SKKN Sáu giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia Olympic môn Toán cấp huyện cho học sinh lớp 5A Trường Tiểu học Vạn Thọ 1

Olympic môn học là sân chơi trí tuệ, bổ ích và là cơ hội giao lưu học hỏi cho học sinh lớp 5 của các trường tiểu học trong huyện, mỗi năm tổ chức một lần. Cuộc thi tạo hứng thú cho các em trong học tập, rèn luyện, bồi dưỡng lòng tự tin và có hướng phấn đấu trong tương lai.
A. MỞ ĐẦU  
1. Lý do chọn đề tài  
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, đất nước ta cũng đang tích cực hội  
nhập sâu rộng với thế giới, để thể hội nhập thành công với toàn thế giới thì  
quan trọng nhất vẫn là phát triển nền giáo dục Việt Nam một cách vững mạnh,  
toàn diện. vậy, trong tất cả các chính sách phát triển của đất nước, Đảng và  
nhà nước ta luôn dành sự quan tâm cho thế hệ trẻ, đặc biệt tầng lớp trẻ em -  
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”- Đây là câu khẩu hiệu mỗi thầy cô  
giáo đều đã thấm nhuần trong quá trình giáo dục học sinh một cách toàn diện ở  
tất cả các mặt : đức, trí, thể, mĩ. Riêng về mặt học tập, đặc biệt là môn Toán thì  
càng cần phải quan tâm, chú trọng nhiều. Môn Toán ở tiểu học bước đầu hình  
thành khả năng trừu tượng hóa, khái quát hóa, kích thích trí tưởng tượng của học  
sinh. Môn Toán là chìa khóa mở cửa cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là  
công cụ cần thiết cho người lao động thời hiện đại, nó góp phần giáo dục con  
người phát triển toàn diện hơn. Nếu học sinh yếu toán cũng đồng nghĩa với  
việc các em phát triển chưa trọn vẹn, ảnh hưởng đến tương lai của chính bản  
thân các em và cả hội. Ngay từ cấp tiểu học chúng ta cần tạo nền tảng vững  
chắc cho các em, bằng cách là bồi dưỡng tư duy cho các em một cách có hệ  
thống kế hoạch ngay từ đầu năm học.  
Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 là một trường thuộc vùng nông thôn, dân cư  
thưa thớt, kinh tế còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí chưa cao nên đa số phụ  
huynh học sinh của trường lơ là, thiếu quan tâm đến việc học tập của con em  
mình. Từ đó chất lượng học tập của học sinh thường ở mức độ thấp để được  
đội ngũ học sinh tham gia olympic môn học quả thật rất hiếm. kết quả là qua  
nhiều năm tham gia Thi học sinh giỏi hoặc olympic môn học chưa học sinh  
đạt giải dù các thầy cô giáo cũng rất cố gắng để bồi dưỡng.  
Olympic môn học là sân chơi trí tuệ, bổ ích và là cơ hội giao lưu học hỏi  
cho học sinh lớp 5 của các trường tiểu học trong huyện, mỗi năm tổ chức một  
lần. Cuộc thi tạo hứng thú cho các em trong học tập, rèn luyện, bồi dưỡng lòng  
tự tin và có hướng phấn đấu trong tương lai.  
Từ những vấn đề nêu trên, tôi nghĩ rằng phải đầu tư nhiều hơn cho việc  
bồi dưỡng cho các em về biện pháp học tập môn Toán, giúp các em có đủ khả  
năng hiểu được vấn đề một cách chắc chắn, biết phân tích đề bài một cách rõ  
ràng chính xác, giải quyết vấn đề hợp để đi đến việc giải bài toán đạt kết quả  
như mong muốn.  
Được nhà trường phân công bồi dưỡng học sinh tham gia Olympic môn  
Toán 2 năm học qua, tôi nhận thấy các em chưa thật sự nắm được vấn đề một  
cách vững chắc, thiếu sáng tạo, linh hoạt trong một số tình huống nhất định, chỉ  
biết vận dụng theo lối mòn sẵn có, cho nên sẽ khó đạt được thành tích tốt trong  
cuộc thi. Vì vậy phải kế hoạch và các giải pháp thật cụ thể và chi tiết ngay từ  
đầu năm học. Đó chính là lý do mà tôi chọn đề tài: “Sáu giải pháp nâng cao hiệu  
-1-  
quả tham gia Olympic môn Toán cấp huyện cho học sinh lớp 5A Trường Tiểu  
học Vạn Th1”.  
2. Mục đích nghiên cứu đề tài  
Mục đích tổng quát của đề tài là tìm các giải pháp thật chi tiết và phù hợp  
để bồi dưỡng cho học sinh tham gia Olympic môn Toán nhằm nâng cao chất  
lượng giáo dục nói chung và góp phần đạt hiệu quả tham gia Olympic môn học  
nói riêng. Chính vì vậy, việc tìm hiểu về mức độ nắm vận dụng kiến thức của  
từng học sinh là vô cùng quan trọng, từ đó đề ra các biện pháp, phương pháp dạy  
học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh thì hiệu quả giảng dạy sẽ cao hơn.  
Mục đích cụ thể là:  
- Giúp học sinh củng cố, khắc sâu kiến thức toán đã học, giúp học sinh  
biết cách phát hiện giải quyết vấn đề theo con đường nhanh nhất, hợp nhất.  
- Rèn luyện cho học sinh kỹ năng tính toán, kỹ năng giải toán, đặc biệt là  
kỹ năng vận dụng một cách linh hoạt các kiến thức toán học đã học để giải quyết  
các vấn đề có tính phức tạp hơn.  
- Phát triển năng lực tư duy, đặc biệt năng lực khái quát hóa, trừu tượng  
hóa, trí tưởng tượng không gian,.. Phát huy tính linh hoạt, độc lập và sáng tạo,  
trí tuệ của học sinh; góp phần phát hiện tài năng toán học cho các bậc học tiếp  
theo.  
- Tạo niềm tin và động lực giúp học sinh học tốt môn Toán cũng như các  
môn học khác ở tiều học. Học sinh sẽ thêm yêu thích môn Toán, góp phần giáo  
dục những đức tính và phẩm chất cần thiết của người lao động mới, đáp ứng yêu  
cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của hội.  
3. Khách thể đối tượng nghiên cứu  
3.1. Khách thể nghiên cứu: Nghiên cứu thực tiễn của học sinh lớp 5A,  
Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 khi tham gia Olympic môn Toán cấp huyện  
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Sáu giải pháp nâng cao chất lượng tham gia  
Olympic môn Toán cấp huyện.  
4. Giả thuyết nghiên cứu  
Sử dụng sáu giải pháp (được nhắc đến trong đề tài) này sẽ nâng cao hiệu  
quả tham gia Olympic môn Toán cấp huyện cho học sinh lớp 5A Trường Tiểu  
học Vạn Th1.  
5. Nhiệm vụ nghiên cứu  
5.1. Nghiên cứu cơ sở khoa học thực tiễn của việc nâng cao chất lượng  
tham gia Olympic môn học cấp huyện.  
5.2. Nghiên cứu thực tiễn thực trạng của học sinh lớp 5A và Trường tiểu  
học Vạn Thọ 1 khi tham gia Olympic môn học cấp huyện, chú ý những nguyên  
nhân dẫn đến học sinh tham gia chưa hiệu quả trước đó.  
-2-  
5.3. Đề xuất những giải pháp khả thi để nâng cao chất lượng tham gia  
Olympic môn học cấp huyện, qua đó tổng kết kinh nghiệm.  
6. Phạm vi và giới hạn đtài  
- Lĩnh vực nghiên cứu: Môn Toán  
- Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 5A tham gia Olympic môn Toán cấp  
huyện Trường Tiểu học Vạn Thọ 1  
- Thời gian nghiên cứu:  
+ Thời gian bắt đầu: 11/2018  
+ Thời gian kết thúc: 9/2019  
7. Phương pháp nghiên cứu  
a. Phương pháp quan sát  
- Mục đích: Giáo viên quan sát học sinh trong các giờ học Toán để nắm  
bắt được các mảng kiến thức học sinh còn yêú, thái độ của học sinh khi học.  
- Cách thức: Giáo viên quan sát, theo dõi, nhận xét, đánh giá về cách trình  
bày, cách trả lời câu hỏi, cách làm việc nhóm... của học sinh trong quá trình học  
để nhận biết sự thay đổi về thái độ, hứng thú học tập của học sinh trước và sau  
thời gian áp dụng biện pháp của đề tài vào tiết dạy.  
b. Phương pháp vấn đáp  
- Mục đích: Giáo viên nắm được các chuẩn kiến thức kĩ năng học  
sinh đã đạt chưa đạt; Hiểu về tâm tư, hoàn cảnh sở thích của các em.  
- Cách thức: Giáo viên đặt câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề để học sinh suy  
nghĩ, tìm và trả lời về những điều học sinh nắm được chưa nắm được để từ đó  
giáo viên có hệ thống các nội dung cần bồi dưỡng cho học sinh. Hoặc hiểu về  
tính cách, sở thích của học sinh hơn.  
c. Phương pháp điều tra  
- Mục đích: Giáo viên nắm được hoàn cảnh gia đình, sở thích của học  
sinh.  
- Cách thức: Giáo viên gặp gỡ phụ huynh trao đổi, hỏi thăm tình hình gia  
đình, thái độ của học sinh khi học ở nhà; trao đổi với giáo viên chủ nhiệm lớp  
trước về tình hình học tập và thái độ của học sinh.  
d. Phương pháp đọc tài liệu  
- Mục đích: Giáo viên nắm được đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, các  
giải pháp bồi dưỡng học sinh đã thực hiện hiệu quả chưa hiệu quả, hệ  
thống hóa các mảng kiến thức, kĩ năng cần rèn cho học sinh.  
- Cách thức: Giáo viên tham khảo các tài liệu về tâm sinh lý lứa tuổi học  
sinh tiểu học, các đề tài nghiên cứu có liên quan trước đó, các dạng bài tập toán  
cần thực hiện ...  
-3-  
d. Nghiên cứu sản phẩm:  
- Mục đích: thực nghiệm kiểm nghiệm kết quả để khẳng định tính hiệu  
quả của giải pháp.  
- Cách thức: Ghi chép tình hình thực nghiệm, kiểm nghiệm các kết quả,  
hệ thống các giải pháp thành công.  
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU  
Chương 1: Cơ sở luận của vấn đề nghiên cứu  
1. Cơ sở khoa học  
“Phát triển giáo dục đào tạo một trong những động lực quan trọng  
thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con  
người - yếu tố cơ bản để phát triển hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền  
vững”. (Văn kiện Đại hội Đảng lần IX )  
Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đaị hóa đất nước Đảng và nhà nước  
ta không ngừng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài cho đất  
nước. Phát triển giáo dục nền tảng, quốc sách hàng đầu tạo nguồn nhân lực  
chất lượng cao, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp  
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, yếu tố cơ bản để phát triển hội.  
Bồi dưỡng và nâng cao kiến thức cho học sinh là một trong những mục tiêu giáo  
dục đào tạo của Bộ giáo dục. Trong đó việc bồi dường, đào tạo học sinh giỏi  
vấn đề hết sức cần thiết, bởi chỉ những nhân tài mới nhanh chóng tiếp  
thu thành tựu khoa học mới của nhân loại, phát minh ra sáng kiến để phục vụ  
cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.  
Đào tạo, bồi dưỡng nhân tài là nhiệm vụ cao cả của toàn xã hội, song  
trách nhiệm trực tiếp của những người làm công tác giáo dục. Bởi vậy trong  
tài liệu tiếp tục quán triệt Nghị quyết Trung ương II, Bộ giáo dục đào tạo chỉ  
“…trường tiểu học mỗi giáo viên tiểu học đều nhiệm vụ phát hiện và  
bồi dưỡng học sinh giỏi”.  
Bậc tiểu học bậc học nền tảng, bồi dưỡng học sinh hoàn thành tốt ở tiểu  
học nền móng cho chiến lược đào tạo người tài của đất nước. Để được các  
thành quả về giáo dục học sinh nói chung hay những thành tích cao của học sinh  
hoàn thành tốt nói riêng, ngay từ cấp tiểu học các nhà trường phải sự quan  
tâm, chú ý từ các buổi học hằng ngày của các khối lớp ở tất cả các môn học  
trong nhà trường. Việc giáo dục học sinh hằng ngày trên lớp chất lượng chính  
tạo một nền móng vững chắc cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài. Mặt khác  
nội dung, phương pháp giáo dục đại trà và bồi dưỡng học sinh hoàn thành tốt  
cũng như hình thức tổ chức phải phong phú và phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí  
học sinh mới đem lại hiệu quả trong giáo dục.  
Sự hình thành và phát triển năng khiếu, tài năng của con người chịu sự tác  
động của các yếu tố di truyền, môi trường tnhiên và xã hội, vĩ cũng như vi  
-4-  
của gia đình, nhà trường, hội của dân tộc, quốc gia và thời đại trong suốt  
quá trình sinh thành phát triển của cả đời người nói chung của những con người  
năng khiếu, tài năng nói riêng.  
Con người nói chung và người tài năng nói riêng hình thành phát triển  
trưởng thành, cống hiến cho xã hội trải qua 3 giai đoạn chính.  
Giai đoạn 1: Giai đoạn bắt đầu từ lúc bào thai hình thành, phát triển và  
kết thúc lúc đứa trẻ chào đời. Đây là giai đoạn hình thành các tổ chức cấu trúc tế  
bào, gắn chặt chẽ với hình thành và phát triển của thai nhi, cũng như việc nảy  
sinh (hoặc thui chột các mầm mống ban đầu của tài năng ở mỗi con người).  
Trong giai đoạn này vai trò di truyền, vật chất tinh thần, những hiểu biết về điều  
kiện sống làm việc của người bố nhất của người mẹ… ảnh hưởng quyết  
định tới việc phát triển thai nhi đặc biệt là phát triển trí tuệ và tình cảm sau này  
của đứa trẻ.  
Giai đoạn 2: Giai đoạn bắt đầu lúc đứa trẻ ra đời cho đến khi trưởng  
thành. Đây chính là giai đoạn cơ bản nhất để năng khiếu, tài năng hình thành,  
phát triển trong cuộc đời của mỗi con người. Trong giai đoạn này, mầm mống  
ban đầu do di truyền để lại và do tác động của môi trường sẽ được bộc lộ, phát  
triển ở độ tuổi học phổ thông mầm mống năng khiếu định hình, trẻ em trở thành  
học sinh năng khiếu. Trong giai đoạn này vai trò của môi trường tự nhiên và  
nhất là vai trò của môi trường hội (vai trò của giáo dục ở gia đình, ở trường  
học - đặc biệt là vai trò của thầy giáo giỏi), nơi đứa trẻ ăn, ở, sinh sống, học tập,  
giao tiếp… hàng ngày có tác động cực kỳ quan trọng đến sự phát triển hoặc làm  
thui chột năng khiếu của trẻ.  
Giai đoạn 3: Giai đoạn mà môi trường vĩ mô có ảnh hưởng lớn tới việc  
cống hiến tài năng của mỗi con người. Đây là giai đoạn mà tài năng đã được xác  
lập, được thể hiện, được sử dụng trong thực tiễn mang lại các kết quả, các cống  
hiến cụ thể của hội. Trong giai đoạn này vai trò của môi trường vĩ như:  
đường lối, chủ trương cơ chế, chế độ, chính sách, cách tổ chức, quản lý, chỉ  
đạo… các mặt kinh tế - xã hội của nhà nước, của quốc gia và có khi của cả một  
trào lưu một xu thế phát triển của thời đại… có tác động và có ảnh hưởng lớn tới  
việc phát hiện các tài năng cũng như tới việc phát triển sức sáng tạo sự cống  
hiến tài năng của céng đồng cũng như của mỗi con người.  
Ba giai đoạn trên đây, kế tiếp tạo nên điều kiện cho nhau phát triển. Vì  
vậy trong mỗi giai đoạn cần chủ trương, phương hướng, biện pháp và tác  
động đúng, kịp thời để năng lực của từng người phát triển nảy nở, đặc biệt trong  
giai đoạn hai, môi trường nhà trường có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục và  
bồi dưỡng năng khiếu. Giai đoạn thứ hai phù hợp với học sinh tiểu học nếu như  
gia đình, nhà trường và xã hội biết chăm lo học sinh ngay giai đoạn này thì sẽ  
-5-  
có tác dụng kích thích sự phát triển của các tài năng, tạo tiền đề cho các tài năng,  
làm cơ sở cho các bậc học cao hơn.  
Như vậy sự hình thành và phát triển năng khiếu, tài năng của con người  
chịu sự tác động của các yếu tố di truyền (Tư chất năng khiếu) môi trường tự  
nhiên và xã hội, vĩ cũng như vi mô của gia đình, nhà trường, hội của dân  
tộc, quốc gia và thời đại trong suốt quá trình sinh thành phát triển của cả đời  
người nói chung của những con người năng khiếu, tài năng nói riêng.  
Dựa trên nền tảng đó chúng ta đề cập tới vấn đề chiến lược của Đảng và  
Nhà nước ta đối với việc bồi dưỡng, đào tạo nhân tài cho đất nước trong thời kỳ  
công nghiệp hoá hiện đại hoá nói chung và công việc của người quản cïng  
nh÷ng ng-êi trùc tiÕp lµm c«ng t¸c gi¶ng d¹y nói riêng trên lĩnh vực phát hiện,  
tuyển chọn bồi dưỡng học sinh năng khiếu, tài năng cho quê hương đất nước  
là vô cùng quan trọng.  
Trong chương trình các môn học ở bậc tiểu học, bên cạnh môn Tiếng Việt  
thì môn Toán chiếm số giờ học rất lớn. Việc nâng cao chất lượng dạy học  
môn Toán đặc biệt là phát hiện bồi dưỡng học sinh giỏi toán là vô cùng quan  
trọng thiết thực.  
2. Cơ sở thực tiễn  
Việc tổ chức thi Olympic môn học nhằm động viên khích lệ học sinh học  
tốt và giáo viên dạy giỏi, góp phần thúc đẩy việc cải tiến, nâng cao chất lượng  
dạy học, chất lượng của việc quản chỉ đạo của các cấp quản lý giáo dục,  
đồng thời phát hiện học sinh có năng khiếu để tiếp tục bồi dưỡng ở cấp học cao  
hơn, nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước.  
Trong quá trình dạy học thì việc chú ý tới sự phát triển của từng học sinh  
luôn là yêu cầu cơ bản. Bởi vậy việc bồi dưỡng học sinh giỏi bao giờ cũng là  
nhiệm vụ quan trọng của mỗi giáo viên và cán bộ quản lý.  
Trường tiểu học nơi đầu tiên học sinh tham gia vào viêc học với tư cách  
hoạt động chủ đạo. Nhờ có các nội dung giáo dục toàn diện mà các em có  
điều kiện bộc lộ năng khiếu tài năng. Nếu cha mẹ, bạn bè và thầy cảm nhận,  
phát hiện, nâng đỡ bồi dưỡng mầm mống năng khiếu kích thích niềm say mê  
học tâp thì biểu hiện của năng khiếu sẽ ngày càng rõ hơn. Năng khiếu được bồi  
dưỡng sớm sẽ định hướng phát triển dần định hình trở thành học sinh năng  
khiếu, ngược lại năng khiếu của các em không được phát hiện hay không được  
quan tâm bồi dưỡng thì năng khiếu của các em mất dần, mầm mống năng khiếu  
tuy có nhưng sẽ bị mai một, thui chột đi.  
Tổ chức bồi dưỡng học sinh tham gia Olympic môn Toán ở tiểu học là  
phát huy hết khả năng phát triển tiềm tàng của trẻ, tạo nguồn học sinh giỏi cho  
-6-  
các cấp học tiếp theo, thực hiện chiến lược “bồi dưỡng nhân tài cho đất nước”.  
Mặt khác tổ chức bồi dưỡng học sinh tham gia Olympic môn học một tiêu chí  
không thể thiếu để đánh giá sự phát triển của một nhà trường. Mỗi học sinh giỏi  
không những niềm tự hào của cha mẹ, thầy cô mà còn là niềm tự hào của cả  
cộng đồng.  
Chương 2: Thực trạng của vấn đề nghiên cứu  
I. Đặc điểm tình hình  
Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 là một trường thuộc vùng nông thôn, dân cư  
thưa thớt, kinh tế còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí chưa cao nên đa số phụ  
huynh học sinh của trường lơ là, thiếu quan tâm đến việc học tập của con em  
mình. Từ đó chất lượng học tập của học sinh thường ở mức độ thấp để được  
đội ngũ học sinh tham gia Olympic môn học quả thật rất hiếm. kết quả là qua  
nhiều năm tham gia giao lưu học sinh giỏi hoặc Olympic môn học cấp huyện  
chưa học sinh đạt giải dù các thầy cô giáo cũng rất cố gắng để bồi dưỡng. Cụ  
thể việc bồi dưỡng học sinh tham gia Olympic môn học của tôi gặp những thuận  
lợi và khó khăn như sau:  
a)Thuận lợi:  
+ Được sự quan tâm chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà trường.  
+ Kế hoạch bồi dưỡng học sinh tham gia Olympic môn học được thực  
hiện ngay đâù năm học.  
+ Một số học sinh có duy học Toán tốt.  
+ Việc bồi dưỡng học sinh Giỏi (Học sinh xếp loại Hoàn thành tốt môn  
học) không chỉ thực hiện ở lớp 5 mà thực hiện lồng ghép trong các tiết  
học ở tất cả các khối lớp.  
a) Khó khăn:  
+ Sự quan tâm của phụ huynh học sinh còn hạn chế.  
+ Về phía học sinh theo yêu cầu thì mỗi học sinh tham gia Olympic môn  
học phải năng lực, phẩm chất xếp loại Tốt, môn học hoạt động giáo dục  
xếp loại Hoàn thành tốt mà thông thường thì học sinh hay giỏi không đều các  
môn, có em giỏi môn Toán thì môn Tiếng Việt hoặc Tiếng Anh còn hạn chế..với  
lại số lượng học sinh khối 5 quá ít (35 em) nên để tìm được 6 học sinh tham gia  
Olympic môn Toán không hề dễ.  
+ Mặt khác, sự thiếu hụt kiến thức từ những năm trước do các em mau  
quên chưa bổ khuyết kịp thời tạo ra lổ hổng kiến thức khiến các em không theo  
kịp chương trình nâng cao, sinh ra chán nản ngại học.  
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu  
-7-  
Năm học 2018-2019, Trường Tiểu học vạn Thọ 1 có 1 lớp 5 và tôi được  
nhà trường phân công chủ nhiệm bồi dưỡng học sinh tham gia Olympic môn  
học với tổng số học sinh là 35 em. Sau khi khai giảng năm học mới, tôi tiến  
hành ngay vào việc tìm hiểu tình hình học tập của lớp, qua tìm hiểu tôi nhận  
thấy một số vấn đề sau:  
- Gia đình các học sinh đa phần là nông dân, kinh tế gia đình còn khó  
khăn nên ít quan tâm đến việc học tập của con em.  
- Nhiều học sinh chưa nắm vững kiến thức đã học ở các lớp dưới tiếp  
thu kiến thức mới còn chậm, một số học sinh khác tiếp thu kiến thức tốt nhưng  
chưa linh hoạt, sáng tạo trong giải toán, chưa vận dụng được kiến thức đã học  
vào việc giải các bài tập có liên quan.  
- Các năm qua, khi bồi dưỡng học sinh tham gia olympic môn Toán, giáo  
viên chỉ dựa vào sách giáo khoa, sách tham khảo, chưa đưa ra được các giải  
pháp cụ thể và chi tiết.  
Với thực trạng trên, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng môn Toán vào  
tuần 8 của chương trình để nắm chắc hơn trình độ tiếp thu và nắm kiến thức của  
từng em.  
KIỂM TRA  
Môn Toán lớp 5 – Ngày thi : 30 / 10 / 2018  
Thời gian làm bài : 40 phút (Không kể thời gian giao đề)  
A. Trắc nghiệm:  
Hãy khoanh tròn vào chữ cái đặt trước kết quả đúng của các câu sau :  
Câu 1: Số nhất trong các số 0,6; 0,32; 0,047; 0,205 là:  
A. 0,32  
Câu 2: Số tự nhiên nào sau đây không nằm giữa 1,75 và 4,05 ?  
A. 3 B. 5 C. 2 D. 4  
Câu 3: Dãy số thập phân nào được viết theo thứ tự từ đến lớn :  
B. 0,6  
C. 0,205  
D. 0,047  
A. 2,9; 4,03; 5,1  
C. 5,1; 4,03; 2,9  
B. 4,03; 5,1; 2,9  
D. 5,1; 2,9; 4,03  
2
Câu 4:  
của 3 tấn là:  
5
A. 12kg  
Câu 5: Số thích hợp để viết vào chỗ chấm của 5km 89m = …......m. là :  
A. 5890 B. 5098 C. 5089 D. 5809  
B. 120 kg  
C. 1200 kg  
D. 12000 kg  
Câu 6: Một căn phòng hình chữ nhật chiều dài là 6m, chiều rộng bằng  
-8-  
2
3
chiều dài Diện tích căn phòng đó là:  
A .24 cm2 B . 24 m2  
Câu 7 : Một hình vuông có chu vi bằng 28 dm, cạnh hình vuông là:  
C . 24 cm  
D . 24 m  
D. 4 dm  
A. 7 dm  
B. Tự luận:  
Câu 8: Tính :  
B. 10 dm  
C. 7 dm 2  
5
2
2
8 3  
5 2  
a)  
b)4   
c)  
d) :  
7
3
5
9 7  
6 5  
Câu 9 : Tìm x  
11  
2
5
2
3
x -  
=
:
5
Câu 10 : Hiện nay mẹ hơn con 30 tuổi, biết rằng cách đây 4 năm tuổi con bằng  
1
tuổi mẹ. Tính số tuổi hiện nay của mỗi người.  
6
Kết quả khảo sát như sau: Tổng số học sinh lớp 5A là 35 em.  
ĐIỂM MÔN TOÁN  
Điểm 10 Điểm 9  
Điểm 8  
Điểm 7  
Điểm 6  
Điểm 5  
Điểm <5  
SL TL SL TL SL TL SL TL  
SL TL  
SL TL  
SL TL  
2
5,7% 2  
5,7% 3  
8,6% 6  
17,1% 9  
25,7% 10 28,6% 3  
8,6%  
Qua khảo sát cho thấy học sinh có điểm 9,10 ít ( 11,4%). Kết quả này thể  
hiện học sinh quên kiến thức lớp 4 nhiều, tiếp thu kiến thức đầu năm chưa vững.  
Bên cạnh việc theo dõi trong quá trình học kết hợp với lần khảo sát này tôi đã  
chọn ra 6 em trong 35 em để tham gia Olympic môn Toán.  
Việc bồi dưỡng cho các em được tiến hành trong tiết học Toán, tiết rèn  
Toán và sau giờ học mỗi buổi một tiết.  
Chương 3: Giải pháp nghiên cứu  
Để nâng cao chất lượng học sinh tham gia Olimpic môn Toán cấp huyện  
tôi tiến hành sáu giải pháp sau:  
1. Lựa chọn học sinh vào đội tuyển tham gia Olympic môn Toán.  
Điều kiện để tham gia đội tuyển học sinh phải năng lực, phẩm chất  
xếp loại Tốt, môn học hoạt động giáo dục xếp loại Hoàn thành tốt, nói nôm  
na là học sinh đó phải giỏi toàn diện đồng đều các môn. Tuy nhiên khi tuyển  
chọn học sinh thi từng môn tôi đã khảo sát để lựa chọn môn học học sinh có  
-9-  
ưu thế hơn để khi bồi dưỡng học sinh sẽ phát huy hết được khả năng vốn của  
mình tránh được trường hợp học sinh có năng khiếu học Toán lại được chọn vào  
đội tuyển thi môn Tiếng Việt ngược lại.  
Ngoài việc khảo sát tôi còn theo dõi các biểu hiện của học sinh ở từng  
môn học. Khi thực hiện nhiệm vụ học tập, những học sinh có năng khiếu học  
Toán sẽ thường một số biểu hiện sau:  
- Có óc quan sát tinh tế, nhanh chóng phát hiện vấn đề, phát hiện ra những  
điểm “nút” làm cho việc giải quyết vấn đề phát triển theo chiều hướng hợp lý  
hơn, độc đáo hơn. Khi giáo viên đưa ra moọt bài toán hoặc một tình huống toán  
học, đối với học sinh giỏi toán, các em sẽ quan sát và nhanh chóng phát hiện ra  
chỗ “mấu chốt” hay “thắt nút” của bài toán; đồng thời đề xuất cách “mở nút”  
7
9
hợp nhất. Chẳng hạn: So sánh hai phân số  
và . Nếu học sinh bình  
8
8
thường các em sẽ nghĩ ngay tới việc quy đồng nhưng với học sinh giỏi toán, các  
em sẽ dựa vào điểm “nút” của bài toán là phần của hai phân số này so với 1  
1
1
1 1  
là và . Do > nên < .  
8 9  
7
9
8
9
8
8
- Thích tìm tòi khám phá bài toán theo nhiều cách khác nhau.  
- Có khả năng xác lập sự phụ thuộc của các đối tượng theo hai hướng xuôi  
ngược.  
dụ 1: Tính diện tích mảnh vườn hình thang biết đáy lớn là 26m, đáy bé  
là 18m và chiều cao là 15m  
Học sinh dễ dàng thực hiện bài toán này bằng công thức đã học.  
dụ 2: Một đám đất hình thang có diện tích 330m2. Tính đáy của  
hình thang, biết đáy bé kém đáy lớn là 8m và chiều cao là 15 m  
Học sinh giỏi toán sẽ nhanh chóng suy luận theo hướng ngược lại: Trước  
tiên tìm tổng của hai đáy sau đó lấy tổng trừ 8 rồi chia 2 thì sẽ tìm được độ dài  
của đáy bé.  
- Có khả năng chuyển đổi nhanh chóng từ thao tác duy này sang thao  
tác duy khác: Để hình thành một kiến thức toán học nào đó, ở tiểu học, con  
đường mà giáo viên thường áp dụng là con đường “quy nạp”, tức hướng dẫn  
học sinh đi từ những trường hợp cụ thể để rút ra kết luận tổng quát. Với những  
học sinh giỏi toán, các em sẽ nhanh chóng phát hiện ra dấu hiện đặc trưng để từ  
đó thể xét trường hợp tương tự, trường hợp đặc biệt, cụ thể để dự đoán cái  
trừu tượng, khái quát.  
- Có khả năng thay đổi phương thức hành động để giải quyết vấn đề một  
cách phù hợp với những thay đổi của các điều kiện đặt ra: Biểu hiện này thể hiện  
khả năng phản ứng nhanh nhạy của học sinh trước những thay đổi điều kiện mà  
giáo viên đưa ra. Chẳng hạn, sau khi hướng dẫn học sinh giải một bài toán nào  
đó, giáo viên đưa ra bài toán mới đã thay đổi điều kiện. Một học sinh có biểu  
-10-  
hiện giỏi toán thường nhanh chóng phát hiện ra thay đổi đó biết rằng cách  
giải cũ không còn phù hợp nữa, cần phải tìm cách giải mới.  
dụ: Sau khi nắm được công thức tính diện tích hình chữ nhật, nếu cho  
trước chiều dài và chiều rộng thì học sinh thì học sinh sẽ nhanh chóng tìm được  
diện tích. Bây giờ giáo viên đưa ra bài toán mới: “Cho hình chữ nhật ABCD có  
chiều rộng bằng 15cm, chiều dài gấp đôi chiêù rộng. Tính diện tích HCN.” Với  
học sinh bình thường khi lần đầu tiên gặp bài toán này các em thường tỏ ra lúng  
túng, nhưng với học sinh giỏi toán các em sẽ nhanh chóng phát hiện ra vấn đề để  
giải bài toán này trước tiên phải tính chiều dài của hình chữ nhật, sau đó áp dụng  
quy tắc đã biết.  
- Có thái độ hoài nghi khoa học, có óc tò mò, thích khám phá, không thõa  
mãn dừng lại ở việc làm theo mẫu sẵn. Đứng trước một vấn đề thường đặt  
các câu hỏi: Tại sao? Như thế nào?...  
Sau khảo sát và tìm hiểu, tôi quyết định chọn 6 học sinh sau vào đội tuyển  
tham gia Olympic môn Toán:  
DANH SÁCH HỌC SINH THAM GIA OLYMPIC TOÁN CẤP HUYỆN  
STT  
1
Họ và tên  
Điểm khảo sát lần đầu Ghi chú  
Nguyễn Cao Minh  
Lê Thanh Trí  
9
10  
8
2
3
Tấn Huy  
4
Huỳnh Trọng Hiếu  
Bùi Minh Hải  
Huỳnh Minh Quốc  
9
5
10  
7
6
2. Gặp gỡ, trao đổi với phụ huynh học sinh  
Phụ huynh học sinh là một mắc xích quan trọng trong quá trình học tập  
nói chung và bồi dưỡng học sinh tham gia Olympic môn Toán nói riêng. Bởi  
một người thầy giỏi, tâm huyết, lựa chọn phương pháp bồi dưỡng đúng, một học  
sinh có duy toán học tốt, ngoan hiền vẫn chưa đủ, phải một phụ huynh  
luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện cho con học tập. vậy, tôi đã liên hệ phụ  
huynh để nắm được hoàn cảnh gia đình, tâm tư nguyện vọng của phụ huynh  
cũng như thống nhất hướng dẫn phụ huynh cách hướng dẫn, tạo điều kiện cho  
học sinh ôn luyện học tập nhà.  
3. Biên soạn nội dung bồi dưỡng  
Để soạn tài liệu bồi dưỡng cho các em, trước tiên tôi nghiên cứu ở Sách  
giáo khoa (lớp 4 - lớp 5) về các dạng bài tập cũng tự suy nghĩ về yêu cầu hệ  
-11-  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 23 trang minhvan 16/10/2024 480
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Sáu giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia Olympic môn Toán cấp huyện cho học sinh lớp 5A Trường Tiểu học Vạn Thọ 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_sau_giai_phap_nang_cao_hieu_qua_tham_gia_olympic_mon_to.doc