SKKN Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên các trường trung học phổ thông huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An theo tiếp cận năng lực

Nghị quyết Đại hội đảng lần thứ XII nêu rõ “Tiếp tục đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối của Đảng” .
A. MỞ ĐẦU  
1. Lý do chọn đề tài  
Giáo dục phổ thông giữ vai trò là động lực thúc đẩy quá trình chuyển đổi và  
phát triển kinh tế, ổn định hội. Để thực hiện được bước đột phá mới trong giai  
đoạn hiện nay nhằm đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục phổ thông thì quản lý  
hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên phổ thông là nhiệm vhàng đầu, là  
trọng tâm trong quản nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, qua đó nâng  
cao chất lượng dạy học của nhà trường. Giáo dục phổ thông nước ta đang thực  
hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng  
lực của người học, nghĩa từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến  
chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều  
đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo  
lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện  
kỹ năng, hình thành năng lực phẩm chất; đồng thời phải chuyển cách đánh giá  
kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận  
dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng cả kiểm tra đánh giá kết quả học tập với  
kiểm tra đánh giá trong quá trình học tập đthể tác động kịp thời nhằm nâng cao  
chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục.  
Nghquyết Hi nghTrung ương 8 khóa XI về đổi mi căn bn, toàn din  
giáo dc và đào to xác định “Tiếp tc đổi mi mnh mđồng bcác yếu tcơ bn  
ca giáo dc, đào to theo hướng coi trng phát trin phm cht, năng lc ca người  
hc”; “Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công  
dân, phát hiện bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh.  
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục tưởng, truyền  
thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực kỹ năng thực hành, vận  
dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích  
học tập suốt đời”. Theo tinh thn đó, các yếu tca quá trình giáo dc trong nhà  
trường trung hc cn được tiếp cn theo hướng đổi mi.  
Nghquyết s44/NQ-CP, ngày 09/6/2014 Ban hành Chương trình hành động  
của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013  
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn  
diện giáo dục đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều  
kiện kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa hội nhập quốc tế xác định  
Đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục theo  
hướng đánh giá năng lực của người học; kết hợp đánh giá cả quá trình với đánh  
giá cuối kỳ học, cuối năm học theo mô hình của các nước nền giáo dục phát  
triển.  
1
Nghị quyết Đại hội đảng lần thứ XII nêu rõ Tiếp tục đổi mới nội dung giáo dục  
theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành  
nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân  
cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào  
những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa  
nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng HChí  
Minh, cương lĩnh, đường lối của Đảng.  
Vận dụng những luận nhiệm vụ đổi mới giáo dục phổ thông vào thực  
tiễn cho thấy, bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên các trường THPT đang còn  
nhiều vấn đề cần suy nghĩ, trăn trở, phải tìm cách tháo gỡ. Quỳ Hợp huyện miền  
núi của tỉnh Nghệ An, trong những năm qua chất lượng hiệu quả giáo dục THPT  
còn có những bất cập, trong đó có nguyên nhân từ công tác đồng bộ trong bồi  
dưỡng trình độ chuyên môn cho đội ngũ giáo viên. Những năm qua có một số nhà  
trường THPT trên địa bàn huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An đã cố gắng để đổi mới  
quản bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên, nhưng phần lớn thực hiện còn mang  
tính chủ quan, nội bộ, chưa hệ thống và giá trị thực tiễn chưa cao, thiếu đồng đều.  
Xuất phát từ cơ sở luận thực tiễn trên, chúng tôi chọn đề tài: “Quản hoạt  
động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên các trường trung học phổ thông  
huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An theo tiếp cận năng lực” để nghiên cứu.  
2. Mục đích nghiên cứu  
Trên cơ sở nghiên cứu luận thực tiễn quản bồi dưỡng chuyên môn cho  
giáo viên các trường THPT huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An theo tiếp cận năng lực,  
đề xuất một số biện pháp quản bồi dưỡng nhằm góp phần phát triển năng lực đội  
ngũ giáo viên, nâng cao chất lượng dạy học các nhà trường trong bối cảnh chuẩn bị  
triển khai Chương trình giáo dục phổ thông ban hành năm 2018.  
3. Nhiệm vụ phạm vi nghiên cứu  
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu  
5.1.1. Nghiên cứu cơ sở luận về quản hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho  
giáo viên trường THPT theo tiếp cận năng lực trong bối cảnh chuẩn bị triển khai  
Chương trình giáo dục phổ thông ban hành năm 2018.  
5.1.2. Khảo sát và đánh giá thực trạng quản hoạt động bồi dưỡng chuyên môn  
cho giáo viên các trường THPT huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An theo tiếp cận năng  
lực và các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý.  
5.1.3. Đề xuất các biện pháp quản hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo  
viên các trường trường THPT huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An theo tiếp cận năng  
lực.  
2
5.2. Phạm vi nghiên cứu  
- Về chủ thể quản lý: Tập trung nghiên cứu các biện pháp quản của Hiệu trưởng  
trường THPT trong quản hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên theo  
tiếp cận năng lực trong bối cảnh chuẩn bị triển khai Chương trình giáo dục phổ  
thông ban hành năm 2018.  
- Về địa bàn: Nghiên cứu tại 3 trường THPT huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An.  
- Về thời gian: Khảo sát thực trạng sự cần thiết, tính khả thi của các giải pháp đề  
xuất trong năm học 2019-2020.  
4. Phương pháp nghiên cứu  
4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu luận: Phân tích - tổng hợp, hệ thống hoá  
khái quát hoá, so sánh, mô hình hoá… các tài liệu luận và các văn bản pháp quy  
có liên quan về quản hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên theo tiếp  
cận năng lực trong bối cảnh chuẩn bị triển khai Chương trình giáo dục phổ thông  
ban hành năm 2018.  
4.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:  
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Xây dựng sử dụng các mẫu phiếu  
điều tra nhằm thu thập thông tin về năng lực của giáo viên, hoạt động bồi dưỡng  
chuyên môn và thực trạng quản hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên  
các trường THPT huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An theo tiếp cận năng lực.  
- Phương pháp quan sát: Sử dụng phương pháp này để quan sát các hoạt  
động bồi dưỡng chuyên môn, quản của Hiệu trưởng tổ trưởng/nhóm trưởng  
chuyên môn cho giáo viên trong các nhà trường THPT huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ  
An.  
- Phương pháp chuyên gia: Xây dựng mẫu phiếu xin ý kiến các CBQL có  
kinh nghiệm trong quản hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên các  
trường THPT huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An theo tiếp cận năng lực.  
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết các kinh nghiệm của các nhà  
quản lý và CBQL Sở GD&ĐT và các trường THPT trên địa bàn huyện Quỳ Hợp,  
tỉnh Nghệ An trong quá trình quản hoạt động bồi dưỡng chuyên môn và quản lý  
nhà trường.  
4.3. Phương pháp thống kê toán học: Dùng phương pháp toán học để phân tích, xử  
số liệu điều tra thu được.  
3
B. PHẦN NỘI DUNG  
Chương 1  
CƠ SỞ LUẬN CỦA QUẢN HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG CHUYÊN  
MÔN CHO GIÁO VIÊN CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG  
THEO TIẾP CẬN NĂNG LỰC  
1.1. Các nghiên cứu về dạy học theo hướng tiếp cận năng lực.  
Đào tạo tiếp cận năng lực hay còn được gọi GD&ĐT dựa trên năng lực một  
cách tiếp cận để giảng dạy học tập được sử dụng thường xuyên trong việc học  
các kỹ năng cụ thể hơn việc học một cách trừu tượng. Mô hình này được hình  
thành và phát triển rộng khắp tại Mỹ vào những năm 1970 và phát triển mạnh mẽ  
trong những năm 1990 hàng loạt các cơ sở GD và doanh nghiệp tại Mỹ, Anh, Úc,  
New Zealand. Sở dĩ sự phát triển mạnh mẽ này là do rất nhiều học giả và các  
nhà GD xem cách tiếp cận này là cách thức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất để tạo ra  
sự phù hợp giữa GD, đào tạo và nhu cầu về năng lực.  
Hiện nay, chủ yếu các công trình nghiên cứu tập trung vào tiếp cận năng lực học  
sinh. Cụ thể như:  
Harris et al (1995) cho rằng GD dựa trên năng lực phát huy tối đa năng lực riêng  
của mỗi học sinh, giúp học sinh tự tìm tòi, khám phá tri thức dựa trên sở thích và  
mối quan tâm riêng của chúng, giúp HS làm chủ tri thức vận dụng nó vào thực  
tế cuộc sống. GD dựa trên năng lực thúc đẩy tư duy sáng tạo, phản biện khả  
năng giải quyết vấn đề. nhấn mạnh đến các tình huống thực tế cuộc sống và  
thông qua để giải quyết các tình huống đó, kết quả từ những tình huống thực tiễn  
mà HS có thể rút ra kinh nghiệm và tri thức cho riêng mình.  
Năm 2008, trong dự án khuyến nghị cải cách GD trung học, VLOR đã đi một  
bước quyết định, khi đã tuyên bố rằng: Một ttrong những vai trò cốt yếu của GD  
trung học đảm bảo sự hòa nhập hội cho những người trẻ tuổi và cho phép họ  
“phát triển các năng lực ở mức độ nào đó để họ thể tiến triển theo cách được xã  
hội chấp nhận, trong một hội đang thay đổi nhanh chóng và trong cuộc sống  
nghề nghiệp”. Cúng trong tài liệu này, VLOR đánh giá rằng, tiếp cận năng lực là  
một trong những đòn bẫy chính giúp cho GD trung học thích nghi tốt hơn trước  
những thách thức của hội hiện đại (VOLR 2008).  
Gervais (2016) đã đưa ra một định nghĩa về GD dựa trên năng lực như sau: GD  
dựa trên năng lực được định nghĩa như một hướng tiếp cận dựa vào kết quả đầu  
ra của người học (outcome – based – education), kết hợp chặt chẽ giữa các phương  
thức giảng dạy và hình thức đánh giá được thiết kế nhằm đánh giá việc học của HS  
4
thông qua việc thể hiện kiến thức, thái độ, giá trị, kỹ năng và hành vi của chúng đối  
với yêu cầu đề ra ở mỗi trình độ.  
Theo Komensky, dạy học thế nào để giúp người học thích thú học tập và có  
những cố gắng bản thân để nắm lấy tri thức. Ông nói: Tôi thường BD cho HS của  
tôi tinh thần độc lập trong quan sát, trong đàm thoại và trong việc ứng dụng tri thức  
vào thực tiễn, ông cho rằng: GD có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán  
đoán đúng đắn, phát triển nhân cách … Hãy tìm ra phương pháp cho GV dạy ít  
hơn, HS được học nhiều hơn, GV đến trường để HS hỏi chứ không phải GV đến  
trường chỉ để hỏi học trò.  
Sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa đặt ra những yêu cầu  
mới đối với người lao động. vậy cũng đặt ra những yêu cầu mới cho sự nghiệp  
GD, đào tạo nguồn nhân lực. Để thoát khỏi sự tụt hậu, để theo kịp yêu cầu về thị  
trường lao động Việt Nam cũng phải đón nhận và tích cực đổi mới. Tại nghị  
Quyết Hội nghị TW VIII khóa XI/2011 về đổi mới căn bản toàn diện GD&ĐT nêu  
rõ: “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện đại, phát huy tính  
chủ động, tích cực, sáng tạo vận dụng kiến thức, kỹ năng người học. Khắc phục  
lối truyền thụ một chiều, ghi nhớ máy móc, tập trung dạy cách học, cách nghĩ,  
khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật đổi mới tri thức, kỹ  
năng phát triển năng lực”. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 cũng khẳng  
định: “lấy việc hình thành năng lực làm trung tâm làm mục tiêu đào tạo thay cho  
truyền thụ kiến thức”.  
thể nói dạy học theo tiếp cận năng lực một xu thế tất yếu trước hết việc  
trang bị năng lực sư phạm cho GV là việc làm tiên phong và nghiêm túc, được một  
số nhà sư phạm đã đánh giá qua quá trình nghiên cứu:  
Peter A.Hall và Alisa trong “Hình thành khả năng thành công cho giáo viên”  
(Building Teachers’s Capacity for Success) khẳng định: trong giáo dục, năng lực  
của giáo viên là sức mạnh quan trọng nhất hay giáo viên được xem là chìa khóa  
quan trọng của chất lượng sự thành công trong giáo dục ở bất khội nào.  
Về năng lực sư phạm của giáo viên, Ernesto Cuadra và Juan Manuel Moreno cùng  
cộng sự (World Bank 2005) đề xuất một bộ năng lực GV, gồm 3 nhóm năng lực  
với 12 năng lực cơ bản: nhóm năng lực trong lĩnh vực nghề nghiệp, nhóm năng lực  
trong lĩnh vực nghề nghiệp, nhóm năng lực trong lĩnh vực dạy học, nhóm năng lực  
trong lĩnh vực trường học.  
Tác giả Nguyễn Thị Bình trong báo cáo tổng kết đề tài độc lập cấp nhà nước:  
“Nghiên cứu đề xuất các giải pháp cải cách công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên  
phổ thông, cho rằng, GV phổ thông cần phải những năng lực nghề nghiệp gồm:  
năng lực tìm hiểu học sinh và môi trường giáo dục, năng lực giáo dục nhằm phát  
5
triển toàn diện nhân cách học sinh, năng lực dạy học môn học trong chương trình  
giáo dục, năng lực giao tiếp để thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học và giáo dục, năng  
lực đánh giá trong giáo dục, năng lực hoạt động hội, năng lực phát triển nghề  
nghiệp.  
Như vậy, đã một số nghiên cứu hiện nay đề cập đến vấn đề năng lực học sinh,  
năng lực giáo viên. Tuy nhiên, vấn đề bồi dưỡng giáo viên phổ thông theo tiếp cận  
năng lực chuẩn bị tốt đội ngũ cho chương trình phổ thông mới và qua đó nâng cao  
chất lượng giáo dục địa phương thì còn rất ít người đề cập đến.  
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài  
1.2.1. Quản lý nhà trường phổ thông  
Nhà trường với tư cách là một tổ chức GD cơ sở, vừa mang tính GD, vừa mang  
tính xã hội, trực tiếp đào tạo thế hệ trẻ, nó là tế bào chủ chốt của bất kỳ hệ thống  
GD ở bất kỳ cấp nào từ Trung Ương đến địa phương. Chính vì vậy nhà trường vừa  
là thành tố khách thể cơ bản của tất cả các cấp QLGD, vừa hệ thống độc lập tự  
quản của hội. Do đó quản lý nhà trường phải nhất thiết vừa có tính chất nhà  
nước, vừa có tính chất hội.  
Trong cuốn sách Một số vấn đề giáo dục – khoa học giáo dục, tiến sĩ Phạm Minh  
Hạc đã đưa ra khái niệm: “Quản lý nhà trường thực hiện đường lối giáo dục của  
Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình tức đưa nhà trường vận hành theo  
nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành  
giáo dục, với thế hệ trẻ với từng học sinh”.  
Tác giả Chu Mạnh Nguyên viết: “Quản lý nhà trường hệ thống những tác  
động sư phạm hợp lí và có hướng đích của chủ thể quản đến tập thể giáo viên,  
học sinh, các lực lượng hội trong và ngoài nhà trường nhằm huy động phối  
hợp sức lực, trí tuệ của họ vào mọi hoạt động của nhà trường hướng vào việc hoàn  
thành có chất lượng hiệu quả mục tiêu dự kiến ”.  
Trong nhà trường, hệ quản lý là lãnh đạo nhà trường, còn hệ bị quản lý là GV và  
HS. Quản lý nhà trường thực chất là quá trình quản của CBQL tác động đến quá  
trình dạy của GV, quá trình học của HS nhằm làm cho hoạt động dạy học từ trạng  
thái này chuyển sang trạng thái khác để nhằm đạt mục tiêu đào tạo.  
Như vậy, quản lý nhà trường hệ thống tác động mục đích, kế hoạch, hợp  
quy luật của chủ thể quản lý nhà trường đến đối tượng quản lý, làm cho nhà trường  
vận hành theo đường lối, quan điểm GD của Đảng, thực hiện mục tiêu kế hoạch  
đào tạo của nhà trường, góp phần thực hiện mục tiêu chung của GD: Nâng cao dân  
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.  
1.2.2. Hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên  
6
1.2.2.1. Bồi dưỡng  
Bồi dưỡng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:  
- Theo từ điển tiếng Việt: Xét về nghĩa tinh thần, bồi dưỡng là làm tăng thêm về  
năng lực, phẩm chất.  
- Theo từ điển tiếng Việt thông dụng: Xét về kiến thức nghiệp vụ, bồi dưỡng là làm  
cho tốt hơn, giỏi hơn.  
Nghị định 18/2010 NĐ-CP ngày 05/03/2010 của Chính phủ khẳng định: “BD là  
hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc”.  
Tác giả Trương Chính viết “Bồi dưỡng là rèn luyện thêm cho những người vốn có  
khả năng trthành những người giỏi hơn”.  
Theo một cách tổng quát, BD là quá trình nâng cao năng lực làm việc của người lao  
động thông qua việc bổ sung, trang bị kiến thức, kỹ năng, thái độ mới, đáp ứng yêu  
cầu nghề nghiệp vị trí việc làm của họ. Thực chất của quá trình BD là để bổ  
sung, cập nhật kiến thức kỹ năng còn thiếu hoặc lạc hậu nhằm nâng cao trình độ,  
phát triển thêm năng lực trong một lĩnh vực hoặc hoạt động CM, đồng thời nhằm  
mở mang và nâng cao tri thức, kỹ năng, kỹ xảo CM đã sẵn, giúp cho công việc  
đang làm đạt hiệu quả tốt hơn.  
1.2.2.2. Bồi dưỡng chuyên môn  
“Bồi dưỡng chuyên môn” là BD kiến thức, kỹ năng tay nghề, năng lực mới, chuyên  
sâu hay nâng cao của một ngành khoa học, kỹ thuật nào đấy.  
BDCM cho GV là các hoạt động giúp GV cập nhật kiến thức mới, chuyên sâu hay  
nâng cao năng lực về dạy học và GD theo yêu cầu của ngành học, bậc học, của xã  
hội thời đại. Hoạt động BDCM đối với một GV là thường xuyên, liên tục trong  
quá trình hoạt động nghề nghiệp của người GV, kế thừa và phát triển những năng  
lực đã được hình thành trước đây; GV là chủ thể đối tượng được BD hoặc chủ  
động tự BD, tự học trong quá trình BDCM.  
Đối với GV THPT, BDCM là giúp GV nắm vững hay lĩnh hội thêm những kiến  
thức khoa học cơ bản, khoa học chuyên ngành, khoa học sư phạm có liên quan,  
phát tiển năng lực dạy học các môn học trong chương trình THPT để họ đáp ứng  
tốt hơn các yêu cầu của đối tượng HS, yêu cầu đổi mới GD của cấp học, bậc học.  
1.2.3. Năng lực tiếp cận năng lực  
Chương trình giáo dục định hướng năng lực (định hướng phát triển năng lực)  
nay còn gọi dạy học định hướng kết quả đầu ra được bàn đến nhiều từ những  
năm 90 của thế kỷ 20 và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Giáo  
dục định hướng năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học.  
7
Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy  
học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng  
năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con  
người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống nghề nghiệp. Chương  
trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận  
thức.  
Khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình dạy học định  
hướng năng lực tập trung vào việc tả chất lượng đầu ra, có thể coi là “sản phẩm  
cuối cùng” của quá trình dạy học. Việc quản chất lượng dạy học chuyển từ việc  
điều khiển đầu vào” sang “điều khiển đầu ra”, tức kết quả học tập của học sinh.  
Chương trình dạy học định hướng năng lực không quy định những nội dung  
dạy học chi tiết mà quy định những kết quả đầu ra mong muốn của quá trình giáo  
dục, trên cở sở đó đưa ra những hướng dẫn chung về việc lựa chọn nội dung,  
phương pháp, tổ chức đánh giá kết quả dạy học nhằm đảm bảo thực hiện được  
mục tiêu dạy học tức đạt được kết quả đầu ra mong muốn. Trong chương trình  
định hướng năng lực, mục tiêu học tập, tức kết quả học tập mong muốn thường  
được tả thông qua hệ thống các năng lực (Competency). Kết quả học tập mong  
muốn được tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được. Học sinh cần đạt được  
những kết quả yêu cầu đã quy định trong chương trình. Việc đưa ra các chuẩn đào  
tạo cũng nhằm đảm bảo quản chất lượng giáo dục theo định hướng kết quả  
đầu ra.  
Ưu điểm của chương trình giáo dục định hướng năng lực tạo điều kiện  
quản chất lượng theo kết quả đầu ra đã quy định, nhấn mạnh năng lực vận dụng  
của học sinh. Tuy nhiên nếu vận dụng một cách thiên lệch, không chú ý đầy đủ đến  
nội dung dạy học thì có thể dẫn đến các lỗ hổng tri thức cơ bản và tính hệ thống của  
tri thức. Ngoài ra chất lượng giáo dục không chỉ thể hiện ở kết quả đầu ra mà còn  
phụ thuộc quá trình thực hiện.  
1.2.3.1. Năng lực  
rất nhiều chuyên gia trong các lĩnh vực hội học, GD, triết học, tâm lý học và  
kinh tế học đã định nghĩa khái niệm năng lực. Tại Hội nghị chuyên đề về những  
năng lực cơ bản của Hội đồng châu Âu, sau khi phân tích nhiều định nghĩa về năng  
lực, F.E. Weinert (OECD, 2001) kết luận:  
Xuyên suốt các môn học “năng lực được thể hiện như một hệ thống, khả năng, sự  
thành thạo hoặc những kỹ năng thiết yếu, thể giúp con người đủ điều kiện vươn  
tới một mục đích cụ thể”. Cũng tại diễn đàn này, J Coolahan (Ủy ban châu Âu  
1996) cho rằng: Năng lực được xem như “những khả năng cơ bản dựa trên cơ sở  
8
tri thức, kinh nghiệm, các giá trị và thiên hướng của một con người được phát triển  
thông qua thực hành GD”.  
Trong cuốn Công nghệ giáo dục kỹ thuật dạy nghề (nguyên bản tiếng Pháp đã  
được dịch sang tiếng Việt), Bộ Giáo dục Quebec Canada định nghĩa năng lực là:  
“khả năng thực hiện một nhiệm vụ trọn vẹn, đạt chuẩn kỹ năng tương ứng với  
ngưỡng quy định khi bước vào thực tế lao động”.  
Tác giả Đặng Thành Hưng cho rằng, về mặt thực hiện, kỹ năng phản ánh năng lực  
làm cho tri thức phản ánh năng lực nghĩ và thái độ phản ánh năng lực cảm nhận.  
Năng lực là: “tổ hợp những hành động vật chất và tinh thần tương ứng với dạng  
hoạt động nhất định dựa vào những thuộc tính cá nhân (sinh học, tâm lý và giá trị  
hội) được thực hiện tự giác và dẫn đến kết quả phù hợp với trình độ thực tế của  
hoạt động”.  
Trong chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực, khái niệm năng  
lực được sử dụng như sau:  
- Năng lực liên quan đến bình diện mục tiêu của dạy học: mục tiêu dạy học  
được tả thông qua các năng lực cần hình thành;  
- Trong các môn học, những nội dung và hoạt động cơ bản được liên kết với  
nhau nhằm hình thành các năng lực;  
- Năng lực sự kết nối tri thức, hiểu biết, khả năng, mong muốn...;  
- Mục tiêu hình thành năng lực định hướng cho việc lựa chọn, đánh giá mức  
độ quan trọng cấu trúc hóa các nội dung và hoạt động và hành động dạy học về  
mặt phương pháp;  
- Năng lực tả việc giải quyết những đòi hỏi về nội dung trong các tình  
huống: dụ như đọc một văn bản cụ thể ... Nắm vững vận dụng được các phép  
tính cơ bản ...;  
- Các năng lực chung cùng với các năng lực chuyên môn tạo thành nền tảng  
chung cho công việc giáo dục dạy học;  
- Mức độ đối với sự phát triển năng lực thể được xác định trong các  
chuẩn: Đến một thời điểm nhất định nào đó, học sinh có thể/phải đạt được những  
gì?  
Như vậy, thể thấy dù cách phát biểu có khác nhau, nhưng các cách hiểu trên đều  
khẳng định: Năng lực khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kỹ năng, thái  
độ vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lý vào thực hiện thành công nhiệm vụ  
hoặc giải quyết hiệu quả vấn đề đặt ra của cuộc sống  
1.2.3.2. Tiếp cận năng lực  
9
Theo Đặng Thành Hưng “GD theo tiếp cận năng lực” kiểu GD có 2 mặt:  
1/ Xem năng lực mục tiêu đào tạo, kết quả GD;  
2/ Xem năng lực nền tảng, chỗ dựa của GD, tức là GD phải dựa vào năng lực  
người học, đặc biệt là kinh nghiệm nền tảng và kinh nghiệm thường trực được huy  
động thuộc vùng cận phát triển (L.X. Vygotsky).  
Thứ nhất, dựa trên quan điểm này có thể hiểu rằng muốn GD theo tiếp cận năng  
lực trước hết cần xác định mục tiêu GD/kết quả GD dưới dạng năng lực. Năng lực  
thể hiện rõ ràng dựa trên kết quả người học giải quyết các vấn đề thực tiễn, lúc  
này tri thức không còn ở dạng thuyết mà chính là điều kiện cần thiết để người ta  
thực hiện được dạng hoạt động nào đó trên thực tế. GD theo tiếp cận năng lực tránh  
được lối giáo dục rao giảng, giáo điều, nói được nhưng không làm được. GD có  
nhiệm vụ cơ bản là giúp cho người học được các năng lực. thế GD không chỉ  
cung cấp tri thức chủ yếu là rèn luyện kỹ năng, nuôi dưỡng tâm hồn, tình cảm  
đúng đắn.  
Thứ hai, GD theo tiếp cận năng lực cho rằng muốn giúp người học học tập, rèn  
luyện để đạt được các năng lực thì phải coi trọng dựa vào năng lực đã của họ.  
Điều này phù hợp với thuyết vùng cận phát triển của L.X. Vygotsky, dỵ học phải  
dựa vào kinh nghiệm nền tảng của cá nhân người học mới mang lại kết quả tốt.  
Bản chất của QL BDCM GV theo tiếp cận năng lực chính là điều khiển, gây ảnh  
hưởng đến các lực lượng tham gia công tác BD giúp cho họ hiểu thực hiện quá  
trình BD theo tiếp cận năng lực để đạt được hiệu quả BD cao hơn. Muốn vậy các  
nội dung BD cần phải lựa chọn sao cho có thể giúp cho GV đạt được các năng lực  
cần thiết. Bên cạnh đó, trong quá trình BDCM cho GV thì cần thực hiện triệt để tư  
tưởng dựa vào năng lực của người học, kinh nghiệm đã của họ để thực hiện BD  
hiệu quả hơn. Cụ thể, mục tiêu BD cần phải được xử lý thành các năng lực cần thiết  
của GV trên cơ sở đó lựa chọn nội dung cần thiết BD và sử dụng phương pháp BD  
thích hợp gắn với kinh nghiệm hiểu biết của họ.  
Tiếp cận năng lực thực chất những định hướng, quan điểm tiếp cận đầu ra, lấy  
năng lực như một yếu tố của quá trình đánh giá, nghiên cứu, đào tạo nào đó.  
Tiếp cận dựa trên năng lực là:  
1/ Tiếp cận năng lực chú trọng vào kết quả (outcomes) đầu ra.  
2/ Tiếp cận năng lực tạo ra những linh hoạt trong việc đạt tới những kết quả đầu ra,  
theo những cách thức riêng phù hợp với đặc điểm và hoàn cảnh của cá nhân.  
3/ Đào tạo theo tiếp cận năng lực cho phép cá nhân hóa việc học: trên cơ sở mô  
hình năng lực, người học sẽ bổ sung những thiếu hụt của cá nhân để thực hiện  
những nhiệm vụ cụ thể của mình.  
10  
Hơn nữa, tiếp cận năng lực còn tạo khả năng cho việc xác định một cách rõ ràng  
những cần đạt được những tiêu chuẩn cho việc đo lường các thành quả. Việc  
chú trọng vào kết quả đầu ra và những tiêu chuẩn đo lường khách quan (tiêu chuẩn  
nghề) của những năng lực cần thiết để tạo ra các kết quả này là điểm được các nhà  
hoạch định chính sách giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đặc biệt quan  
tâm nhấn mạnh.  
1.2.4. Quản hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên các trường THPT  
theo tiếp cận năng lực  
QL hoạt động BDCM cho GV là việc thực hiện các chức năng quản lý trong quá  
trình tổ chức BDGV, từ việc lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển đến khâu kiểm tra,  
đánh giá để công tác BDCM cho ĐNGV đạt được mục tiêu và hiệu quả.  
BD ĐNGV về năng lực CM, nghiệp vụ là yêu cầu thường xuyên, liên tục đối với  
nghề dạy học. Kết quả của hoạt động BD có ý nghĩa quyết định đối với chất lượng  
giảng dạy của nhà trường với bản thân GV. Để công tác BDCM có hiệu quả,  
Hiệu trưởng cần đánh giá đúng tình hình, thực trạng năng lực đội ngũ, GV cần xác  
định được nhu cầu BD của bản thân về nội dung, mức độ cần đạt, trên cơ sở đó,  
Hiệu trưởng xây dựng kế hoạch BD của nhà trường đxác định nội dung, thời gian,  
đối tượng… BD.  
QL hoạt động BDCM cho ĐNGV hệ thống các tác động hướng đích của chủ thể  
QL các cấp đến đối tượng QL trong hoạt động BD GV nhằm giúp người GV nâng  
cao kiến thức, năng lực CM, đáp ứng yêu cầu của nhà trường, của hội thời  
đại.  
Như vậy, QL hoạt động BDCM trong một nhà trường là quá trình tác động, điều  
khiển, phối hợp từ Hiệu trưởng đến đội ngũ cán bộ, GV trong nhà trường thông  
qua các biện pháp, nhằm giúp GV nâng cao trình độ CM, cập nhật các kiến thức và  
kỹ năng cơ bản cần thiết cho việc dạy học, GD.  
nhiều cách tiếp cận khác nhau khi xác định các nội dung QL hoạt động BDCM  
cho GV:  
- Theo chức năng quản : Lập kế hoạch hoạt động BDCM; tổ chức thực hiện kế  
hoạch; chỉ đạo thực hiện kế hoạch; kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch.  
- Theo quan điểm hệ thống: QL các yếu tố đầu vào của hoạt đọng BDCM như:  
Đội ngũ (người đi BD, người được BD), chương trình BD, CSVC, tài liệu, tài  
chính,.. phục vụ BD, QL quá trình BD, QL việc kiểm tra, đánh giá kết quả BD.  
- Theo các thành tố của hoạt động BD: QL việc thực hiện mục tiêu BD, QL việc  
thực hiện chương trình, kế hoạch BD, QL việc sử dung phương pháp và hình  
thức BD, QL việc kiểm tra, đánh giá BD.  
11  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 100 trang minhvan 20/04/2024 950
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên các trường trung học phổ thông huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An theo tiếp cận năng lực", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_quan_ly_hoat_dong_boi_duong_chuyen_mon_cho_giao_vien_ca.doc