SKKN Phương pháp thiết kế bài tập bổ trợ cho kĩ năng nói và một số dạng bài tập ứng dụng

Ngày nay Tiếng Anh đang đóng một vai trò rất quan trọng trong mọi lĩnh vực. Nó được coi là chìa khóa cho sự phát triển, đổi mới và hội nhập toàn cầu. Nhu cầu sử dụng Tiếng Anh để giao tiếp là rất cần thiết và ngày càng được coi trọng. Do vậy việc dạy Tiếng Anh đang là vấn đề được các nhà giáo dục quan tâm.
Phần thứ nhất  
MỞ ĐẦU  
I. Lý do chọn đề tài  
Ngày nay Tiếng Anh đang đóng một vai trò rất quan trọng trong mọi lĩnh  
vực. được coi là chìa khóa cho sự phát triển, đổi mới hội nhập toàn cầu. Nhu  
cầu sử dụng Tiếng Anh để giao tiếp rất cần thiết và ngày càng được coi trọng.  
Do vậy việc dạy Tiếng Anh đang vấn đề được các nhà giáo dục quan tâm.  
Tuy vậy trên thực tế, khả năng nói Tiếng Anh của học sinh các  
trường THPT, đặc biệt các các tỉnh miền núi như Bắc Giang là khá thấp. Mặc  
được các thày cô giảng dạy nhiệt tình, bản thân đã qua nhiều năm học Tiếng  
Anh ở cấp THCS, nhiều em vẫn còn khá lúng túng, thiếu tự tin khi giao tiếp bằng  
Tiếng Anh. Vậy nguyên nhân ở đâu?  
Nguyên nhân thứ nhất lẽ nằm ở thực tế là các em học sinh không có cơ  
hội giao tiếp với người nước ngoài khiến phản xạ nói Tiếng Anh của các em chưa  
nhanh.  
Nguyên nhân thứ hai là cách dạy ngoại ngữ hiện nay của chúng ta vẫn còn  
quá thiên về dạy ngữ pháp mà chưa chú trọng đến sự tương tác trong giao tiếp giữa  
học sinh với giáo viên, giữa học sinh với học sinh. Giáo viên vẫn người quản lý  
các hoạt động của giờ học chứ chưa hoàn toàn áp dụng được phương pháp lấy  
người học làm trung tâm. Bên cạch đó, giáo viên chỉ một cuốn sách giáo khoa,  
một cuốn sách hướng dẫn một số sách ngữ pháp,.. những tài liệu đó chưa đủ để  
phát huy hiệu quả công việc giao tiếp trong một lớp học kĩ năng giao tiếp.  
Xuất phát từ thực tế trên tôi chọn đề tài: “Phương pháp thiết kế bài tập bổ  
trợ cho kĩ năng nói và một số dạng bài tập ứng dụng” làm nội dung nghiên cứu  
của chuyên đề.  
1
II. Mục tiêu nghiên cứu  
Đề tài này được thực hiện nhằm tìm hiểu phương pháp thiết kế bài tập bổ trợ  
cho kĩ năng nói phù hợp, đồng thời đề xuất một số dạng bài tập bổ trợ cho kĩ năng  
nói. Hi vọng đây sẽ một tài liệu hữu ích cho các thày cô trong quá trình giảng  
dạy.  
III. Phạm vi nghiên cứu  
Trong đề tài này, tôi chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu chung về phương pháp  
thiết kế bài tập bổ trợ cho kỹ năng nói và đưa ra một số dạng bài tập bổ trợ cho kĩ  
năng nói điển hình.  
IV. Phương pháp nghiên cứu  
Để thực hiện đề tài, tôi đã kết hợp sử dụng những phương pháp nghiên cứu lí  
luận (khai thác thông tin khoa học về phương pháp lí luận qua sách, tài liệu có liên  
quan), phương pháp quan sát (trực tiếp tìm hiểu về tình hình dạy học Tiếng Anh  
qua những tiết dự giờ thăm lớp), phương pháp đàm thoại (trao đổi với học sinh,  
giáo viên để tìm hiểu thông tin)  
V. Cấu trúc của đề tài  
Đề tài gồm ba phần chính:  
Phần thứ nhất: Mở đầu. Bao gồm lý do chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu của  
đề tài, phạm vi nghiên cứu của đề tài, phương pháp nghiên cứu thiết kế của đề  
tài.  
Phần thứ hai: Nội dung.  
Bao gồm 2 chương:  
Chương 1: Cơ sở luận thực tiễn bao gồm một số quan điểm về kỹ năng  
nói, các vấn đề liên quan đến kỹ năng dạy nói và thực trạng của việc dạy học  
ngoại ngữ các trường THPT tỉnh Bắc Giang.  
2
Chương 2: Phương pháp thiết kế bài tập bổ trợ cho kĩ năng nói và một số  
dạng bài tập ứng dụng.  
Chương 3: Thiết kế mẫu các bài tập bổ trợ cho kỹ năng nói theo bài học.  
Phần thứ ba: Kết luận: Tóm tắt đề tài, chỉ ra một số hạn chế của đề tài, đồng  
thời đề xuất một số hướng nghiên cứu thêm.  
3
Phần thứ hai  
NỘI DUNG  
Chương I  
CỞ SỞ LUẬN THỰC TIỄN  
I.1. Cở sở luận:  
I.1.1. Kỹ năng nói là gì?  
Nói là một quá trình tương tác có liên quan đến việc sản sinh, tiếp nhận và  
xử lý thông tin. Hình thức và ý nghĩa của phụ thuộc vào ngữ cảnh, gồm những  
người tham gia, kinh nghiệm của họ, môi trường giao tiếp mục đích nói.  
(Brown, 1994)  
Trong bốn kỹ năng (nghe, nói, đọc, viết), kỹ năng nói được coi là cách  
ngắn gọn hiệu quả nhất để mọi người giao tiếp với nhau. Do đó kỹ năng nói  
được quan tâm ngay từ giai đoạn đầu của quá trình học ngoại ngữ.  
I.1.2. Bản chất của việc dạy kỹ năng nói:  
Kỹ năng nói là kỹ năng sản sinh (productive skills).Trong bài học kỹ năng  
nói, học sinh phải được cung cấp ngữ liệu, sau đó luyện tập các ngữ liệu cuối  
cùng phải sử dụng được ngữ liệu để diễn đạt ý tưởng của mình theo nội dung chủ  
đề nhất định một cách tự do. Như vậy việc cung cấp ngữ liệu cần thiết, làm tiền  
đề cho việc luyện tập. Nhưng quan trọng nhất cuối cùng học sinh phải vận dụng  
được ngữ liệu đó để nói.  
Để bài luyện nói đạt hiệu quả cao, các hoạt động luyện tập cần phải thú vị,  
hấp dẫn và có ý nghĩa, sát thực với đời sống và hoàn cảnh của học sinh. Bên cạnh  
đó cũng cần thiết kế các hoạt động có tính thách thức hoặc tạo khí thế thi đua giữa  
4
các cá nhân, các cặp hay nhóm học sinh bằng cách khuyến khích động viên cho  
điểm, phần thưởng cho những bài nói hay.  
I.1.3. Đặc điểm của bài luyện nói hiệu quả:  
Richard (1985) đề cập đến hai tiêu chí để đánh giá sự thành công của bài  
luyện nói : độ chính xác và sự lưu loát. Độ chính xác ở đây bao gồm việc sử dụng  
từ vựng, ngpháp và ngữ âm đúng. Trong khi đó sự lưu loát được hiểu khả năng  
duy trì lời nói trôi chảy một cách tự nhiên. Sau mỗi hoạt động giao tiếp, người học  
phải đạt được kiến thức về từ vựng, ngữ pháp, ngữ âm ở một mức độ nhất định  
cũng như đạt được sự lưu loát cần thiết. Cũng như Nunan (1989), Richard (1985)  
xem độ chính xác và sự lưu loát là hai yếu tố độc lập trong hoạt động nói.  
Trong khi đó, theo Penny Ur (1996), có bốn tính năng tả sự thành công  
của bài luyện nói. Đó sự mặt, sự tham gia, động lực và trình độ ngôn ngữ của  
người học. Yếu tố đầu tiên là sự mặt của người học. Trong giờ học, nếu học sinh  
được nói nhiều, điều đó nghĩa họ đang thống trị quá trình học tập. Rõ ràng  
yếu tố này cũng một trong những đặc điểm của phương pháp giảng dạy giao tiếp  
(CLT) : ‘Người học làm trung tâm của quá trình học tập’. Giáo viên chỉ đóng vai  
trò là người hỗ trợ và giám sát viên trong khi học sinh được khuyến khích để nói  
phần lớn thời gian trong các hoạt động nói. Yếu tố thhai là sự tham gia của người  
học. Một hoạt động nói thành công phải tạo cơ hội cho các học sinh đều được nói  
đóng góp vào vấn đề thảo luận một cách bình đẳng. Bên cạnh đó, động lực nói  
cao cũng một trong những đặc điểm làm cho hoạt động nói thành công. Bằng  
cách sử dụng các bài tập mang tính khích lệ, giáo viên lôi cuốn học sinh vào hoạt  
động giao tiếp, khiến các em quan tâm đến chủ đhăng hái nói vì có ý muốn nói  
ra. Đặc điểm cuối cùng của một bài luyện nói hiệu quả mức độ chính xác ngôn  
ngữ thể chấp nhận được. Nếu ngôn ngữ quá dễ dàng thì học sinh sẽ không tích  
cực tham gia. Ngược lại nếu ngôn ngữ quá khó thì học sinh sẽ dễ chán và có thể bỏ  
5
học. Với một chủ đề tập trung, học sinh có thể hiểu được nhau ở một mức độ chính  
xác về ngôn ngữ vừa phải, không cần đạt mức chính xác cao. Rõ ràng với quan  
điểm này, Ur (1996) có xu hướng phát triển kỹ năng thực hành giao tiếp trôi chảy  
lưu loát hơn thực hành giao tiếp chính xác.  
I.1.4. Một số vấn đề thường gặp trong luyện nói và giải pháp:  
I.1.4.1. Một số vấn đề thường gặp trong luyện nói:  
Vấn đề đầu tiên là tâm lý ức chế của học sinh. Khác với hoạt động nghe, đọc,  
viết, hoạt động nói đòi hỏi phải thể hiện khả năng giao tiếp với người nghe. Đôi khi  
học sinh có thể cảm thấy khó nói được điều bằng ngoại ngữ trong lớp học bản  
chất nhút nhát hoặc vì tâm lý ngại mắc lỗi, sợ bị chúng bạn chê cười, sợ bị mất mặt.  
Vấn đề thứ hai là không có gì để nói. Ngay cả khi học sinh không ngại ngần  
khi nói, chúng ta vẫn nghe các em trình bày rằng các em không thể nghĩ ra điều gì  
để nói. Điều này thường là do thiếu động cơ nói.  
Vấn đề thứ ba là không có cơ hội nói. Nói cách khác đó chính là sự tham gia  
không đồng đều của các thành viên trong lớp. Trong một nhóm càng lớn thì  
khoảng thời gian dành cho mỗi cá nhân càng hạn chế. Thực tế với một lớp đông,  
một số học sinh ít có hoặc không có cơ hội nói do một số nhỏ học sinh nói nhiều  
chiếm gần hết thời gian.  
Vấn đề thứ tư sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ. Thực vậy, học sinh thường có xu  
hướng dùng tiếng mẹ đcảm thấy phát biểu dễ dàng hơn tự nhiên hơn khi nói  
tiếng mẹ đẻ so với ngoại ngữ.  
I.1.4.2. Một số giải pháp cho vấn đề:  
Giải pháp thứ nhất : dùng cách luyện nói theo nhóm. Cách này làm tăng thời  
lượng học sinh nói tại lớp, đồng thời giảm sự ức chế về tâm lý đối với người học  
khi họ không phải nói trước cả tập thể lớp đông.  
6
Thứ hai, nên chọn ngữ liệu dễ. Ngữ liệu cần để tiến hành thảo luận nên ở  
mức độ dễ. Lúc đó, học sinh sẽ thấy dễ dàng nhớ lại sản sinh ngôn ngữ, từ đó  
nói được trôi chảy. Nếu bài học ngữ liệu mới hoặc khó, giáo viên nên dạy trước  
khi bắt đầu luyện nói.  
Thứ ba, chọn bài luyện cẩn thận để tạo hứng thú. Giáo viên nên chọn hình  
thức luyện học sinh quan tâm, thích thú tham gia thảo luận. Với giải pháp này,  
giáo viên đã tạo động cao cho hoạt động luyện nói.  
Thứ tư, cần nêu lời hướng dẫn hoặc kỹ năng thảo luận thật rõ ràng. Giáo viên  
cần nói rõ học sinh phải làm gì và phân vai rõ ràng cụ thể cho học sinh. Điều này  
giúp học sinh tránh được tình huống không biết phải làm gì hoặc không có gì để  
nói.  
Thứ năm, cần có cách sửa lỗi phù hợp. Trong các dạng luyện nói có kiểm  
soát, giáo viên thường sửa lỗi để đạt mức chính xác. Tuy nhiên giai đoạn nói tự  
do, giáo viên không nên làm như vậy mục tiêu lúc này là đạt mức độ lưu loát.  
Vậy tùy theo giai đoạn luyện nói mà giáo viên có cách sửa lỗi phù hợp. Khi sửa lỗi,  
không nên công khai tên của học sinh mắc lỗi, tránh làm học sinh cảm thấy xấu hổ  
dẫn đến tâm lý ức chế khi nói.  
I.2. Cở sở thực tiễn: Thực trạng của việc dạy học ngoại ngữ ở các  
trường THPT tỉnh Bắc Giang  
I.2.1. Sách giáo khoa  
Hiện nay có ba loại sách giáo khoa Tiếng Anh đang được sử dụng tại các  
trường THPT tỉnh Bắc Giang. Thứ nhất là sách giáo khoa Tiếng Anh nâng cao  
được dùng cho những lớp chọn khối D ở một số trường THPT, lớp chuyên và cận  
chuyên ở trường THPT Chuyên. Thứ hai là sách giáo khoa Tiếng Anh cơ bản dùng  
cho các lớp thường ở các trường THPT và các lớp xa chuyên THPT Chuyên. Cả  
7
hai loại sách đều được thiết kế khá phù hợp với trình độ của học sinh, gồm 16 bài  
học ứng với 16 chủ đề khác nhau. Mỗi bài học đều tập trung phát triển bốn kỹ năng  
nghe, nói, đọc, viết. Các kỹ năng có yêu cầu mục đích cụ thể nhưng không  
tách rời nhau và đều hướng về chủ đề của bài học. Ngoài ra còn một bộ sách giáo  
khoa thí điểm đang được triển khai ở một số trường trọng điểm. Bộ sách này gồm  
10 bài học với 10 chủ điểm, mỗi bài học được chia làm 8 phần với mục đích phát  
triển các kĩ năng giao tiếp cho học sinh.  
Bên cạnh việc cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về đất nước,  
con người, văn hóa, xã hội của những nước nói Tiếng Anh trong khu vực thế  
giới nói chung và Việt nam nói riêng, sách giáo khoa cũng cung cấp cho học sinh  
những cấu trúc câu giao tiếp cơ bản, giúp các em vận dụng vào cuộc sống. Nhìn  
chung nội dung chương trình sách giáo khoa hay, cập nhật, song mức độ khó cao  
hơn đặc biệt bộ sách giáo khoa thí điểm đòi hỏi học sinh đã đạt được một mức độ  
kiến thức nhất định mới đáp ứng được yêu cầu.  
I.2.2. Đối tượng học sinh  
Hầu hết các em học sinh các trường THPT trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đều  
đã được học Tiếng Anh ở cấp THCS. Việc tiếp cận với ngoại ngữ sớm giúp các em  
nhanh chóng thích nghi với môi trường và giáo trình mới. Tuy vậy trình độ ngoại  
ngữ của các em ở đa số các lớp học không đồng đều. .Đặc điểm chung của học sinh  
Việt Nam là còn rụt rè trong giao tiếp, ngại ngùng khi nói Tiếng Anh. Điều này đã  
tạo ra những khó khăn trong quá trình dạy học ngoại ngữ.  
I.2.3. Môi trường dạy học ngoại ngữ  
Do vai trò của Tiếng Anh ngày càng quan trọng trong xã hội nên những năm  
gần đây các cấp lãnh đạo, các ban ngành của tỉnh Sở GD-ĐT đặc biệt quan tâm  
đến công tác dạy học ngoại ngữ ở các trường. Nhiều kinh phí được đầu tư cho  
8
cơ sở vật chất phục vụ cho việc giảng dạy. Đến nay đa số các trường THPT đều  
trang bị khá đầy đủ về máy chiếu (projector), máy tính, và một số trang thiết bị  
khác. Bên cạnh đó thư viện của các trường cũng nhiều đầu sách tiếng nước  
ngoài về các lĩnh vực khác nhau giúp giáo viên và học sinh có tư liệu phục vụ cho  
học tập. Song song với việc trang bị cơ sở vật chất, Sở GD-ĐT cũng chú trọng đào  
tạo đội ngũ cán bộ giáo viên ngoại ngữ. Hàng năm đều những lớp học bồi dưỡng  
thường xuyên được tổ chức nhằm nâng cao năng lực chuyên môn cho giáo viên.  
Bên cạnh những thuận lợi, việc học dạy ngoại ngữ ở tỉnh Bắc Giang vẫn  
còn một số bất cập. Thứ nhất, các em học sinh học trong môi trường không có yếu  
tố người nước ngoài nên cơ hội thực hành giao tiếp thực tế là không có. Thứ hai,  
mặc Sở GD-ĐT Bắc Giang rất chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ giáo viên ngoại  
ngữ, số giáo viên chưa đạt chuẩn vẫn còn khá nhiều. Điều này cũng gây không ít  
khó khăn trong quá trình dạy học ngoại ngữ, đặc biệt là trong việc dạy học kĩ  
năng nói tiếng Anh.  
9
Chương II  
PHƯƠNG PHÁP THIẾT KẾ BÀI TẬP BỔ TRỢ CHO KỸ NĂNG  
NÓI VÀ MỘT SỐ DẠNG BÀI TẬP ỨNG DỤNG  
II.1. Phương pháp thiết kế bài tập bổ trợ cho kỹ năng nói:  
Phương pháp giao tiếp trong dạy học ngoại ngữ coi trọng việc lấy người học  
làm trung tâm với mục đích tăng cường khả năng giao tiếp của người học. Bởi vậy  
khi thiết kế các bài tập bổ trợ cho kỹ năng nói, giáo viên cần coi trọng việc thu hút  
sự tham gia tích cực của học sinh vào các hoạt động rèn luyện kỹ năng thực hành  
khẩu ngữ trong và ngoài lớp học, xây dựng cho họ cách học độc lập sáng tạo, có  
tính tự giác và hiệu quả.  
II.1.1. Một số yếu tố cần quan tâm khi thiết kế các bài tập bổ trợ  
cho kỹ năng nói:  
Jocelyn Howard và Jae Major (Christchurch College of Education) cho rằng  
bốn yếu tố cần quan tâm khi thiết kế các bài tập bổ trcho kỹ năng nói.  
Yếu tố đầu tiên, cũng yếu tố quan trọng nhất cần quan tâm chính là người  
học. Thực vậy, muốn thiết kế được những bài tập phù hợp, thú vị, có tính khuyến  
khích và đáp ứng được nhu cầu của người học thì giáo viên cần hiểu về sở thích,  
nhu cầu, kinh nghiệm sống cũng như mục đích học Tiếng Anh của người học.  
Yếu tố thứ hai là chương trình sách giáo khoa. Dù ở bất cứ cấp độ nào, một  
chương trình bao giờ cũng vạch ra mục tiêu cần đạt được đối với người học và  
khóa học. Do vậy khi thiết kế bài tập bổ trợ cho kỹ năng nói, giáo viên cần bám sát  
với chương trình sách giáo khoa để đạt được mục tiêu đã đề ra.  
Bên cạnh đó nguồn tài liệu cơ sở vật chất cũng một yếu tố cần xem xét.  
Rõ ràng giáo viên cần nhận thức một cách thực tế về điều họ thể đạt được trong  
giới hạn cho phép của nguồn tài liệu cũng như điều kiện cơ sở vật chất. Sự tiếp cận  
10  
với những trang thiết bị hiện đại như máy tính, máy in, đài đĩa, máy ảnh kỹ thuật  
số, bảng thông minh, máy chiếu đa năng,… sẽ làm tăng khả năng sáng tạo cho giáo  
viên trong quá trình thiết kế bài tập.  
Yếu tố thứ tư sự tự tin và năng lực cá nhân của giáo viên. Yếu tố này sẽ  
quyết định lòng nhiệt tình, sự sẵn sàng bắt tay vào công việc thiết kế. Yếu tố này bị  
ảnh hưởng bởi kinh nghiệm dạy học, sức sáng tạo cũng như hiểu biết tổng quát của  
giáo viên về những nguyên tắc thiết kế bài tập nói. Trên thực tế, hầu hết giáo viên  
chọn cách thiết kế bài tập bổ trợ dựa trên sự thay đổi, bổ sung chương trình sách  
giáo khoa. Theo Harmer (2001), giáo viên nên theo các gợi ý sau để thiết kế:  
1. Thêm các hoạt động vào những hoạt động đã được gợi ý từ trước.  
2. Bỏ những hoạt động không phù hợp với nhu cầu, khả năng của học sinh.  
3. Thay thế bài tập sẵn bằng các bài tập bổ trợ lấy từ nguồn đáng tin cậy  
như báo chí, bản tin, v.v  
4. Thay đổi cách tổ chức hoạt động (ví dụ như theo cặp, nhóm nhỏ hay cả  
lớp)  
II.1.2. Những nguyên tắc về thiết kế các bài tập bổ trợ cho kỹ năng  
nói:  
Đưa ra một số nguyên tắc làm nền tảng, cơ sở cho việc thiết kế các bài tập bổ  
trợ cho kỹ năng nói, Jocelyn Howard và Jae Major (Christchurch College of  
Education) cho rằng đây một ‘khuôn khổ hữu ích’ giúp giáo viên định hướng khi  
thiết kế bài tập của mình, không phải là các nguyên tắc áp dụng máy móc, cứng  
nhắc và không phải tất ccác nguyên tắc đều phù hợp và áp dụng với tất cả các loại  
hình bài tập. Tuy vậy nhìn chung những nguyên tắc này được đưa ra phục vụ cho  
công việc thiết kế được thực hiện chặt chẽ, mạch lạc hơn.  
11  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 51 trang minhvan 25/09/2024 530
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Phương pháp thiết kế bài tập bổ trợ cho kĩ năng nói và một số dạng bài tập ứng dụng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_phuong_phap_thiet_ke_bai_tap_bo_tro_cho_ki_nang_noi_va.doc
  • docmuc luc, bia.doc