SKKN Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS
Môn văn trong nhà trường bậc THCS chia làm ba phân môn: Văn học, Tiếng việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, phân môn tập làm văn là phân môn “nhẹ kí” nhất.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI
MÃ SKKN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
RÈN KỸ NĂNG LÀM VĂN BIỂU CẢM
CHO HỌC SINH THCS
Lĩnh vực : Ngữ văn
Cấp học : Trung học cơ sở
NĂM HỌC 2016- 2017
Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS
MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ: .................................................................................................1
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .................................................................................2
học sinh THCS” .................................................................................................2
3. Các biện pháp thực hiện:................................................................................4
3.1. Đối với giáo viên......................................................................................4
3.2. Đối với học sinh.....................................................................................11
4. Hiệu quả của sáng kiến: ...............................................................................11
1. Kết luận:.......................................................................................................17
2. Một số kiến nghị: .........................................................................................17
2.1. Đối với thầy cô:......................................................................................17
2.2. Đối với trò:.............................................................................................17
Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
N¨m häc 2010- 2011, được sự phân công của các cấp lãnh đạo, tôi được
chuyển về Hà Nội công tác, giảng dạy môn Ngữ văn của một trường THCS. Về
giảng dạy nơi đây, tôi nhận thấy đây là ngôi trường có bề dày thành tích, đội ngũ
giáo viên nhiệt tình giảng dạy, có tr×nh độ chuyên môn vững vàng. Nhiều đồng
chí được công nhận là giáo viên giỏi cấp Thành phố khi tuổi đời, tuổi nghề còn
rất trẻ. Trong nhiều năm giảng dạy tại trường tôi luôn được Ban giám hiệu nhà
trường quan tâm, phân công cho dạy môn học mà tôi tâm đắc nhất: môn Ngữ
văn. Càng tìm hiểu kỹ về bộ môn này tôi nhận thấy rõ người xưa nói thật không
sai: “Văn học là nhân học”. Văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và
trong sự phát triển tư duy của con người. Bộ môn văn học là một môn học thuộc
nhóm khoa học xã hội, môn văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan
điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm
công cụ, môn văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt
môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại, các môn học
khác cũng góp phần học tốt môn văn. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính
thực hành, giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức
phong phú, sinh động của cuộc sống .
Môn văn trong nhà trường bậc THCS chia làm ba phân môn: Văn học,
Tiếng việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, phân môn tập làm văn là
phân môn “nhẹ kí” nhất. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Dạy
làm văn là chủ yếu là dạy cho học sinh diễn tả cài gì mình suy nghĩ, mình cần
bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ chính xác, làm nỗi bật điều mình muốn
nói”. . . (Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện, Nghiên cứu giáo dục,
số 28, 11/1973) .
Trong giảng dạy môn ngữ văn 7, tôi nhận thấy mặc dù biểu lộ tình cảm,
cảm xúc là một nhu cầu thiết yếu của con người nhưng học sinh chưa biết cách
bộc lộ cảm xúc của mình để “khơi gợi lòng đồng cảm nơi người đọc” ( Văn 7 –
tập 1). Khi hành văn, các em còn lẫn lộn, chưa phân biệt rõ ràng, rạch ròi giữa
văn biểu cảm với các thể loại văn khác. Chính vì thế, điểm các bài kiểm tra và
điểm trung bình môn văn của các em còn thấp. Thực tế đó qủa là đáng lo ngại.
Thực trạng vấn đề này ra sao? Vì sao học sinh gặp nhiều khó khăn trong việc
làm văn biểu cảm? Cần phải làm gì để nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu
cảm cho học sinh THCS? Đó là những vấn đề tôi trăn trở,khiến tôi nhanh chóng
thực hiện đề tài này.
1/19
Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu: “Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm
cho học sinh THCS”
1.1: Văn biểu cảm là loại văn thể hiện nội tâm, tâm trạng của người viết.
Ngồi trước trang giấy, nếu tâm hồn trống rỗng không cảm xúc, đầu óc mông
lung không rõ ý nghĩ gì thì người viết không thể có được một bài văn biểu cảm
có hồn. Lúc đó, bài văn hoặc khô khan, nhạt nhẽo, ngắn ngủi hoặc giả tạo, vay
tình mượn ý. Người giáo viên, khi dạy văn THCS nói chung, dạy văn biểu cảm
nói riêng, ngoài nắm kiến thức, phương pháp lên lớp còn cần có một tâm hồn,
một trái tim sống cùng tác giả, tác phẩm.
1.2: Để dạy và học tốt văn biểu cảm ở THCS, người dạy và người học cần
nắm vững hệ thống 6 bài học và luyện tập về văn biểu cảm (trong số 14 tiết học
văn biểu cảm ở lớp 7 – học kì I ) gồm :
- Tìm hiểu chung về văn biểu cảm
- Đặc điểm của văn biểu cảm
- Đề văn biểu cảm và cách làm bài văn biểu cảm
- Cách lập ý của bài văn biểu cảm
- Các yếu tố tự sự và miêu tả trong văn biểu cảm
- Cách làm bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học
2. Thực trạng thực tế khi chưa thực hiện đề tài:
Qua nhiều năm giảng dạy chương trình ngữ văn lớp 7, tôi nhận thấy kĩ
năng nhận diện các phương thức biểu đạt trong văn bản, kĩ năng viết, bộc lộ cảm
xúc trong bài tập làm văn của một bộ phận học sinh còn yếu .
Năm học 2015 – 2016, khi viết bài tập làm văn số 2 với đề bài “Loài cây
em yêu”. Dù mới vừa học và hình thành kĩ năng tạo lập văn bản biểu cảm xong
nhưng nhiều học sinh không phân biệt được văn miêu tả, văn tự sự với văn biểu
cảm nên bài viết không viết về thái độ và tình cảm của mình đối với một loài
cây cụ thể mà tả, kể về loài cây đó. Hoặc tiết viết bài tập làm văn số 3 đề yêu
cầu “Cảm nghĩ của em về hình ảnh người bà thân yêu của mình”. Học sinh viết
“Bà nội hay thức khuya dậy sớm để làm việc mà tối nội chưa làm. Bà thường đi
làm thuê để kiếm tiền nuôi chúng em. Em thấy vậy bảo bà nội hay là nội đừng đi
làm thuê nữa, nội chuyển sang nấu xôi đi. Nội suy nghĩ một hồi lâu rồi nói, đó
cũng là một ý kiến hay”. Đoạn văn viết về người bà thân yêu của mình mà người
đọc cảm thấy như viết về một người xa lạ vì không hề có một tình cảm nào của
cháu với bà hơn nữa hầu như đó chỉ là kể. Cũng với đề văn như trên, một học
2/19
Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS
sinh khác viết câu kết bài :“Cảm nghĩ của em về bà là một người bà yêu mến
con cháu”. Câu văn nêu rõ cảm nhận về bà nhưng gượng ép khô khan. Có lẽ với
cách viết văn như nghĩa vụ nên làm qua loa cho xong rồi đem nộp. Kể cả học
sinh khá, dù cảm và hiểu được yêu cầu của đề, xác định đúng hướng làm bài
nhưng kể vẫn nhiều hơn biểu cảm. Sau đây là bảng số liệu thống kê điểm trung
bình môn văn học kì I khối 7 năm học 2015 – 2016
Tỉ lệ học sinh Tỉ lệ học sinh Tỉ lệ học sinh Tỉ lệ học sinh Tỉ lệ học sinh
giỏi
khá
trung bình
yếu
kém
10%
70%
20%
0%
0%
*Nguyên nhân
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên thì có nhiều song theo tôi, do một số
nguyên nhân chủ yếu sau :
- Đối với người dạy
+ Đa số giáo viên đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm
đến học sinh nhưng vẫn còn những mặt hạn chế sau:
+ Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không
nhỏ học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao.
+ Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương
pháp trực quan vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của
học sinh.
+ Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được
mạch nguồn cảm xúc ẩn sau mỗi trái học sinh.
+ Do sĩ số lớp đông nên rất khó cho giáo viên trong việc theo sát, kèm cặp
từng học sinh trong một tiết dạy.
+ Giáo viên chỉ nặng về giảng lý thuyết không đầu tư cho các tiết thực hành
như luyện tập, luyện nói…, không chịu khó sưu tầm các đoạn văn, bài văn hay
cho các em tham khảo.
+ Nhiều giáo viên cho học sinh chép nhiều gây nhàm chán cho học sinh.
- Đối với học sinh
+ Một số học sinh vì lười học, chán học nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho
giờ học văn.
+ Vì bố mẹ bận công việc chưa bám sát tốt thời gian tự học của các con.
+ Đa số các em lười hoặc không bao giờ đọc sách, kể cả văn bản trong
SGK.
3/19
Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS
+ Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí
như xem ti vi, chơi game . . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức
học bị lôi cuốn, xao nhãng việc học .
3. Các biện pháp thực hiện:
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng đánh giá rất cao lứa tuổi học sinh trong
nhà trường như sau “Lứa tuổi từ 7 đến 17 là rất nhạy cảm, thông minh lạ lùng
lắm”. Đúng như vậy các em không phải không có khả năng cảm nhận và biểu
hiện đạt những cảm nhận ấy mà là do các em chưa biết cách. Là giáo viên dạy
văn tôi thiết nghĩ mình có nhiệm vụ giúp học sinh thể hiện sự nhạy cảm, thông
minh ấy. Từ thực tế giảng dạy, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp trong việc
rèn kỹ năng làm văn biểu cảm để nâng cao chất lượng dạy học văn biểu cảm ở
bậc THCS như sau :
3.1: Đối với giáo viên
Ngoài một số phương pháp tích cực trong dạy học phân môn tập làm văn như
phương pháp dạy tập làm văn thông qua hoạt động, phương pháp trực quan,
hình thức vấn đáp, thảo luận, tự học . . .Giáo viên cần vận dụng sáng tạo một số
phương pháp khác như phương pháp đóng vai, phương pháp sử dụng trò chơi
học tập… Và theo tôi chúng ta khi dạy văn biểu cảm cho học sinh cần:
* Dù dạy văn biểu cảm về sự vật và con người hay văn biểu cảm về tác
phẩm văn học, giáo viên luôn phải định hướng và hướng dẫn các em nắm
vững quy trình để làm một bài văn biểu cảm tốt. Quy trình đó bao gồm :
a.Tìm hiểu đề và tìm ý
Tìm hiểu đề
Một đề bài thường ra dưới dạng khái quát nhằm thích hợp với tất cả đối tượng
học sinh. Do đó, quá trình tìm hiểu đề bài sẽ diễn ra như một hoạt động nhằm cá
thể hóa đề bài cho từng học sinh kết quả của quá trình này là mỗi học sinh có
một đề bài cho riêng mình. Trong đề bài văn biểu cảm, giáo viên cần định hướng
cho các em tìm hiểu đề bằng cách tìm ra lời giải cho các câu hỏi sau :
- Em định phát biểu cảm nghĩ, tình cảm, mong muốn về đồ vật (con vật ,
loài cây, cảnh vật . . .)nào? Về người nào? Về tác phẩm nào ?
- Em viết bài biểu cảm đó nhằm mục đích gì?(giãi bày cảm xúc, tình cảm
nào?)
- Em viết bài biểu cảm đó để ai đọc(cô giáo, thầy giáo, bố mẹ, bạn bè. . .)?
4/19
Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS
Lời giải đáp cho ba câu hỏi trên sẽ quyết định nội dung bài viết (trình bày cảm
xúc gì ?), giọng điệu bài viết (viết cho bạn bè phải là giọng văn thân mật, có thể
suồng sã; còn viết cho thầy cô hoặc bố mẹ phải thân thiết nhưng nghiêm trang )
Tìm ý
Giáo viên chỉ ra cho học sinh cách đi tìm ý như sau: Tìm ý cho bài văn biểu
cảm chính là tìm cảm xúc, tìm những ý nghĩ và tình cảm để diễn đạt thành nội
dung của bài. Ý nghĩ, cảm xúc, tình cảm muôn màu muôn vẻ trong các bài văn
biểu cảm đều bắt nguồn từ việc quan sát cuộc sống xung quanh, từ những gì
người viết đã sống và trải qua, đã tiếp xúc trong tác phẩm. Vì thế, muốn tìm ý
cho bài văn biểu cảm không phải cứ ngồi một chỗ mà đợi ý nghĩ, cảm xúc đến.
Sau khi có một đề bài, hãy quan sát kĩ đối tượng đề bài nêu ra để từ đó, cảm xúc
xuất hiện. Nếu không có điều kiện quan sát trực tiếp, hãy lục lọi trong trí nhớ,
trong kỉ niệm những gì mình biết về đối tượng và từ từ nhớ lại các chi tiết. Nếu
cả kỉ niệm trong kí ức cũng không có thì tìm đọc sách báo, xem phim ảnh về đối
tượng để ghi nhận các chi tiết cần thiết.
Đối với văn biểu cảm về tác phẩm văn học, cảm xúc và suy nghĩ về tác
phẩm văn học được nảy sinh từ bản thân tác phẩm. Tìm ý trong trường hợp này
chính là đọc kĩ ,đọc đi đọc lại nhiều lần tác phẩm, ngẫm nghĩ tìm ra vẻ đẹp, tìm
ra triết lí của nội dung, tìm ra cái mới, cái độc đáo của các yếu tố hình thức nghệ
thuật.
b. Lập dàn ý
Bài văn biểu cảm cũng có kết cấu ba phần (mở bài, thân bài, kết bài ) như
các kiểu văn bản khác. Mở bài nhằm giới thiệu đối tượng và cảm xúc chính về
đối tượng. Phần thân bài là sự phát triển các cảm xúc chính đã nêu ra ở phần mở
bài. Phần kết bài khép lại các ý đã trình bày.
c. Viết bài
Viết bài văn biểu cảm là việc viết các đoạn văn và nối chúng với nhau, tạo
thành chỉnh thể thống nhất. Khi viết bài cần thực hành thành thạo kĩ năng hành
văn, đặt câu, sử dụng từ, chọn giọng điệu, cách bộc lộ cảm xúc phù hợp. Khi
viết bài, kết nối các đoạn trong bài văn biểu cảm cần chú ý đến lôgíc phát triển
của cảm xúc, của tình cảm. Theo lôgíc này, mỗi đoạn trong bài đều phải hướng
vào làm nổi rõ lên cảm xúc chính, tình cảm chính.
d. Sửa bài
Đa số học sinh khi làm bài không biết cách phân phối thời gian hợp lí nên
viết xong là nộp bài, thậm chí hết thời gian nhưng vẫn chưa làm xong bài. Do
5/19
Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS
đó, khâu tự sửa bài sau khi viết không được coi trọng. GV cần nhắc nhở các em
chú trọng hơn đến việc sửa bài trước khi nộp.
Như vậy: Để dạy tốt văn biểu cảm, giáo viên nên chú ý trước tiên đến việc
đổi mới cách ra đề. Từ đề tài chung cho cả lớp (có tính định hướng chung), phải
thực hiện quá trình cá thể hóa đề bài (quá trình hướng dẫn mỗi học sinh đi từ đề
tài chung cho cả lớp đến việc xác định đề bài riêng, đề bài cụ thể phù hợp với
vốn sống, với tình cảm, cảm xúc riêng của mỗi học sinh). Một lí luận sư phạm
tôi đã rút ra được trong quá trình giảng dạy, đó là: Giáo viên không được bắt học
sinh viết bài văn biểu cảm về đề tài các em chưa được sống, chưa có hiểu biết,
có cảm xúc nếu giáo viên muốn học sinh làm tốt yêu cầu mình đưa ra.
Khi chấm bài làm văn biểu cảm của học sinh, giáo viên nên coi trọng tính cá
biệt, sự độc đáo trong suy nghĩ, rung động có trong nội dung hơn là độ dài của
bài. Nếu bài văn biểu cảm của các em chỉ cần có được một, hai cảm nhận hoặc
một, hai nội dung có sắc thái tình cảm riêng, các thầy cô giáo nên trân trọng,
biểu dương và tỏ thái độ đánh giá cao qua cách cho điểm.
Giáo viên cần hướng dẫn, khuyến khích và khuyến khích hơn nữa việc học
sinh đọc sách, bắt đầu từ việc đọc các văn bản trong SGK. Thực tế cho thấy học
sinh rất lười đọc sách dẫn đến đọc yếu, gây khó khăn cho việc cảm thụ văn bản.
Chính vì thế, giáo viên cần khơi nguồn và nuôi dưỡng thói quen đọc sách của
học sinh bằng cách: trong mỗi tiết dạy giáo viên lấy dẫn chứng, ví dụ, trích các
câu nói, đoạn thơ, đoạn văn hay từ các sách tham khảo, sách nâng cao, các tác
phẩm văn học và cho các em trực tiếp nhìn thấy. Khi giáo viên làm được như
thế, không cần phải “Khua chiêng gõ mõ”, tự các em sẽ tìm đến với sách, làm
bạn với sách. Khi bồi dưỡng học sinh năng khiếu văn, tôi phát hiện thấy học
sinh thích dùng sách theo cô giáo, có lẽ là mong có tài liệu để làm đúng ý cô.
Tôi đã cất công đến hiệu sách và tìm sách để đọc qua có tính chất “thẩm định
sách ” tôi cung cấp cho các em sách nào tốt hợp với các em, tôi cũng dùng để
khuyến khích các em đọc. Tôi thấy cách này cũng có hiệu quả vì học sinh của
tôi đã thích mua sách tìm sách để đọc.
Một học sinh muốn học tốt văn biểu cảm cần phải có kĩ năng diễn đạt trôi
chảy, hấp dẫn. Giáo viên nên giao các bài tập rèn viết ở nhà cho học sinh sau
mỗi tiết học. Đặc biệt, giáo viên nên hướng dẫn các em cách viết nhật kí để giúp
các em nuôi dưỡng tình cảm đẹp khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
6/19
Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS
* Giáo viên hướng dẫn cho học sinh biết cách tạo cảm xúc khi làm văn
biểu cảm:
Văn là cuộc sống, vì thế muốn có cảm xúc để viết văn biểu thì cần có cảm
xúc với chính cuộc sống đời thường xung quanh chúng ta. Giáo viên nên khơi
gợi cảm xúc của học sinh bằng cách nói chuyện gợi cho các em có cơ hội nói lên
em thấy thế nào trước vật ấy, người ấy, sự việc ấy? Ví dụ khi biểu cảm về loài
cây tôi thường hỏi các em thích cây nào? Vì sao em thích, vì sao em không
thích? Nếu các em không trả lờí được tôi sẽ gợi ý cho các em: vẻ đẹp lơi ích , kỉ
niệm gắn bó….với cây đó. Từ đó để các em nảy sinh tình cảm tích cực về các
loài cây. Khi biểu cảm về người tôi hỏi các em ở khu chúng ta hiện nay có rất
nhiều người lang thang và có vấn đề về thần kinh các em nghĩ gì khi gặp họ?
Các em nói: sợ họ, ghét họ, thấy ghê tởm, thấy thương họ…. Tôi nói tiếp các em
thử nghĩ nếu những người ấy là bố mẹ, cô dì, chú bác, anh em mình thì sao? Các
em nghĩ một lát rồi đều nói là thương họ. Tôi cũng nói cho các em biết hàng
ngày khi gặp họ tôi đã nghĩ gì cảm thấy thế nào, muốn làm gì. Tôi cảm nhận sau
khi chia sẻ các em nảy sinh tình cảm rất tích cực. Hoặc trước khi viết bài về mẹ
tôi đã chia sẻ cảm xúc của tôi khi mẹ mình mắc bệnh nan y và những cảm xúc
của mình khi mẹ qua đời… Tất cả những chia sẻ ấy đã có ích rất nhiều trong
việc khơi gợi, nuôi dưỡng cảm xúc của học sinh. Giáo viên chỉ cho học sinh
thấy tất cả mọi thứ quen thuộc đôi khi ta không lắng lòng cảm nhận ta sẽ quên
mất nó và vô cảm với nó rồi dần dần trái tim sẽ chai sạn, khô cằn. Biết nuôi cảm
xúc là cách hiệu quả để có thể làm tốt văn biểu cảm.
* Giáo viên hướng dẫn cho học sinh biết cách thể hiện cảm xúc khi làm
văn biểu cảm:
- Biểu cảm trực tiếp:
Biểu cảm trực tiếp là cách diễn đạt tình cảm, cảm xúc, ý nghĩ của người viết
một cách rõ ràng bằng các từ ngữ, câu chữ chứ không phải thông qua các hình
thức biểu hiện khác. Đây là cách dùng phổ biến trong văn biểu cảm. Học sinh
vận dụng cách biểu cảm trực tiếp vào bài viết cũng dễ dàng hơn hình thức biểu
cảm gián tiếp vì nó dễ nhận biết, dễ thực hiện và dễ tác động một cách trực tiếp
đến tình cảm của người đọc. Nhưng nếu vận dụng không khéo, bài viết của các
em dễ rơi vào tình trạng giả tạo, gượng ép, sáo mòn, gây phản cảm cho người
đọc. Vì thế khi viết bài các em cần chú ý kĩ năng vận dụng cách tạo cảm xúc sao
cho tự nhiên, chân thực. Hình thức biểu cảm trực tiếp thường sử dụng các cách
tạo cảm xúc sau:
7/19
Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS
+ Sử dụng từ ngữ biểu cảm:
• Sử dụng những động từ chỉ cảm xúc, trạng thái tình cảm của con
người:
Ví dụ: “Tôi phập phồng cùng những nụ hoa đang bắt đầu hé nở. Tôi mê
mẩn trước những bông hoa đang tỏa bừng rực rỡ. Tôi ngây ngất trước những hàng
hoa đang lặng lẽ đưa hương, như muốn ủ vào đất, ướp lên trời, như muốn len vào
hồn người. Tôi ngạc nhiên cùng mảnh đất ấy, âm thầm và lặng lẽ, giản dị và lớn
lao, suốt đời đất ở dưới chân người bất ngờ bung lên tỏa bao sắc màu…”
( Trích Loài hoa tôi yêu – Hạ Huyền )
Nhận xét: Trong đoạn văn trên để bộc lộ cảm xúc của mình về các loài hoa, tác
giả sử dụng những động từ chỉ trạng thái cảm xúc một cách tự nhiên say mê.
• Sử dụng từ ngữ gợi hình, gợi cảm, đặc biệt từ tượng thanh, tượng hình:
Ví dụ: “Hằng năm, cứ vào cữ hạ sớm này, người Hà Nội lại được hưởng
những cơn mưa lá sấu vang ào ạt rơi trong hương sấu dìu dịu thơm thơm.
Hương lá sấu dịu dàng, ướp cả bầu không khí tinh khôi khiến ta muốn hít thật
sâu cho căng tràn lồng ngực... Những mảng hoa hình sao màu trắng chao
nghiêng trong gió, đậu xuống mái tóc các cô gái lấm tấm khắp cả mặt đường…”
( Tạ Việt Anh )
Nhận xét: Trong đoạn văn trên để bộc lộ cảm xúc của mình về cây sấu, hoa sấu,
mùi hương của hoa tác giả sử dụng những từ láy gợi tình yêu, sự gắn bó với cây
sấu Hà Nội. Qua đó bộc lộ tình yêu của Hà Nội của người viết.
+ Dùng từ cảm thán, câu cảm thán:
Ví dụ: “ Bố ơi! Bố chữa làm sao được lành lặn đôi bàn chân ấy: đôi bàn chân
dầm sương dãi nắng đã thành bệnh”
( Tuổi thơ im lặng – Duy Khán )
Ví dụ: “ Quê tôi lắm nằng nhiều mưa… Chao ôi! Sức sống của cây cau sao
mà bền bỉ, mãnh liệt như vậy!”
Nhận xét: Trong hai ví dụ trên tác giả bộc lộ cảm xúc trực tiếp bằng từ cảm thán
và câu cảm thán.
- Biểu cảm gián tiếp:
Là cách biểu đạt tình cảm, cảm xúc, ý nghĩ của người viết thông qua các hình
thức biểu hiện khác như dùng biện pháp tu từ ẩn dụ, tượng trưng… Ngoài ra
cũng có thể diến đạt qua cảnh vật, con người có liên quan đến cảm nghĩ; trong
trường hợp này họ thường sử dụng yếu tố từ sự, miêu tả để khêu gợi cảm xúc.
8/19
Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS
+ Dùng biện pháp tu từ ẩn dụ tượng trưng:
Ví dụ: “ Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy, nên thành tre ơi? (…)
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho con ”
( Tre Việt Nam – Nguyễn Duy )
Nhận xét: Nhà thơ Nguyễn Duy đã lấy cây tre làm hình ảnh ẩn dụ để thể hiện
cảm nghĩ về con người Việt Nam. Bằng cách này tác giả tạo ra hai lớp nghĩa cho
bài thơ: ca ngợi đặc điểm của cây tre, ca ngợi phẩm chất của con người Việt
Nam kiên cường bất khuất nhưng giàu lòng yêu thương, đùm bọc, nhân hậu.
+ Dùng yếu tố tự sự, miêu tả:
Yếu tố miêu tả:
Ví dụ: “ Những ngón chân của bố khum khum, lúc nào cũng như bám vào đất để
khỏi trơn ngã. Người ta nói “Đấy là bàn chân vất vả”. Gan bàn chân bao giờ
cũng xám xịt và lỗ rỗ, bao giờ cũng khuyết một miếng, không đầy đặn như gan
bàn chân người khác. Mu bàn chân mốc trắng, bong da từng bãi, lại có nốt lấm
tấm….”
(Tuổi thơ im lặng- Duy Khán)
Nhận xét: Qua việc miêu tả bàn chân của bố, tác giả đã thể hiện lòng thương
cảm, thấu hiểu sự vất vả, nhọc nhằn của bố. Tác giả đã truyền đến người đọc
tình yêu với người cha sâu sắc.
Yếu tố tự sự:
Ví dụ: “Bố đi chân đất. Bố đi ngang dọc đông tây đâu đâu con không hiểu. Con
chỉ thấy ngày nào bố cũng ngâm chân xuống nước, xuống bùn để câu quăng. Bố
tất bật đi từ khi sương còn đẫm cành cây, ngọn cỏ. Khi bố về cũng là lúc cây cỏ
đẫm sương đêm…”
(Tuổi thơ im lặng- Duy Khán)
Nhận xét: Đoạn văn đã kể lại những việc bố làm nhưng không nhằm mục đích
để kể mà để thể hiện tình cảm của con với bố.
Như vậy các yếu tố miêu tả, tự sự có tác dụng là phương tiện khơi gợi cảm xúc,
làm cho cảm xúc được thăng hoa.
+ Dùng câu hỏi tu từ và các biện pháp nghệ thuật khác:
9/19
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
skkn_ren_ky_nang_lam_van_bieu_cam_cho_hoc_sinh_thcs.doc