SKKN Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh Lớp 2

Không biết từ bao giờ, trải qua hàng ngàn tiến hóa của loài người, ngôi ngữ nói có tác dụng sơ khai là trao đổi thông tin và đóng vai trò biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lí và là một yếu tố quan trọng để biểu lộ văn hóa, tính cách con người. Việc Giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được Ông cha ta rất coi trọng: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”.
PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO QUẬN THANH XUÂN  
------------  
Mã SKKN  
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM  
ĐỀ TÀI:  
RÈN KĨ NĂNG NÓI TRONG GIỜ DẠY TIẾNG VIỆT  
CHO HỌC SINH LỚP 2  
Lĩnh vực/ Môn : Tiếng Việt  
Năm học 2015-2016  
Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2.  
A. ĐẶT VẤN ĐỀ|:  
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:  
1. Cơ sở luận:  
Không biết từ bao giờ, trải qua hàng ngàn tiến hóa của loài người, ngôi  
ngữ nói có tác dụng sơ khai là trao đổi thông tin và đóng vai trò biểu hiện tình  
cảm, trạng thái tâm lí và là một yếu tố quan trọng để biểu lộ văn hóa, tính cách  
con người. Việc Giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được Ông cha ta rất  
coi trọng: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”.  
Bên cạnh đó, với trẻ em, đây lứa tuổi đang dần hình thành nhân cách.  
Chính vì vậy, ngay từ khi các em còn rất nhỏ chúng ta đã chú trọng: “Trlên ba,  
cả nhà học nói”.  
Mặt khác, như chúng ta đều biết, ngay từ những ngày đầu tiên trẻ cắp sách  
tới trường, trẻ đã được giáo dục đạo đức, giáo dục ăn nói lễ phép theo phương  
châm “Tiên học lễ, hậu học văn”. Do vậy, từ các lớp đầu cấp Tiểu học chúng ta  
cần rèn cho trẻ biết nói năng lễ phép, lịch sự, biết nói lời biểu cảm trong giao  
tiếp. Không những thế mà chúng ta cần rèn cho trẻ mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp  
với mọi người và khi nói trước tập thể đông người.  
Ngày xưa, ông bà ta rất coi trọng việc giao tiếp, ngôn ngữ, lời nói là trao  
đổi thông tin, đóng vai trò biểu hiện tình cảm, qua lời nói thể hiện văn hóa, tính  
nết của con người. Do vậy cần phải giáo dục, rèn luyện lời nói của các em ngay  
từ nhỏ, từ các lớp đầu cấp Tiểu học để sau này các em có thói quen cư xử đúng  
mực, lịch sự trong khi giao tiếp.  
Việc giáo dục lời nói từ xa xưa ông bà ta rất chú trọng. Ông cha ta thường  
dạy con, cháu qua các câu ca dao, tục ngữ như:  
“Học ăn, học nói, học gói, học mở”  
“Lời nói không mất tiền mua  
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.  
Hay câu:  
“Chim khôn kêu tiếng rảnh rang  
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”.  
1
Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2.  
Ngoài ra, việc giao tiếp ứng xử khéo léo cũng giúp ta thành công trong  
nhiều lĩnh vực và trong công việc.  
2. Cơ sở thực tiễn:  
Trong những năm qua, trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy học,  
dạy Tiếng Việt không chỉ dạy cho các em kĩ năng đọc, viết, nghe mà điều quan  
trọng dạy các em sử dụng lời nói tình cảm trong giao tiếp. Nếu một người đọc  
thông, viết thạo tất cả các văn bản, có tài, có trình độ song khi nói trước tập thể  
thì sợ sệt, nhút nhát hoặc khi giao tiếp không gây được tình cảm, mối thân thiện  
với mọi người, để lại ấn tượng không tốt thì người đó khó mà thành công trong  
công việc.  
Chính vì vậy, để sau này lớn lên các em có một nhân cách tốt, biết nói  
năng lễ phép, lịch sự, biết nói lời biểu cảm trong giao tiếp mạnh dạn khi giao  
tiếp với mọi người xung quanh thì ngay từ các lớp đầu cấp của Tiểu học chúng  
ta cần rèn cho học sinh kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng việt điều rất quan  
trọng mà chúng ta cần phải thực hiện.  
Hiện nay chúng ta đang thực hiện đổi mới phương pháp dạy học lấy  
học sinh làm trung tâm, phát huy tính sáng tạo, tích cực học tập của học sinh.  
Theo tôi mon Tiếng Việt là môn học rất cần phải tạo điều kiện cho học sinh tự  
giác trong luyện tập để rút kinh nghiệm, tự chiếm lĩnh kiến thức qua thực hành  
dưới sự chỉ dẫn, điều hành của giáo viên. Một thực tế cho thấy hiện nay rất  
nhiều học sinh, sinh viên ra trường, có trình độ năng lực trong kĩ năng giao tiếp,  
thuyết trình, phát biểu trước đám đông lại rất khó khăn. vậy theo tôi nhận  
thấy “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2” là điều hết  
sức cần thiết và quan trọng.  
Căn cứ vào thực tế lớp 2 tôi đang dạy, các em cũng gặp những khó khăn  
nhất định vngôn ngữ giao tiếp như đã nêu trên. Chính vì vậy ý thức được vai  
trò của việc sử dụng ngôn ngữ biểu cảm trong giao tiếp, bản thân đã lựa chọn và  
nghiên cứu những kinh nghiệm giảng dạy môn Tiếng Việt qua việc “Rèn kĩ  
năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2” làm đề tài sáng kiến  
kinh nghiệm của mình.  
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:  
Trước hết, bản thân tìm ra những biện pháp phù hợp nhằm giúp trẻ: Mạnh  
dạn hơn trong giao tiếp, tiếp đó là rèn cho học sinh những kĩ năng, thói quen  
dùng lời nói biểu cảm trong giao tiếp, cũng như sự bày tỏ quan điểm nhận thức  
2
Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2.  
của bản thân, trước những vấn đề bản thân các em phải tự bộc lộ qua những  
lời nói, lời phát biểu trả lời theo nội dung bài học sự giao tiếp với mọi người  
xung quanh ở trường, ở lớp.  
III. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU:  
Nghiên cứu về khả năng nói của học sinh lớp 2 trong phạm vi khối 2.  
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:  
Ngoài việc học hỏi những kinh nghiệm của đồng nghiệp bản thân còn sử  
dụng những phương pháp sau:  
* Phương pháp quan sát:  
Quan sát việc thực hành luyện noi của học sinh trong tất cả các tiết học  
Tiếng Việt ở trên lớp, quan sát lời nói của học sinh với bạn bè và mọi người  
xung quanh ở mọi nơi, mọi lúc.  
* Phương pháp phân tích tổng hợp:  
Sử dụng phương pháp này nhằm theo dõi khả năng luyện nói, giao tiếp  
của học sinh, từ đó thu thập xử những thông tin để phân tích, tổng hợp. Với  
việc làm như vậy sẽ đánh giá, nhận xét học sinh một cách sát thực cụ thể hơn.  
* Phương pháp thực hành luyện tập:  
Sử dụng phương pháp này giúp học sinh thường xuyên được thực hành  
luyện nói trong tất cả các tiết học Tiếng Việt. Rèn cho các em kĩ năng nói trôi  
chảy, mạch lạc, lời nói thể hiện tình cảm lịch sự.  
V. KHÁCH THỂ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:  
Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 2.  
Nội dung nghiên cứu: Khả năng diễn đạt và dùng từ ngữ của học sinh.  
VI. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:  
Nghiên cứu thực trạng hiện nay trẻ lớp 2 có kiến thức và ý thức như thế  
nào trong giao tiếp hằng ngày, những quan điểm, nhận thức trẻ bộc lộ lời  
nói, lời phát biểu, trả lời nội dung bài học sự giao tiếp với bạn bè, thầy ở  
trường và giao tiếp với mọi người xung quanh.  
Bản thân đưa ra những giải pháp nhằm rèn luyện cho các em kĩ năng sử  
dụng từ ngữ đúng nhằm phát triển khả năng diễn đạt của các em.  
3
Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2.  
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:  
I. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ.  
1. Đặc điểm tâm lí học sinh:  
- Tất cả chúng ta đều biết, ở lứa tuổi Tiểu học tư duy của trẻ đang trong  
thời kỳ phát triển nên trẻ rất nhạy cảm, nhất đối với học sinh khối 1, 2 các em  
mau nhớ nhưng cũng dễ quên. Vì vậy, đòi hỏi thầy phải tìm ra những phương  
pháp mới cho học sinh hứng thú trong học tập phải thường xuyên được luyện  
tập.  
- Ngoài ra, các em rất dễ xúc động và thích tiếp xúc với sự vật, hiện tượng  
nào đó nhất những hình ảnh gây cảm xúc mạnh.  
- Bên cạnh đó, trẻ rất hiếu động, ham hiểu biết cái mới nên dễ gây cảm  
xúc mới nên các em chóng chán nản. Do vậy, trong quá trình dạy học người thầy  
phải sử dụng nhiều đồ dùng dạy học, tổ chức các trò chơi xen kẽ…để giúp học  
sinh bớt nhàm chán.  
2. Thực trạng ngôn ngữ của lớp 2:  
Nhóm 1: Nhóm học sinh có lời nói lưu loát, mạch lạc, khi giao tiếp biết  
thể hiện lời nói biểu cảm, lịch sự. Những học sinh này tôi phân làm nhóm  
trưởng, những nhân vật nòng cốt trong các tiểu phẩm của các tiết Tiếng Việt mà  
học sinh rèn luyện kĩ năng nói trên lớp. Những em này là người dẫn chương  
trình trong các giờ luyện nói trên lớp.  
Nhóm 2: Nhóm học sinh có lời nói tương đối rõ ràng, trôi chảy, lịch sự  
nhưng chưa thể hiện được lời nói tình cảm trong giao tiếp.  
Nhóm 3: Nhóm học sinh nhút nhát, ngại giao tiếp, khả năng giao tiếp  
kém, ít khi sử dụng lời nói lịch sự, tình cảm trong giao tiếp, nói năng chưa rõ  
ràng, chưa diễn đạt trọn ý, trọn câu. Chưa mạnh dạn, tự tin, nhút nhát khi giao  
tiếp. Sua khi quan sát theo dõi khả năng giao tiếp của học sinh, tôi thống chất  
lượng đầu năm như sau:  
4
Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2.  
Bảng thống khả năng nói, giao tiếp của học sinh lớp 2 đầu năm học  
2015-2016. Tổng số học sinh: 56 em  
Khả năng  
Nói tốt  
Số học sinh  
20 HS  
Tỷ lệ %  
35%  
Tạm được  
Chưa được  
20 HS  
35%  
16 HS  
30%  
Sau khi nắm được đặc điểm cũng như khả năng giao tiếp của từng học  
sinh bản thân tiến hành sắp xếp chỗ ngồi của học sinh sao cho phù hợp. Học  
sinh được phân bố đều khắp 3 đối tượng nói trên vào các nhóm, các tổ ngồi  
hợp lí theo từng bàn.  
Trong các giờ học luyện nói của môn Tiếng Việt bản thân hướng dẫn các  
em giúp đỡ lần nhau trong quá trình học tập. Những em mạnh dạn, nói lưu loát,  
lời nói biểu cảm trong giao tiếp giúp đỡ những em nhút nhát, giao tiếp kém,  
ngại giao tiếp dần dần mạnh dạn hơn trong giao tiếp biết nói năng lịch sự,  
tình cảm khi giao tiếp. Từ đó rèn cho các em có lời nói lưu loát, mạch lạc. Sự  
giúp đỡ, cổ vũ, động viên của các bạn trong tổ, trong nhóm giúp các em nạnh  
dạn, năng động tự tin hơn trong quá trình rèn nói và trước lời phát biểu của  
mình. Tạo cho các em sự hưng phấn cố gắng nhiều trong học tập. Các em sẽ  
thi đua học cho bằng bạn. Đây việc làm hết sức bổ ích và đem lại kết quả tốt.  
Như chúng ta đã biết: “Học thầy không tày học bạn”.  
Khi các em nhút nhát, giao tiếp kém có sự tiến bộ tôi sẽ phân cho các em  
đó làm nhóm trưởng trong các giờ học luyện nói của môn Tiếng Việt. Để các em  
phát huy được khả năng của mình, mạnh dạn nói trước tập thể biết nói biểu  
cảm và nói lịch sự.  
II. CÁC PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN:  
1. Phương pháp quan sát:  
Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu giáo dục. Nhằm  
quan sát giờ dạy của giáo viên và việc học tập của học sinh trên lớp. Đánh giá  
kết quả học tập của học sinh thông qua những lời phát biểu của học sinh trong  
5
Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2.  
giờ luyện nói của mỗi tiết học, qua lời nói của học sinh với mọi người xung  
quanh mọi nơi, mọi lúc, qua các bài tập thực hành trong vở bài tập Tiếng Việt.  
Biện pháp thực hiện: Ngoài những sổ sách của nhà trường qui định, bản  
thân còn có thêm một quyển sổ ghi chép những điều quan sát, nhận xét cho từng  
học sinh trong lớp. Đó cuốn sổ “Theo dõi đánh giá hành vi học sinh”. Trong  
cuốn sổ này, bản thân ghi chép những hành vi, lời nói giao tiếp, những thói quen  
tốt cả những điểm còn khiếm khuyết của học sinh để từ đó có cái nhìn khái  
quát về việc sử dụng vốn ngôn ngữ biểu cảm của học sinh, và dễ dàng phân loại  
khả năng giao tiếp của mỗi học sinh trong lớp, sau đó lập kế hoạch bồi dưỡng  
nâng cao đói với học sinh giỏi luyện kĩ năng nói sao cho đạt đến trình độ  
chuẩn đối với học sinh khá và học sinh trung bình.  
Sau khi phân loại học sinh tôi chọn lọc những câu hỏi, câu gợi mở sao cho  
phù hợp với từng đối tượng học sinh, để các em phát huy hết khả năng giao tiếp  
của mình trong phần luyện nói trong môn Tiếng Việt cũng như các môn khác  
trong chương trình.  
2. Phương pháp phân tích – tổng hợp:  
Từ phương phá quan sát, thu thập được những thông tin, tôi đã xử lí  
những thông tin ấy bằng cách phân tích, tổng hợp với những biện pháp thực hiện  
như sau:  
Tôi tiến hành phân chia học sinh theo nhiều nhóm trình độ khác nhau. Em  
thay phiên nhau làm nhóm trưởng để các em phát huy hết năng lực của mình.  
Bên cạnh đó, tôi thường xuyên khen ngợi, tuyên dương và có những phần  
thưởng nho nhỏ như cái bút, quyển vở để động viên khuyến khích cho những em  
sự tiến bộ. Còn những em chưa tiến bộ tôi không phê bình các em mà bản  
thân động viên, giúp đỡ và áp dụng mọi biện pháp hợp nhất để giúp các em  
tiến bộ dần trong khi luyện nói và giao tiếp.  
Sau khi áp dụng biện pháp này bản thân thấy các em tiến bộ rệt. Những  
em giỏi đã phát huy hết được vai trò của mình. Những em yếu, kém mạnh dạn  
hơn trong giao tiếp, biết nói năng lịch sự, lời nói biểu cảm trong khi giao tiếp.  
6
Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2.  
3. Phương pháp thực hành luyện tập:  
một phương pháp chính giúp các em được thường xuyên thực hành  
luyện nói trong tất cả các tiết học Tiếng Việt. Nhờ đó, khả năng giao tiếp các em  
ngày được nâng cao và hoàn thiện hơn. Rèn cho các em nói sao cho trôi chảy,  
mạch lạc, lời nói thể hiện tình cảm lịch sự.  
Biện pháp thực hiện:  
Học sinh được rèn kĩ năng nói qua các bài tập thực hành trong SGK Tiếng  
Việt 2.  
* Bài tập rèn luyện cho học sinh phát âm theo chuẩn.  
Loại bài tập này tôi thường chú ý đến những đối tượng học sinh phát âm  
chưa chuẩn các tiếng, từ khó trong phần rèn đọc từ khó của phân môn Tập Đọc  
ở tiết 1.  
Rèn cho các em phát âm chưa chuẩn, các em biết phát âm chuẩn, chính  
xác từ đó các em đủ tự tin phát biểu ý kiến lời nói trong giờ luyện nói. Để các  
em phát âm đúng và chính xác bản thân lựa chọn các loại âm, vần mà các em  
thường phát âm sai do tiếng địa phương. Điều quan trọng là giáo viên phải phát  
âm chuẩn và chính xác.  
Đối với học sinh lớp 2 là lớp tôi đang chủ nhiệm, đa số các em phát âm  
sai âm x/s, âm d/gi, âm l/n, một số em ngọng các vần ên/ênh, vần an/ang, vần  
ân/âng, …  
Do vậy trong tiết Tập Đọc tôi luôn lựa chọn những từ có âm đầu từ  
ngữ chứa dấu các âm, vần dễ lẫn để học sinh luyện phát âm. Để tạo sự hứng  
thú trong học tập tôi đã áp dụng những trò chơi vào các tiết học giúp học sinh  
vừa học vừa chơi tạo được sự thoải mái trong học tập nhưng đạt kết quả cao.  
Trò chơi 1: Thi đọc đúng, đọc nhanh.  
Tôi đã cho các em chuẩn bị mỗi em tự nghĩ hoặc sưu tầm một số câu thơ,  
câu văn những cặp âm đầu, vần, dấu thanh dễ lẫn lộn ghi vào vở nháp theo  
yêu cầu của giáo viên. (nhóm 1: tìm các câu thơ hay câu văn có âm đầu là s/x,  
nhóm 2: tìm các câu thơ hay câu văn có âm đầu là d/gi, nhóm 3: tìm các câu thơ  
hay câu văn có âm đầu là l/n. Sau đó các em thi đọc trong nhóm. Từng học sinh  
7
Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2.  
đọc to rõ câu thơ, câu văn mà mình tìm được để các bạn trong nhóm nghe. Cả  
nhóm cùng nghe thống nhất đánh giá kết quả của bạn theo tiêu chuẩn đọc to rõ,  
nhanh, phát âm đúng xếp theo 3 loại A, B, C hoặc cho điểm theo thang điểm  
10. Khi cả nhóm đã đọc xong tính điểm của từng bạn để chọn ra bạn đạt giải  
nhất, nhì, ba. Cả nhóm bình chọn và tuyên dương những bạn sưu tầm được  
nhiều câu văn, câu thơ cặp âm đầu, vần, dấu thanh dễ lẫn lộn đọc nhanh,  
to rõ ràng và đúng. Tiếp đó các nhóm cử đại diện và thi trước lớp.  
Cả lớp và giáo viên nhận xét tuyên dương những nhóm đọc đúng, rõ ràng  
đọc đúng tốc độ qui định.  
Giáo viên đưa ra những đề bài gợi ý để học sinh có thể tìm thêm hoặc tự  
suy nghĩ ra để tham gia vào cuộc thi cùng các bạn.  
* Ví dụ 1: Đọc phân biệt các tiếng có âm đầu dễ lẫn lộn.  
a. Phân biệt s/x:  
- Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm.  
- Cây xanh thì lá cũng xanh.  
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.  
(Tục ngữ)  
- Bầu trời xám xịt như xuống sát tận chân trời. Sấm rền vang, chớp lóe  
sáng. Cây sung già trước cửa sổ trút lá theo trận lốc, trở lại những cành xác,  
khẳng khiu.  
b. Phân biệt d/gi:  
Dung dăng dung dẻ  
Dắt trẻ đi chơi  
Đến ngõ nhà giời  
Lạy cậu, lạy mợ  
Cho cháu về quê  
Cho đi học.  
c. Phân biệt l/n:  
- Lên non mới biết non cao  
Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy.  
8
Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2.  
- Lúa nếp là lúa nếp làng  
Lúa lên lớp lớp lòng nàng lâng lâng.  
* Ví dụ 2: Đọc phân biệt các tiếng vần dễ lẫn  
a. Phân biệt vần ên/ênh:  
- Cái gì cao lớn lênh khênh  
Đứng mà không tựa ngã kềnh ngay ra  
- Tò vò mà nuôi con nhện  
Đến khi nó lớn, quện nhau đi  
Tò vò ngồi khóc tỉ ti  
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện đi đằng nào?  
b. Phân biệt vần an/ang:  
Một năm trời hạn hán  
Suối cạn, cỏ héo khô  
Lờy gì nuôi đôi bạn  
Chờ mưa đến bao giờ  
Vàng đi tìm cỏ  
Lang thang quên đường về  
Trắng thương bạn quá  
Chạy khắp nẻo tìm Bê.  
c. Phân biệt ươn/ương:  
Cá không ăn muối ươn  
Con cãi cha mẹ, trăm đường con hư.  
* Ví dụ 3: Loại bài tập xử lý tình huống:  
Loại bài tập này giúp các em phát triển ngôn ngữ nói, luyện tập cho học  
sinh các nghi thức lời nói. Đặc biệt chương trình SGK đã tạo điều kiện cho học  
sinh lớp 2 được thực hành rất nhiều loại bài tập này. Trong các phần luyện nói ở  
các bài Tập đọc, kể chuyện, Tập làm văn hs được chơi đóng vai, đóng kịch kể  
lại theo chủ đề của bài học. Học sinh được tham gia đóng các vai ông bà, cha mẹ  
các cháu nhỏ, người mua hàng, người bán hàng, cô tiên... để luyện tập nghi thức  
lời nói (nói lời cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu đề nghị một việc gì, chào hỏi khi gặp  
9
Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2.  
mặt, chai tay, biết đáp lời cảm ơn, xin lỗi, đáp lời khẳng định, phủ định,...). Hoạt  
động này nhằm luyện tập học sinh phát triển ngôn ngữ qua hình thức vừa học  
vừa chơi, vừa phát triển ngôn ngữ nói, vừa giáo dục tác phong văn minh, lịch sự.  
Với loại bài tập này hình thức tổ chức lớp học sẽ thay đổi, sôi động hơn.  
Chương trình Tiếng Việt tiểu học mới chú trọng đến loại bài tập tình huống để  
học sinh học cách thức nói và phát triển khẩu ngữ.  
Biện pháp: Để giờ luyện nói đạt hiệu quả cao, bản thân phải nghiên cứu  
nội dung bài luyện nói thật kĩ để đưa ra những câu hỏi dẫn dắt sao cho phù hợp  
với nội dung bài học cũng như phù hợp với từng đối tượng học sinh. Tùy theo  
nội dung của bài luyện nói giáo viên cần tìm tòi, sáng tạo đưa ra những tiểu  
phẩm ngắn gọn phù hợp với nội dung bài để học sinh tập đóng vai thể hiện ngôn  
ngữ của mình thật tự nhiên.  
dụ: Trò chơi “Chọn lời đúng” tôi đã cho các em sắm vai để xử lí tình  
huống với nội dung:  
+ Bạn gái xách 1 vật nặng, một bạn trai tới xách giúp.  
+ Bạn trai chơi chạy đuổi bị vấp ngã, được một bạn khác đỡ dậy.  
+ Trong giờ học vẽ, bạn gái cho bạn trai mượn bút chì.  
+ Trên đường đi học về, bạn trai đưa cho bạn gái chai nước uống.  
Đồ dùng sắm vai: 1 túi xách to đựng một số vật, 1 chiếc bút chì màu, 1  
chai nước uống.  
Học sinh đại diện cho từng nhóm lần lượt lên chơi trò đóng vai ở mỗi tình  
huống đã cho khoảng 1 phút.  
- 2 học sinh đại diện cho 1 nhóm tham gia chơi: 1 em đóng vai bạn gái  
đang xách một chiếc túi to bước đi chạm chạp nặng nhọc; 1 em đóng vai bạn  
trai đến bên bạn gái và nói: “Bạn để mình xách đỡ cho nào!” rồi đỡ chiếc túi từ  
tay bạn gái. Bạn gái nói: “Cảm ơn bạn, bạn tốt quá!”. Bạn trai cười tươi và nói:  
“Có gì đâu, việc nhỏ thôi mà!”.  
Sau khi đại diện cả 4 nhóm đã chơi xong về một tình huống, cả lớp cùng  
bình chọn lời nói đúng, hay và tìm các câu nói khác biểu đạt nội dung đó. Nếu  
10  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 22 trang minhvan 03/02/2025 290
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_ren_ki_nang_noi_trong_gio_day_tieng_viet_cho_hoc_sinh_l.doc