SKKN Rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh lớp Một trong giờ tập đọc

Như chúng ta đều biết, học chữ chính là công việc đầu tiên của các em khi các em bắt đầu đến trường, dạy chữ chính là dạy người. Ta nhận thấy rằng, việc dạy đọc hiểu của Tiểu học có nhiều phương pháp dạy khác nhau, phương pháp nào cũng có đặc tính riêng của phương pháp đó, làm sao để cho nó có tính khoa học, hiệu quả.
1. Lí do chọn đề tài:  
Lớp Một lớp học đầu tiên của nhà trường phổ thông. Từ lớp Một trẻ bắt đầu  
học theo môn học. Nói chung, các môn học đều một hệ thống các kiến thức kĩ  
năng cơ bản, phương pháp học tập đặc trưng, chúng được sắp xếp sao cho những gì  
trẻ được học sẽ chuẩn bị cho việc học tập tiếp sau, những được học sau thường  
phải dựa vào những kiến thức kĩ năng đã có. Bởi vậy, việc rèn luyện một trong  
những kĩ năng môn học Tiếng Việt của học sinh lớp Một kĩ năng đọc hiểu được coi  
là quan trọng nhất. Việc rèn đọc hiểu cho học sinh lớp Một được sử dụng để tìm hiểu  
nội dung của bài. Rèn kĩ năng đọc hiểu để nâng cao năng lực của học sinh, giúp các  
em hiểu được những kiến thức mới vận dụng vào năng lực của bản thân để giao  
tiếp học lên các lớp cao hơn. vậy, việc rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh trong  
giờ Tập đọc nhiệm vụ hết sức cần thiết của người giáo viên nhằm giúp các em rèn  
luyện phẩm chất và hoàn thiện bản thân. Chính vì vậy việc hướng dẫn học sinh  
đọc hiểu không thể không thực hiện trong việc giáo dục và rèn luyện. Đối với học  
sinh tiểu học bậc học nền tảng, việc dạy Tiếng Việt dạy Tập đọc là chúng ta đã  
giúp cho các em tiếp thu nền văn hoá xã hội của loài người, làm cho trí tuệ của trẻ  
được mở mang, tâm hồn của trẻ được trong sáng và là chìa khoá để mở ra những  
cánh cửa tương lai, là công cụ để các em vận dụng trong cuộc sống sau này.  
Như chúng ta đều biết, học chữ chính là công việc đầu tiên của các em khi các  
em bắt đầu đến trường, dạy chữ chính là dạy người. Ta nhận thấy rằng, việc dạy đọc  
hiểu của Tiểu học nhiều phương pháp dạy khác nhau, phương pháp nào cũng có  
đặc tính riêng của phương pháp đó, làm sao để cho nó có tính khoa học, hiệu quả. Là  
giáo viên trực tiếp giảng dạy nhiều năm lớp Một, qua thực tế giảng dạy, việc rèn kĩ  
năng đọc hiểu rất cần thiết, giúp cho giáo viên hiểu được sâu sắc hơn đặc trưng  
của môn học.  
Cùng với sự phát triển chung của ngành giáo dục, sự thay đổi của môn Tiếng  
Việt nói chung và môn Tập đọc nói riêng về cả nội dung cũng như phương pháp dạy  
học. Nội dung của môn học theo mức độ từ dễ đến khó, phù hợp với tâm sinh lý  
đang phát triển của học sinh Tiểu học. Trong quá trình dạy học nhất dạy tập đọc  
lớp Một vẫn gặp không ít khó khăn. Vậy làm thế nào để các em đọc đúng, đọc hay và  
hiểu được nội dung bài tốt nhất? Tôi đã lựa chọn đề tài đó là: “Rèn kĩ năng đọc hiểu  
cho học sinh lớp Một trong giờ tập đọc”, nhằm giúp các em đọc hiểu được tốt tạo  
điều kiện để các em học tập tốt hơn ở lớp Một và các lớp kế tiếp.  
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp  
Trong hai tiết dạy tập đọc, thường thì giáo viên chỉ chú trọng đến việc làm thế  
nào để các em đọc đúng, đọc to được bài mà bỏ qua mất việc cho học sinh đọc hiểu  
bài văn hay bài thơ, giải nghĩa từ, tìm hiểu nội dung của bài. Vì thế để học sinh đọc –  
hiểu được tốt trước hết người giáo viên phải những kiến thức cơ bản một số  
thuật ngữ khi dạy học sinh để phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của  
học sinh. Khâu chuẩn bị bài, thiết kế bài dạy cũng rất quan trọng. Dựa trên cơ sở của  
các phương pháp như sách hướng dẫn, tôi đưa ra những định hướng đổi mới các hoạt  
động dạy học như sau:  
* Phần kiểm tra bài cũ:  
Giáo viên cho học sinh tự kiểm tra lẫn nhau hoặc giáo viên đọc câu hỏi cho học  
sinh trả lời để vừa kiểm tra việc học ở nhà của học sinh đồng thời củng cố lại kiến  
thức của bài.  
* Phần bài mới:  
- Giới thiệu bài bằng tranh, ảnh để gây hứng thú trong giờ học cho học sinh  
(phần này giáo viên cần phải sự chuẩn bị, phải tìm tòi các tranh ảnh hoặc vật thật).  
- Luyện đọc:  
Phần đọc tiếng, từ: Giáo viên cho học sinh tự tìm từ khó đọc, tự giải thích từ khó  
theo sự hiểu biết rồi giáo viên giải thích bổ sung bằng tranh, ảnh, vật thật (nếu có). Vì  
ta thấy, nếu học sinh hiểu được bài trước hết học sinh phải hiểu được các từ đó. Từ  
đó học sinh liên kết được các từ lại để học sinh tìm ra được câu trả lời khi tìm hiểu  
bài.  
dụ: Khi dạy bài: “Người trồng na” thì giáo viên giải thích cho học sinh hiểu  
từ: ngoài vườn, lúi húi  
Hoặc khi dạy bài: “Bác đưa thư” thì giáo viên giải thich cho học sinh hiểu từ:  
mừng quýnh, nhễ nhại  
Hoặc khi dạy bài: “ Ngưỡng cửa” giáo viên giải thích từ: ngưỡng cửa  
Rồi sau đó giáo viên đặt câu hỏi: “Ai đã dắt tay em bé đi qua ngưỡng cửa”? Khi  
học sinh đã được giải thích từ ngưỡng cửa và các em thấy rất gần gũi, quen thuộc  
với các em và cũng từ đó học sinh sẽ trả lời được câu hỏi ở trên.  
- Tìm hiểu bài: Đây phần trọng tâm của học sinh đọc hiểu, nhiều lúc giáo viên  
còn xem nhẹ, chưa chú trọng đến vấn đề rèn đọc hiểu cho học sinh. Ở phần này giáo  
viên vẫn tiếp tục luyện đọc kết hợp với nhiệm vụ giúp học sinh nhớ, hiểu được nội  
dung bài. Như trên đã trình bày, nhớ nội dung bài là sự khởi đầu của việc hiểu bài.  
Quá trình hiểu một bài gồm nhiều bước, với nhiều thao tác duy, tuỳ từng bài mà  
giáo viên tổ chức để học sinh tìm hiểu. Như chúng ta đã biết học sinh lớp Một nói  
riêng và học sinh Tiểu học nói chung, duy của các em còn hạn chế chủ yếu các  
em thường nhận thức các sự vật, hiện tượng ở dạng riêng lẻ, tổng thể từ đơn giản đến  
phức tạp, từ cụ thể đến trừu tượng và khái quát hơn. Ở đây tôi cho học sinh trả lời câu  
hỏi để tìm hiểu bài dưới hình thức sử dụng bảng phụ hoặc chuẩn bị phiếu học tập nội  
dung như vở bài tập Tiếng Việt, hoặc kết hợp tranh cho học sinh quan sát để học sinh  
dễ dàng hiểu nhận ra được nội dung phần trả lời của câu hỏi (đối với học sinh còn  
chậm).  
dụ: Khi dạy bài: “Quà của bố” giáo viên cho học sinh xem tranh kết hợp đọc  
khổ thơ 1 để trả lời cho câu hỏi: “Bố bạn nhỏ bộ đội ở đâu?”  
Hoặc khi dạy bài: “ Mèo con đi học”, giáo viên cho học sinh đọc bài rồi treo  
tranh cho học sinh quan sát để trả lời câu hỏi: “Cừu nói gì khiến mèo vội xin đi học  
ngay?”  
Với mức độ học sinh nổi trội tôi cho các em đọc một đoạn văn hoặc khổ thơ rồi  
đọc câu hỏi cho các bạn trả lời, hay tìm và đọc câu văn diễn tả ý.  
dụ: Khi dạy bài: “Chú công”, giáo viên cho 2-3 học sinh đọc, cả lớp đọc thầm  
đoạn 2 của bài rồi giáo viên nêu câu hỏi yêu cầu: “Đọc câu văn tả vẻ đẹp của đuôi  
công trống sau hai, ba năm” cho học sinh trả lời  
Với mức độ học sinh còn chậm của lớp, khi tìm hiểu bài tôi cho học sinh đọc kĩ  
câu văn, đoạn văn hay dòng thơ, khổ thơ để trả lời cho nội dung câu hỏi rồi mới nêu  
câu hỏi để các em trả lời.  
dụ: Khi dạy bài: “Ngưỡng cửa”, giáo viên cho 2-3 học sinh đọc khổ thơ 1 rồi  
2-3 học sinh đọc câu hỏi 1 sau đó giáo viên nhắc lại câu hỏi: “Ai dắt em bé tập đi  
men ngưỡng cửa?’ hướng dẫn học sinh ghi dấu x vào ý trả lời đúng  
bố  
bà  
bạn bè  
mẹ  
Giáo viên cho 2-3 học sinh đọc tiếp khổ thơ thứ 2 và thứ 3 rồi cho 2-3 học sinh  
đọc câu hỏi: “Bạn nhỏ qua ngưỡng cửa để đi đến đâu?’ rồi phát phiếu học tập cho học  
sinh thảo luận theo nhóm 4 để nối từ ngữ ở cột A với từ ngữ ở cột B cho đúng ý của  
bài:  
A
B
đi đến lớp học.  
Bạn nhỏ qua ngưỡng cửa để  
* Phần củng cố, dặn dò:  
đến những con đường xa tắp  
đến nhà bạn bè.  
- Tôi cho học sinh đọc khổ thơ hay đoạn văn mà mình yêu thích, nêu lí do mà  
mình thích.  
- Học sinh đọc lại bài rồi nêu nội dung bài học cho các bạn nghe.  
* Ví dụ: Khi dạy bài:  
Hồ Gươm  
(Sách Tiếng Việt 1- tập 2)  
A. Mục đích yêu cầu:  
- Học sinh đọc trơn cả bài. Đọc đúng các từ ngữ: khổng lồ, long lanh, lấp ló,  
xum xuê.  
- Bước đầu biết nghỉ hơi ở chỗ dấu câu.  
- Hiểu được nội dung bài tập đọc:Hồ Gươm một cảnh đẹp của Thủ đô Nội.  
- Trả lời được câu hỏi 1, 2 (SGK).  
B. Đồ dùng dạy học:  
- Giáo viên:  
+ Tranh, ảnh minh hoạ cảnh Hồ Gươm phần luyện nói (tranh vẽ phóng to từ  
sách giáo khoa)  
+ Bộ thực hành biểu diễn Tiếng Việt.  
- Học sinh:  
Bộ thực hành Tiếng Việt, sách giáo khoa.  
C. Các hoạt động dạy học:  
Hoạt động của giáo viên  
Hoạt động của học sinh  
1. Kiểm tra bài : (5- 6 phút)  
Đọc bài: “Hai chị em”. Trả lời câu hỏi: 2 HS thực hiện  
“Vì sao cậu em thấy buồn chán khi ngồi  
Nhận xét bổ sung  
chơi một mình”?  
Tự kiểm tra: Kiểm tra đọc (học sinh  
- Giáo viên nhận xét mức độ hiểu bài  
của học sinh và đánh giá.  
từng bàn) quay mặt vào nhau để kiểm  
tra.  
2. Bài mới: (30 phút)  
Tiết 1  
- Giới thiệu bài: Giáo viên treo tranh để  
giới thiệu: + Tranh vẽ gì?  
Học sinh quan sát tranh và trả lời.  
HS quan sát tranh  
+ Giáo viên chỉ vào tranh nói: Nội là  
Thủ đô của nước ta. Hà Nội Hồ  
Gươm một cảnh đẹp. Hôm nay cả lớp  
ta đi thăm Hồ Gươm qua lời tả của nhà  
văn Ngô Quân Miện nhé.  
- Luyện đọc:  
+ Giáo viên đọc mẫu lần 1: Giọng đọc  
chậm, trìu mến; ngắt nghỉ rõ sau dấu  
chấm, dấu phẩy.  
+ Giáo viên nêu câu hỏi: Bài văn gồm  
mấy câu? Rồi khoanh tròn những dấu  
câu có trong bài.  
HS tìm số câu và trả lời  
- Học sinh luyện đọc: khổng lồ, long  
lanh, lấp ló, xum xuê  
* Đọc tiếng, từ ngữ:  
Phân tích tiếng – Ví dụ: khổng = kh +  
ông = dấu hỏi, kết hợp giải thích từ ngữ:  
khổng lồ, long lanh, lấp ló, xum xuê  
+ Đọc câu:  
Luyện đọc tất cả các câu, chú ý cách  
ngắt nhỉ hơi khi gặp dấu phẩy.  
HS đọc đoạn, bài rồi thi đọc giữa các tổ.  
Tìm tiếng vần cần ôn trong bài:  
Hồ Gươm  
+ Đọc đoạn, bài:  
- Ôn các vần: ươm, ươp.  
Giải nghiã từ Hồ Gươm:  
Học sinh nói câu có tiếng chứa vần  
Giáo viên cho học sinh quan sát tranh,  
nói câu mẫu  
ươm, ươp  
Thi nói câu theo ý nghĩ của mình theo  
nhóm, sau đó cho trình bày trước lớp  
Giáo viên uốn nắn, sửa sai và động viên  
những học sinh có câu nói hay...) đồng  
thời giải thích từ, câu giúp các em hiểu  
được nghĩa câu, từ vừa tìm.  
-Tiết 2: Ngoài việc rèn kỹ năng đọc đúng, đọc lưu loát, đọc rõ ràng tiến tới đọc  
diễn cảm toàn bài thì giáo viên cần tạo hứng thú cho học sinh qua việc tìm hiểu nội  
dung bài. Vì khi các em đã đọc được tốt rồi, lại được hiểu kĩ hơn về nội dung bài thì  
chắc chắn khi được gọi đọc lại bài các em sẽ đọc tốt hơn. Do đó, cần kết hợp chặt chẽ  
giữa việc hiểu nội dung bài với việc luyện đọc nhiều lần văn bản. Trước khi đặt ra  
câu hỏi tôi thường cho học sinh đọc nhiều lần đoạn văn chứa nội dung câu hỏi đó để  
giúp các em trọng tâm cho câu trả lời.  
dụ: Khi dạy tiết 2 tôi tiên hành như sau:  
Hoạt động của giáo viên  
Hoạt động của học sinh  
1. Tìm hiểu bài và luyện đọc: (30 phút)  
a. tìm hiểu bài đọc kết hợp luyện đọc  
- Phần tìm hiểu nội dung: Để trả lời câu HS đọc bài theo nhóm 2, rồi 1em nêu  
hỏi 1 tôi cho học sinh đọc bài, tự nêu câu hỏi: Hồ Gươm cảnh đẹp ở đâu?  
câu hỏi cho bạn trả lời.  
để em khác trả lời.  
Câu hỏi 2 tôi treo bảng phụ để cả lớp  
cùng quan sát để tìm ra ý đúng:  
Từ trên cao nhìn xuống, mặt Hồ Gươm  
trông như thế nào?  
Học sinh thảo luận đưa ra câu trả lời  
Một bức tranh phong cảnh tuyệt  
đúng  
đẹp.  
Một chiếc gương bầu dục khổng  
lồ sáng long lanh.  
Một mặt nước phẳng lì.  
Giáo viên đọc câu trả lời đầy đủ để học  
sinh khắc sâu kiến thức.  
câu hỏi 3, giáo viên gọi học sinh nổi  
bật đọc câu hỏi rồi tổ chức cho học sinh HS nhìn ảnh rồi tìm trong bài để đọc câu  
chơi trò thi nhìn ảnh, tìm câu văn tả văn ứng với bức ảnh  
cảnh.  
Cảnh trong bức ảnh 1: Cầu Thê Húc  
Giáo viên nêu đề bài cho cả lớp: các em  
Cảnh trong bức ảnh 2:Đền Ngọc Sơn  
nhìn bức ảnh đọc tên cảnh trong ảnh ghi  
Cảnh trong bức ảnh 3: Tháp Rùa  
phía dưới rồi tìm đọc những câu văn có  
trong bài tả cảnh đẹp trên các bức ảnh  
- Sau khi mỗi nhóm đọc, nhóm khác  
nhận xét bổ sung.  
đó.  
- Cuối giờ, cho học sinh thi đọc toàn bài  
Học sinh tự liên hệ (kể về phong cảnh  
đẹp mà em đã được biết)  
theo nhóm.  
2. Củng cố bài: (5 phút)  
dụ 2: Khi dạy bài:  
Mèo con đi học  
( Sách Tiếng Việt 1, tập 2)  
A. Mục đích yêu cầu:  
- Học sinh đọc trơn cbài. Đọc đúng các từ ngữ: buồn bực, kiếm cớ, cái đuôi,  
cừu.  
- Bước đầu biết nghỉ hơi ở cuối mỗi dòng thơ, khổ thơ.  
- Hiểu nội dung bài: Mèo con lười học kiếm cớ nghỉ ở nhà; Cừu doạ cắt đuôi  
khiến Mèo sợ phải đi học.  
- Trả lời được câu hỏi 1,2 (SGK).  
B. Đồ dùng dạy học:  
- Giáo viên:Vẽ phóng to tranh minh hoạ bài đọc.  
- Học sinh: Bộ chữ học vần Tiểu học  
C. Các hoạt động dạy học:  
Hoạt động của giáo viên  
Hoạt động của học sinh  
1. Kiểm tra bài : (5-6 phút)  
Đọc bài thơ Chuyện ở lớp; trả lời câu  
hỏi: “Mẹ muốn em bé kể chuyện gì?”  
1- 2 HS đọc trả lời câu hỏi  
2 HS viết từ ngữ: vuốt tóc, đứng dậy  
Cả lớp viết bảng con  
Giáo viên nhận xét bài cũ  
2. Bài mới: (30 phút)  
Tiết 1  
Giới thiệu bài: GV giới thiệu bài và ghi HS nhắc lại  
tên bài tập đọc.  
- Luyện đọc:  
Đọc diễn cảm bài thơ: giọng hồn nhiên,  
nghịch ngợm…  
HS tìm số câu và trả lời  
+ Giáo viên nêu câu hỏi: Bài thơ gồm  
mấy câu?  
Học sinh luyện đọc: buồn bực, kiếm cớ,  
cái đuôi, cừu  
* Đọc tiếng, từ ngữ:  
Phân tích tiếng – Ví dụ: kiếm =k + iêm  
+dấu sắc…; kết hợp giải thích từ ngữ:  
buồn bực: buồn và khó chịu  
kiếm cớ: tìm lí do  
be toáng: kêu ầm ĩ  
+ Đọc câu:  
HS luyện đọc từng dòng thơ- cả lớp đọc  
thầm sau đó mỗi em đọc một dòng cho  
đến hết bài.  
3 HS đọc to cả bài  
3HS đọc phân vai: một em đọc lời dẫn,  
một em đọc lời Cừu, một em đọc lời  
Mèo.  
+ Đọc đoạn, bài:  
- Đọc theo vai:  
1HS tìm: cừu  
+ Ôn vần ưu, ươu:  
Thi tìm tiếng ngoài bài có vần ưu, ươu  
Thi tìm câu có tiếng chứa vần ưu, ươu  
Tìm tiếng trong bài có vần ưu  
GV nhận xét bổ sung đồng thời giải  
nghĩa từ cho HS hiểu  
Tiết 2  
2 HS đọc 4 dòng thơ đầu, cả lớp đọc  
3. Tìm hiểu bài đọc, kết hợp luyện đọc: thầm  
(30 phút)  
HS đọc lại câu hỏi, chọn ý đúng để trả  
GV nêu câu hỏi: “Mèo kiếm cớ để lời  
trốn học” và phát phiếu học tập, gợi ý để  
HS làm bài.  
Chân đau không đi học được.  
Cái đuôi bị ốm.  
Trời mưa, đường trơn.  
2 HS đọc 6 dòng cuối,  
HS trả lời câu hỏi bằng cách ghi lại lời  
Cừu nói với Mèo bằng 2 câu thơ vào vở  
Cừu nói gì khiến Mèo vội xin đi học Bài tập Tiếng Việt 1- tập 2 (45).  
ngay?  
2HS đọc lại cả bài  
1 em kể lại nội dung bài  
Tranh vẽ cảnh Cừu đang giơ kéo doạ cắt  
Cho HS xem tranh minh hoạ, trả lời câu đuôi, Mèo vội xin đi học  
hỏi: “Tranh vẽ cảnh nào?”  
HS thi học thuộc lòng  
* bài này yêu cầu học thuộc lòng, vì  
vậy giáo viên cho học sinh học thuộc  
ngay tại lớp  
4. Củng cố: (5 phút)  
HS trả lời và liên hệ thực tế  
Giáo viên nêu câu hỏi: Các em có nên  
bắt chước bạn Mèo không? Vì sao?”  
Sau khi tiến hành dạy xong hai bài này tôi thấy: Thực tế trong giảng dạy, chúng  
ta gặp còn nhiều những học sinh rất khó khăn khi luyện đọc và tìm hiểu bài. Khi đó  
giáo viên cần kiên trì giúp đỡ phụ đạo thêm (không bỏ qua nhưng cũng không nôn  
nóng) giáo viên phải rèn cho học sinh đọc đúng, hiểu ngay tại lớp. Khi soạn bài giáo  
viên phải kế hoạch cho từng đối tượng học sinh và phải thể hiện bài soạn: Câu  
hỏi dành cho học sinh nổi trội, học sinh còn chậm, học sinh chưa hoàn thành để từ đó  
biện pháp uốn nắn. Giáo viên cần phải động viên, khuyến khích các em để tạo ra  
sự hứng thú cho học sinh trong việc tự tìm ra kiến thức mới.  
Với những học sinh còn lúng túng khi trả lời câu hỏi thì giáo viên cần gợi ý hoặc  
cho học sinh nổi trội nói trước rồi mới cho học sinh chưa hoàn thành nhắc lại. Có  
những học sinh đoc bài hiểu được ý, nhưng khi trả lời còn lúng túng - khi đó giáo  
viên phải tạo cơ hội cho các em được trả lời hoặc giáo viên trả lời cho các em nhắc  
lại, nếu học sinh tiếp thu chậm trả lời được câu hỏi thì giáo viên khen, động viên  
kịp thời để giúp các em có tính mạnh dạn hơn.  
Với những học sinh tiếp thu chậm, chưa đạt yêu cầu giáo viên cần chú ý đến các  
hình thức tổ chức hoạt động, đưa ra các yêu cầu phù hợp với đối tượng để giúp các  
em khắc phục. Nếu học sinh trả lời chưa đúng hoặc thiếu ý thì giáo viên gợi ý, hướng  
dẫn để các em trả lời với các bạn khác. Giáo viên luôn kết hợp với gia đình động  
viên, nhắc nhở các em đọc bài và chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Trong giờ kiểm tra  
bài, giáo viên phân công học sinh nổi trội kiểm tra học sinh chưa hoàn thành, nội  
dung là ôn bài chuẩn bị bài mới.  
Các hình thức tổ chức dạy học cũng cần được giáo viên vận dụng một cách linh  
hoạt, kích thích hứng thú đọc của học sinh như: khuyến khích các em đọc sách báo,  
truyện tranh thiếu nhi, tự kể lại cho các bạn nghe câu chuyện mình vừa đọc. Hay  
trong các giờ học ôn buổi chiều, giáo viên tổ chức cho học sinh thi đua đọc bài, kể  
chuyện, tìm hiểu nội dung truyện hoặc bài tập đọc để học sinh tự học tập và phát huy  
khả năng của mình.  
Điều quan trọng là giáo viên phải kiểm tra, đánh giá được kết quả hoạt động học  
tập của học sinh từ đó xác định cách dạy để đạt kết quả tốt nhất. Do vậy, khi yêu cầu  
học sinh đọc thầm (câu – đoạn – bài) giáo viên phải giao kèm “nhiệm vụ” cụ thể  
nhằm định hướng “đọc hiểu” (Đọc câu, đoạn hay khổ thơ nào? Đọc để biết, hiểu, nhớ  
điều gì?). Cần khắc phục tình trạng học sinh đọc một cách hình thức, giáo viên  
không nắm được kết quả đọc hiểu của học sinh để xử lí trong quá trình dạy học.  
1. Kết luận:  
Tập đọc một phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở tiểu học, nhất đối với  
học sinh lớp Một. Học vần, Tập đọc giúp học sinh đọc thông, viết thạo. Đọc thông,  
viết thạo mối quan hệ mật thiết với nhau: dạy tập đọc chính là dạy một kĩ năng,  
cần coi trọng kĩ năng đọc hiểu cho học sinh. Nếu đọc hiểu bài tốt học sinh sẽ có  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 13 trang minhvan 03/11/2024 280
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh lớp Một trong giờ tập đọc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_ren_ki_nang_doc_hieu_cho_hoc_sinh_lop_mot_trong_gio_tap.doc