giáo viên tổ chức: cá nhân, nhóm, thảo luận… Sau khi các cá nhân, các  
nhóm học sinh vẽ xong, giáo viên mời một sem lên trình bày trước lớp và yêu cầu  
các học sinh khác bổ sung rồi kết luận.  
Bản đồ tư duy bài “So sánh” - Ngữ Văn 6  
Với phương pháp bản đồ tư duy trong giảng dạy từng bước, giáo viên đóng  
vai trò dẫn dắt, gợi mở, giúp học sinh tự phát hiện dần toàn bộ kiến thức bài học.  
Bắt đầu bằng những kiến thức tổng quát nhất - trọng tâm bài học - trung tâm bản đồ  
duy, giáo viên giúp học sinh tái hiện những kiến thức lớn xoay quanh trọng tâm  
bài học, những ý nhỏ trong từng ý lớn,… Cứ như vậy cho đến khi kết thúc giờ học  
cũng là lúc kiến thức tổng quát của bài học được trình bày một cách sáng tạo, sinh  
động thông qua bản đồ tư duy. Sau khi hoàn thiện bản đồ tư duy, học sinh chỉ cần  
nhìn vào đó là có thể tái hiện, thuyết trình lại được toàn bộ nội dung kiến thức bài  
học; đồng thời xác định được các ý chính, ý phụ, để từ đó kế hoạch học tập hiệu  
quả.  
Trong quá trình dạy bài mới, tùy theo nội dung tiết dạy thời gian, giáo  
viên còn có thể cho học sinh xây dựng bản đồ tư duy thông qua phương thức thảo  
luận nhóm theo các bước sau:  
- Học sinh lập bản đồ tư duy theo nhóm với sự gợi ý của giáo viên.  
- Đại diện của các nhóm lên báo cáo, thuyết minh về bản đồ tư duy của  
nhóm mình.  
- Các học sinh khác thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện bản đồ tư  
duy về kiến thức của bài học. Giáo viên sẽ đóng vai trò là người cố vấn, đưa ra các  
11/24  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 24 trang minhvan 05/05/2025 171
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Sử dụng bản đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở bậc học Trung học cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_su_dung_ban_do_tu_duy_trong_doi_moi_phuong_phap_day_hoc.doc