SKKN Rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2
Đất nước ta trong thời kì đổi mới về mọi mặt. Đảng và nhân dân ta luôn quan tâm tới các lĩnh vực, trong đó có ngành giáo dục. Từ những đổi mới không ngừng về văn hóa giáo dục của nước ta, mục tiêu đào tạo của cấp tiểu học ở môn Tiếng Việt nói chung và môn tập đọc lớp 2 nói riêng, học sinh phải đọc lưu loát, rõ ràng và đọc đúng.
“RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2”
PHỤ LỤC
TRANG
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài.
1
II. Phạm vi, đối tượng, thời gian nghiên cứu
1- 2
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận.
3
4-5
II. Cơ sở thục tiễn
III. Thực trạng vấn đề.
5
IV. Các biện pháp đã tiến hành.
V. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm.
5- 12
12- 13
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận.
14
II. Bài học kinh nghiệm.
III. Khuyến nghị.
14- 15
15- 16
“RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2”
PHẦN THỨ NHẤT
ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đất nước ta trong thời kì đổi mới về mọi mặt. Đảng và nhân dân ta luôn
quan tâm tới các lĩnh vực, trong đó có ngành giáo dục. Từ những đổi mới không
ngừng về văn hóa giáo dục của nước ta, mục tiêu đào tạo của cấp tiểu học ở môn
Tiếng Việt nói chung và môn tập đọc lớp 2 nói riêng, học sinh phải đọc lưu loát,
rõ ràng và đọc đúng. Tập đọc là một trong những phân môn Tiếng Việt ở tiểu
học. Tập đọc có nghĩa là đọc đúng kết hợp với quy tắc đọc chuyển văn bản bằng
chữ viết thành văn bản về âm thanh. Phân môn này dạy cho học sinh tri thức và
kỹ năng đọc, phát triển năng lực đọc hiểu, có kỹ năng hiểu khi giao tiếp. Trẻ em
đến tuổi học thường bắt đầu quá trình học tập bằng quá trình đọc, học chữ, học
sinh biết đọc chữ nhận biết chữ bằng cách đọc phát ra âm thanh tai nghe để ghi
nhớ âm thanh, kết hợp với nhìn để ghi nhớ chữ. Sau đó mới tái hiện các con chữ
bằng các hình nét ghi chữ. Học sinh có đọc được thông thạo thì mới học được
các môn học khoa học khác. Vì vậy trẻ phải được học đọc sau đó mới học viết.
Trong phân môn tập đọc lớp 2, học sinh cần phải hoàn chỉnh kĩ năng đọc đúng
theo nội dung, theo nhân vật trong bài, đọc ngắt nghỉ đúng dấu câu và giữa các
cụm từ. Việc đọc đúng ở bậc tiểu học là cơ sở ban đầu giúp học sinh thêm yêu
thích môn Tiếng Việt tiến tới say mê học các bộ môn xã hội. Đào tạo các em trở
thành con người toàn diện. Biết giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, yêu thích
tiếng mẹ đẻ, làm nền tảng cho những môn học khác.
Chính vì những nhận thức trên nên tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Rèn kĩ
năng đọc cho học sinh lớp 2.”
II. PHẠM VI- ĐỐI TƯỢNG- THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
1. Phạm vi nghiên cứu
- Phân môn tập đọc lớp 2.
2. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh lớp 2 trường tiểu học Thanh Xuân Nam.
1/15
“RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2”
3. Thời gian nghiên cứu
- Bắt đầu từ tháng 9/ 2017 đến hết tháng 3/ 2018
2/15
“RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2”
PHẦN THỨ HAI
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Căn cứ vào mục tiêu của môn Tiếng Việt lớp 2 là hình thành và phát triển
cho học sinh bốn kỹ năng (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các
môi trường hoạt động của lứa tuổi. Việc dạy học tập đọc được đưa vào chương
trình từ rất lâu đến nay chúng ta có thể nhìn lại và có một số nhận xét qua thực
tế giảng dạy đều thấy rằng: Đây là một phân môn cần thiết để tạo điều kiện học
tốt môn học. Việc dạy tập đọc được dạy một cách có kế hoạch mang tính chủ
động kết hợp với các câu hỏi hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài tập đọc,
học thuộc lòng qua đó giáo dục nhân cách, đạo đức thẩm mỹ lòng tự hào dân tộc
tinh thần đoàn kết, yêu thương anh em, đồng bào. Tăng cường kỹ năng đọc
thông viết thạo, kỹ năng đọc đúng.
Để cập với kỹ năng đọc của học sinh tiểu học, giờ tập đọc đóng một vai
trò rất quan trọng. Việc đọc ở lớp 2 là đọc đúng, rõ ràng, rành mạch các đoạn
đối thoại, các văn bản nghệ thuật, hành chính, báo chí,…. Việc đọc đúng trong
phân môn tập đọc còn là một trong những cơ sở giúp học sinh cảm thụ nội dung
bài thơ, bài văn. Từ đó bồi dưỡng tư tưởng tình cảm và tâm hồn lành mạnh,
trong sáng, tình yêu cái đẹp, cái thiện và thái độ ứng xử đúng mực trong cuộc
sống, hứng thú đọc sách và yêu thích Tiếng Việt… Do vậy việc đọc ở lớp 2 tôi
nhận thấy những bài học phần lớn là văn xuôi dạng truyện kể, bên cạnh là những
bài thơ, ca dao, tục ngữ,… với nội dung ca ngợi về gia đình, nhà trường, bạn bè,
muông thú, cây cối,… và mang tính giáo dục, thẩm mỹ cao. Chúng ta đã biết đối
tượng của văn, thơ là cái hay, cái đẹp: Cái đẹp trong đời sống, trong thiên nhiên,
trong đạo đức con người, về con người. Mỗi bài thơ, bài văn, bản thân nó chứa
đựng cái đẹp. Các em đọc những bài tập đọc là đến với cái đẹp mà ở tập đọc
thường hướng đến cái hay, cái đẹp phù hợp với tâm sinh lý của học sinh lớp 2.
Qua giờ tập đọc, học sinh sẽ cảm thụ được cái hay, cái đẹp và tình cảm trong
sáng lành mạnh, bồi dưỡng lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước, yêu
trường lớp, bạn bè, những người thân yêu của mình, yêu lao động và chăm chỉ
học hành để sau này trở thành những người có ích cho xã hội.
Có thể khẳng định việc đọc đúng của học sinh có tác dụng rất lớn trong
việc học môn Tiếng Việt.
3/15
“RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2”
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Đối với giáo viên.
Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy trên lớp, tôi nhận thấy được trọng
trách của mình trong sự nghiệp trồng người. Mục tiêu của giáo dục tiểu học là
hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu về môn Tiếng Việt, trong đó có
phân môn tập đọc. Xuất phát từ nhiệm vụ của môn học, động cơ dạy học của
môn học, từ những bài văn, bài thơ hay, mỗi giáo viên phải có cảm hứng và lòng
nhiệt tình giảng dạy. Giáo viên phải hiểu rõ thẩm mỹ, cảm thụ được những bài
tập đọc đó để truyền đạt cho học sinh kỹ năng đọc đúng.Giáo viên phải có kỹ
năng đọc diễn cảm, đọc thành nghệ thuật thì mới nâng cao khả năng đọc cho học
sinh.
Qua thực tế hơn hai chục năm giảng dạy tôi thấy, việc học sinh đọc đúng
là mục tiêu của giờ dạy mà giáo viên phải làm trong mỗi giờ tập đọc. Đọc đúng,
là vấn đề không đơn giản đối với mỗi học sinh. Trình độ chuyên môn của giáo
viên, hiểu được yêu cầu của sách hay không? Thực tế giảng dạy của mỗi giáo
viên thế nào? Đối tượng học sinh ra sao? điều này rất quan trọng.
Từ khi giáo dục có sự đổi mới, đòi hỏi học sinh đọc phải đạt ở mức độ cao
hơn. Học sinh đọc đúng, rõ ràng, mạch lạc, học sinh càng yêu thích phân môn
này, giúp các em rất nhiều trong quá trình học tập các môn học khác cũng như
trong diễn đạt và giao tiếp trong cuộc sống.
2. Đối với học sinh.
Bước vào đầu năm học lớp 2, với phân môn tập đọc học sinh bước đầu đã
đọc đúng nhưng chưa đồng đều.
Học sinh còn đọc với hình thức đọc to nhưng chưa ngắt nghỉ đúng dấu
câu và giữa các cụm từ (ở một số em). Việc đọc này sẽ ảnh hưởng tới việc đọc
hiểu nghĩa của văn bản.
Một số phụ huynh học sinh và bản thân học sinh còn xem nhẹ việc đọc mà
chỉ coi trọng các môn học khác. Chính vì vậy việc rèn đọc của học sinh trên lớp
là cần thiết. Đọc đúng sẽ giúp các em mở rộng, say sưa với những bài đọc khác.
Về lứa tuổi các em chỉ thích khi hoàn toàn hứng thú đó là hiệu quả cao nhất
trong việc rèn đọc.
Qua thực tế nhiều năm trực tiếp giảng dạy lớp 2 tôi thấy nhiều học sinh đã
đọc chuẩn đáp ứng được yêu cầu của việc đọc, bản thân học sinh hay thỏa mãn
chính mục tiêu học tập của các em cũng như mong muốn của giáo viên và gia
đình.
4/15
“RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2”
Đối với học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng, hiện nay
do được tiếp xúc nhiều với thông tin đại chúng nên khả năng cảm nhận của các
em rất nhạy cảm là vấn đề rất quan trọng đối với học sinh tiểu học.
III. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
1. Xây dựng kế hoạch
Vào đầu năm học, tôi đã phải có kế hoạch rèn đọc cho học sinh (từ, câu
ứng dụng của từng bài)
2. Công việc của giáo viên (đầu kì I)
- Khảo sát, phân loại đối tượng học sinh: Tổng số học sinh có 56 em.
Trong đó:
+ Đọc rõ ràng mạch lạc diễn cảm: 15em = 26,8 %
+ Đọc đúng, đọc to, rõ ràng :
+ Đọc đúng nhưng còn nhỏ:
+ Đọc còn ngắc ngứ:
20 em = 35,7 %
15 em = 26,8 %
06 em = 10.7 %
- Chuẩn bị sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu phục vụ phân môn tập
đọc.
- Chuẩn bị cho học sinh thời gian học tập trên lớp và học tập ở nhà.
- Thông báo với phụ huynh học sinh qua 1 tháng học tập về việc đọc của
học sinh và yêu cầu của giáo viên về việc rèn đọc.
- Lập kế hoạch rèn đọc cho học sinh.
3. Công việc của học sinh
- Chuẩn bị đầy đủ sách giáo khoa Tiếng Việt.
- Dành thời gian học tập nhất định trong tuần ở trên lớp (theo thời khóa
biểu đã qui định).
- Đọc đúng, to, rõ ràng mạch lạc, phát âm chuẩn.
- Gia đình học sinh cần chăm lo khuyến khích việc rèn đọc của con em
mình.
IV. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH
- Để dạy tốt môn tập đọc lớp 2 giáo viên cần nắm vững nội dung chương
trình và nội dung từng bài, tìm ra phương pháp dạy phù hợp với đối tượng học
sinh từ đó nhằm nâng cao chất lượng bài dạy.
- Để hướng dẫn học sinh đọc đúng theo yêu cầu của môn học, việc đầu
tiên tôi quan tâm tới thể loại trong chương trình tập đọc lớp 2. Có 60 bài tập đọc
là văn bản văn học. Các bài tập đọc được chia thành các thể loại sau:
5/15
“RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2”
+ Văn xuôi gồm: 45 bài
+ Thơ: 15 bài
- Khi dạy từng thể loại tôi đã hướng dẫn học sinh cách đọc đúng như sau:
1. Đối với văn xuôi:
- Các dạng bài này chủ yếu là thể loại kể chuyện (truyện, văn miêu tả, văn
bản khoa học, nghị luận và văn bản thông thường…).
- Khi dạy dạng này, tôi đặc biệt chú ý tới khâu đọc mẫu của mình. Khâu
đọc mẫu thường nhằm giới thiệu, gây cảm xúc, tạo hứng thú và tâm thế đọc cho
học sinh. Căn cứ vào trình độ của học sinh của lớp mà đọc mẫu có thể 1 hoặc 2
lần theo mục đích đề ra.
- Đọc câu, đoạn: Nhằm hướng dẫn gợi ý hoặc “tạo tình huống” để học
sinh nhận xét, giải thích, tự tìm ra cách đọc (có thể đọc một vài lần trong quá
trình dạy đọc).
- Trong luyện đọc câu, giúp học sinh phát hiện ra những từ, tiếng khó khi
phát âm còn ngọng, dễ nhầm lẫn cần sửa cho học sinh.
Ví dụ: Học sinh phát âm sai giữa âm l/n, âm d/gi/r.
- Trong khi dạy cần phát hiện những em đọc sai và sửa cách đọc cho từng
em (phải sửa thường xuyên trong các giờ tập đọc khi nào các em đọc đúng mới
thôi).
- Khi luyện đọc đoạn, đặc biệt chú ý đến đọc ngắt nghỉ đúng câu và giữa
các cụm từ. Giáo viên có bảng phụ (hoặc máy chiếu) ghi nội dung đoạn cần đọc
ngắt nghỉ đúng và đọc đúng câu văn cần luyện. Chú ý hướng dẫn học sinh đọc
nhấn giọng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm và đọc theo nhân vật của bài tập đọc trong
phần luyện đọc lại bài.
Ví dụ: Khi dạy bài tập đọc “Bím tóc đuôi sam” cần hướng dẫn học sinh
đọc với giọng thích hợp của từng nhân vật:
- Thật không ạ? (Lời nói của Hà với giọng lễ phép.)
- Thật chứ! (Giọng thầy giáo dịu dàng trìu mến.)
2. Đối với những bài thơ
- Khi dạy đọc bài thơ cần hiểu được đặc trưng của thơ là nét đẹp của nhịp
điệu, là tình cảm mãnh liệt… vì thế người đọc thơ phải đồng điệu được với tình
cảm của nhà thơ: vui, buồn, tự hào, sâu đậm chất thơ. Đọc thơ phải hóa mình
trong khung cảnh thời gian, không gian trong bài thơ ấy.
Ví dụ: Bài tập đọc: Cô giáo lớp em – Tuần 7 sách giáo khoa Tiếng Việt
2/ tập 1- trang 60
6/15
“RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2”
Khi đọc phải thể hiện giọng nhẹ nhàng, tình cảm.
“ Cô dạy em/ tập viết/
Gió/ đưa thoảng hương nhài/
Nắng/ ghé vào cửa lớp/
Xem chúng em/ học bài.//
Những lời/ cô giáo giảng/
Ấm trang vở /thơm tho/
Yêu thương/ em ngắm mãi/
Những điểm mười/ cô cho.”//
- Ngoài ra thơ còn gần với nhạc, thơ là họa, khi đọc phải vang lên chất
nhạc, chất họa trong thơ.
Ví dụ: Bài tập đọc: Thư Trung Thu – Tuần 19 sách giáo khoa Tiếng Việt
2/ tập 2- trang 9
“ Ai yêu các nhi đồng/
Bằng/ Bác Hồ Chí Minh?//
Tính các cháu/ ngoan ngoãn,/
Mặt các cháu/ xinh xinh./
Mong /các cháu cố gắng/
Thi đua/ học và hành.//
Tuổi nhỏ/ làm việc nhỏ/
Tùy theo sức/ của mình,/
Để/ tham gia kháng chiến,/
Để/ gìn giữ hòa bình.//
Các cháu/ hãy xứng đáng/
Cháu/ Bác Hồ Chí Minh.//
Khi đọc giọng nhẹ nhàng, êm ái, thể hiện lời ru và tình cảm yêu thương
của tác giả với em nhỏ của mình.
- Mỗi thể thơ có những đặc trưng riêng:
+ Thơ 4 chữ: Khi đọc thể hiện tình cảm theo từng khổ (thong thả, lúc
chậm, lúc nhanh hoặc toàn bài giọng đọc thong thả).
Ví dụ: Bài tập đọc: Thương ông – Tuần 10 sách giáo khoa Tiếng Việt 2
tập 1- trang 83
Ông/ bị đau chân/
Nó sưng/ nó tấy/
7/15
“RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2”
Đi/ phải chống gậy.//
Việt/ chơi ngoài sân/
Lon ton lại gần://
- Ông vịn vai cháu/
Cháu đỡ ông lên.//
Ông bước lên thềm://
- Hoan hô thằng bé!//
Bé /thế mà khỏe/
Vì /nó thương ông.//
Đọc với giọng tình cảm và ngắt nghỉ hơi đúng chỗ…
+ Thơ 5 chữ: Mang tính chất kể chuyện, khi đọc phải chậm, ngắt nghỉ ở
chỗ tương đối trọn vẹn một ý (khổ thơ).
Ví dụ: Bài tập đọc: Gọi bạn – Tuần 3 sách giáo khoa Tiếng Việt 2/ tập 1-
trang 28.
Tự xa xưa thuở nào/
Trong rừng xanh/ sâu thẳm/
Đôi bạn/ sống bên nhau/
Bê Vàng/ và Dê Trắng.//
Một năm,/ trời hạn hán/
Suối cạn/ cỏ héo khô/
Lấy gì/ nuôi đôi bạn/
Chờ mưa/ đến bao giờ?//
Bê Vàng đi tìm cỏ/
Lang thang/ quên đường về/
Dê Trắng/ thương bạn quá/
Chạy khắp nẻo/ tìm Bê/
Đến bây giờ Dê Trắng/
Vẫn gọi hoài:/ “Bê!// Bê!”//
+ Thơ lục bát: Khi dạy cần chú ý ngắt nghỉ hơi đúng, linh hoạt giữa các
dòng, các câu thơ lục bát.
Ví dụ: Bài thơ: Mẹ – Tuần 12 sách giáo khoa Tiếng Việt 2/ tập 1- trang
101.
8/15
“RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2”
Nhịp 2/4; 4/4; …
“ Lặng rồi/ cả tiếng con ve/
Con ve cũng mệt/ vì hè nắng oi.//
Nhà em/ vẫn tiếng ạ ời/
Kẽo cà tiếng võng/ mẹ ngồi mẹ ru”//
Lời ru/ có gió mùa thu/
Bàn tay mẹ quạt/ mẹ đưa gió về.//
Những ngôi sao thức/ ngoài kia/
Chẳng bằng mẹ/ đã thức vì chúng con.//
Đêm nay/ con ngủ giấc tròn/
Mẹ là ngọn gió/ của con suốt đời.//
Ngoài ngắt nhịp đúng, cần nhấn giọng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm, giọng
đọc phù hợp với nội dung bài thơ để tạo thành chất thơ.
3. Chú ý đến kỹ năng đọc.
Muốn đọc đúng thì người dạy - người học phải nắm được yêu cầu của đọc:
- Đọc rõ ràng, mạch lạc.
- Ngắt nghỉ đúng dấu câu và giữa các cụm từ.
- Đọc đúng ngữ điệu của câu.
Trong giờ tập đọc trên lớp, để rèn đọc đúng cho học sinh, giáo viên phải
phân đối tượng. Cần chú ý đến tính cách của học sinh. Em mạnh dạn sẽ đọc tốt
hơn, những em chưa mạnh dạn sẽ đọc yếu hơn. Từ đó có hướng rèn đọc cho
những em đó.
Ví dụ: Trong lớp có em Nguyễn Tuấn Dũng đọc ngắt nghỉ đúng xong đọc
nhỏ, lí nhí nên không phân biệt rõ ngữ điệu của câu. Nét mặt, cử chỉ rụt rè thiếu
tự tin dẫn đến chưa đọc tốt.
Giáo viên cần chú ý đến cường độ đọc của học sinh. Cần căn cứ vào từng
giai đoạn để rèn đọc đúng. Sửa khi đọc quá nhanh, quá chậm, không đúng nhịp
trong thơ, văn. Cụ thể đọc với tốc độ đạt yêu cầu:
+ Giữa học kỳ I (Sau 8 tuần): 35 tiếng/ 1 phút.
+ Cuối học kỳ I (Sau 17 tuần): 40 tiếng/ 1 phút.
+ Giữa học kỳ II (Sau 25 tuần): 45 tiếng/ 1 phút.
+ Cuối học kỳ II: 50- 55 tiếng/ 1 phút.
9/15
“RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2”
Ví dụ: Em Nguyễn Hữu Vương đọc to, rõ ràng nhưng đọc chưa nhanh
ngắt nghỉ không đúng theo yêu cầu của bài thơ, bài văn nên chưa đọc tốt.
Trong đọc đúng thì chất giọng đọc cũng rất quan trọng. Giọng đọc trong
và thanh thoát sẽ hay hơn giọng khàn, lí nhí,…
Cần hướng cho học sinh biết thể hiện bằng ánh mắt, nét mặt, cử chỉ khi
đọc sẽ giúp người nghe thấy hay hơn, gây sự chú ý hơn.
Ví dụ: Bài tập đọc: Voi nhà – Tuần 24 sách giáo khoa Tiếng Việt 2/ tập
2- trang 55.
“Tứ nhảy xuống nhìn, lắc đầu:
- Thế này thì hết cách rồi! (Lời buồn buồn)
Cần vội ngăn lại:
- Không được bắn! (Mệnh lệnh, dứt khoát)”
Ngoài việc hướng dẫn học sinh theo yêu cầu đọc đúng cần phải hướng
dẫn học sinh nắm bắt các dấu ngắt nghỉ trong bài (nhất là khi đọc) chú ý ngắt
nghỉ giữa các cụm từ trong câu ở chỗ thích hợp để đọc hay hơn.
Ví dụ: Bài thơ: Mẹ – Tuần 12 sách giáo khoa Tiếng Việt 2/ tập 1- trang
101.
“ Lặng rồi/ cả tiếng con ve/
Con ve cũng mệt/ vì hè nắng oi.//
Nhà em/ vẫn tiếng ạ ời/
Kẽo cà tiếng võng/ mẹ ngồi mẹ ru.//”
Với học sinh hoàn thành tốt thì việc rèn đọc đúng thuận lợi, song với
những học sinh ngọng âm, ngọng thanh rất ảnh hưởng đến chất lượng đọc. Giáo
viên phải thường xuyên sửa nhiều lần cho các em đó. Có thể phân đôi bạn học
tập, bạn đọc tốt kèm bạn trong các giờ học và giờ ra chơi giao tiếp với nhau.
Ví dụ: Em Triệu Trường Thành ngọng giữa thanh (~) và thanh (/). Em
đọc rất vất vả. Tôi đã kết hợp với gia đình cùng phối hợp luyện đọc cho em.
Trên lớp tôi thường xuyên gọi em đọc bài. Phát hiện những từ mà em đọc chưa
đúng. Giáo viên đọc phát âm chuẩn từ đó trước để em nghe và nhìn miệng cô
khi phát âm, sau đó cho em đọc lại đến khi đạt được yêu cầu thì mới thôi.
Ngoài ra, để đọc được đúng giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc hiểu.
Đây là một yêu cầu cần thiết đối với học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp
2 nói riêng. Các em hiểu được nội dung bài, hiểu được ý nghĩa một số từ khó thì
việc luyện đọc sẽ hay hơn, hiệu quả hơn.
10/15
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
skkn_ren_ki_nang_doc_cho_hoc_sinh_lop_2.pdf