SKKN Phương pháp giải bài tập Vật lí -Trung học cơ sở
Thông qua bài tập, học sinh khắc sâu thêm lý thuyết. Bài tập Vật lí là hình thức củng cố, ôn tập, hệ thống hoá kiến thức. Thông qua bài tập học sinh có điều kiện liên hệ thực tế, rèn kỹ năng, kỹ xảo, tính toán và tích cực học tập. Bài tập Vật lí là phương tiện kiểm tra kiến thức và kỹ năng của học sinh.
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHƯƠNG PHÁP GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ -TRUNG HỌC CƠ SỞ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong nhà trường, hoạt động cơ bản nhất là dạy và học. Nó là con đường
chính, con đường ngắn nhất để đưa học sinh tới tri thức của loài người, nhằm
phát triển nhân cách cho học sinh. Nhiệm vụ cơ bản của việc giảng dạy môn Vật
lí của trường phổ thông là: “Đảm bảo cho học sinh nắm vững được hệ thống các
kiến thức, kỹ năng cơ bản về môn học, phát triển trí tuệ học sinh trong quá trình
dạy học Vật lí. Giáo dục kỹ thuật tổng hợp và giáo dục thế giới quan trong giảng
dạy Vật lí”.
Cũng như các môn học khác môn Vật lí trong trường phổ thông giữ một
vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển trí tuệ của học sinh. Mục
đích của môn học là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao
cho học sinh những tri thức, hiểu biết về thế giới, con người thông qua các bài
học, giờ thực hành... của Vật lí. Học Vật lí là để hiểu, để giải thích được các vấn
đề của tự nhiên và cuộc sống thông qua việc tìm hiểu các thuyết, các định luật
chi phối các quy luật của tự nhiên. Đồng thời là khởi nguồn, là cơ sở phát huy
tính sáng tạo, tạo ra những ứng dụng phục vụ trong đời sống của con người. Vật
lí góp phần giải tỏa, xoá bỏ hiểu biết sai lệch làm phương hại đến đời sống, tinh
thần của con người... Từ đó học sinh thấy thích được học bộ môn Vật lý và ham
muốn khám phá tri thức nhân loại.
Để đạt được những mục tiêu và nhiệm vụ đó trong việc truyền thụ kiến
thức mới cho học sinh thì việc giảng dạy phải làm cho các em biết cách giải một
bài tập Vật lí là một việc hết sức quan trọng. Vì qua việc giải bài tập Vật lí mà
giúp học sinh củng cố, ôn tập, hệ thống hoá kiến thức, có điều kiện thực tế rèn
kỹ năng, kỹ xảo, tính toán và tích cực học tập, khắc sâu thêm lí thuyết. Đứng về
mặt điều khiển hoạt động của học sinh, bài tập Vật lí là phương tiện để kiểm tra
kiến thức và kỹ năng của học sinh. Bài tập Vật lí giúp học sinh hiểu sâu hơn
những quy luật vật lí, những hiện tượng vật lí, tạo điều kiện cho học sinh vận
dụng linh hoạt, tự giải quyết những tình huống cụ thể khác nhau để từ đó hoàn
thiện về mặt nhận thức và tích luỹ thành vốn riêng của họ.
1
Bài tập Vật lí là hình thức củng cố, ôn tập mở rộng hoặc đi sâu vào các
trường hợp riêng lẻ của định luật mà nhiều khi nếu nhắc lại nhiều lần ở phần lí
thuyết có thể làm cho học sinh nhàm chán.
Đối với học sinh THCS thì môn Vật lí là một môn mới được làm quen.
Nó là một môn chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống các môn học ở trường
THCS. Muốn học tốt môn này học sinh ngoài việc nắm vững những lý thuyết
còn phỉa vận dụng kiến thức đã học để giải được bài tập Vật lí. Bởi vì:
Thông qua bài tập, học sinh khắc sâu thêm lý thuyết. Bài tập Vật lí là hình
thức củng cố, ôn tập, hệ thống hoá kiến thức. Thông qua bài tập học sinh có điều
kiện liên hệ thực tế, rèn kỹ năng, kỹ xảo, tính toán và tích cực học tập. Bài tập
Vật lí là phương tiện kiểm tra kiến thức và kỹ năng của học sinh.
Qua bài tập, giáo viên có dịp mở rộng mở rộng các định luật Vật lí hay đi
sâu vào các trường hợp riêng lẻ của định luật.
Trong phân phối chương trình, số tiết bài tập của môn Vật lí chưa được
phân bố nhiều so với tổng số tiết học trong chương trình. Ví dụ: Vật lí lớp 9 có
13 tiết bài tập và ôn tập, tổng kết.
Việc giải bài tập Vật lí có ý nghĩa quan trọng như đã nêu trên, song trong
thực tế tìm hiểu thì thấy rằng hiện nay học sinh vẫn chưa say mê giải các bài tập
Vật lí, còn sợ làm bài tập Vật lí do việc dạy học sinh giải bài tập Vật lí còn chưa
được coi trọng, chưa phát huy được hết vai trò của việc giải bài tập trong việc
học môn này. Việc hướng dẫn học sinh có phương pháp giải bài tập Vật lí là một
việc tương đối khó khăn, nó thể hiện việc điều khiển lao động trí óc của học
sinh. Bởi vậy, người giáo viên phải có một trình độ hiểu biết sâu rộng bộ môn
này, có năng lực sư phạm để thích ứng tốt trong các tiết dạy bài tập.
Chính vì lí do trên, với kinh nghiệm giáo dục của bản thân cùng đồng
nghiệp đang trực tiếp giảng dạy bộ môn vật lí ở nhà trường, tôi mạnh dạn đề
xuất: “Phương pháp giải bài tập Vật lí -Trung học cơ sở” nhằm giúp học sinh
nắm chắc được kiến thức cơ bản, mở rộng và hiểu sâu kiến thức. Từ đó nâng cao
được chất lượng bộ môn Vật lí và biết vận dụng vào thực tế vừa để có điều kiện
trao đổi với các đồng nghiệp dạy bộ môn này.
2
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐÊ
1. Thực trạng của vấn đề:
Trước khi đề xuất “Phương pháp giải bài tập Vật lí THCS” qua giảng dạy
ở trường THCS Văn Lang, qua tìm hiểu và trao đổi với đồng nghiệp trong
trường và các trường bạn trên địa bàn huyện Hạ Hòa tôi nhận thấy thực trạng:
1.1. Về phía giáo viên:
Việc dạy học sinh giải bài tập Vật lí chưa thực sự được coi trọng, chưa
phát huy hết vai trò và chưa thấy hết tác dụng của việc giải bài tập Vật lí. Giáo
viên chưa chịu khó tìm tòi, lựa chọn những bài tập Vật lí chưa sát với mục đích
của từng giờ dạy.
Để phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc giải bài tập
Vật lí của học sinh, đòi hỏi người giáo viên phải có sự định hướng đúng và phải
xây dựng được phương pháp phù hợp với tiết học. Muốn vậy người dạy cần hiểu
và xác định được vai trò và ý nghĩa của bài tập Vật lí trong tiết dạy đó. Người
dạy phải phân loại được các dạng bài tập trong chương trình và giúp học sinh
tìm hiểu cách giải các dạng bài tập Vật lí một cách thành thạo.
1.2. Về phía học sinh:
Đa số học sinh ham mê học bộ môn Vật lí, nhưng khi làm các bài tập vật
lí các em thường lúng túng trong việc định hướng giải, có thể nói hầu như các
em chưa biết cách giải cũng như trình bày lời giải; một số em còn giải bài tập
theo kiểu chống đối bằng cách sao chép bài tập của bạn. Đôi khi làm bài còn bỏ
qua những bước phân tích và tóm tắt bài dẫn đến giải bài tập còn sai và lúng
túng trong việc trình bày lời giải và luận giải.
Theo tôi, thực trạng nêu trên có thể do một số nguyên nhân sau:
- Học sinh chưa có phương pháp tổng quan để giải một bài tập Vật lí.
- Học sinh chưa biết vận dụng các kiến thức, định luật Vật lí ...
- Nội dung cấu trúc chương trình sách giáo khoa hầu như không dành
thời lượng cho việc hướng dẫn học sinh giải bài tập hay luyện tập (đặc biệt là
chương trình vật lí ở các lớp: 6, 7, 8), dẫn đến học sinh không có điều kiện bổ
sung, mở rộng và nâng cao kiến thức cũng như rèn kỹ năng giải bài tập Vật lí.
3
Trước khi đề ra phương pháp mới để giải các dạng bài tập Vật lí THCS
tôi đã tiến hành kiểm tra và khảo sát đối với học sinh ở các lớp: 9A1, 9A2,
trường THCS Văn Lang bằng một số bài tập cơ bản tương ứng với mức độ nội
dung kiến thức và năng lực của mỗi lớp. Kết quả thu được như sau:
Giỏi
SL
Khá
SL
TB
Yếu - Kém
SL
Lớp
Sĩ số
%
%
SL
%
%
9A1
9A2
2. Các biện pháp để giải quyết vấn đề:
2.1. Vai trò và phân loại các dạng bài tập Vật lí, các yêu cầu trong
việc giải bài tập Vật lí:
2.1.1. Vai trò của bài tập Vật lí:
+ Bài tập Vật lí được sử dụng như một phương tiện để nghiên cứu cung
cấp kiến thức mới cho học sinh (Nghiên cứu định luật Acsimet).
Ví dụ: Chúng ta thả một thanh gỗ và một thanh sắt xuống nước, thanh
nào sẽ nổi lên? Thanh nào chìm xuống? Tại sao?
Cũng là thanh sắt, nhưng khi dát mỏng làm thành con thuyền thì con
thuyền sắt lại nổi – Tại sao?
+ Bài tập Vật lí là phương tiện rèn luyện cho học sinh khả năng vận dụng
kiến thức và liên hệ với thực tế đời sống.
Ví dụ: Khi học về định luật Ôm cho đoạn mạch có các điện trở mắc song
song, có thể ra cho học sinh bài tập: Giải thích vì sao tiết diện cầu chì mắc ở
công tơ điện phải to hơn cầu chì mắc với mỗi dụng cụ điện trong nhà?
+ Bài tập Vật lí giúp học sinh rèn tư duy, bồi dưỡng phương pháp nghiên
cứu khoa học cho học sinh (phải phân tích các giữ kiện của đề bài, xây dựng cái
mới, liên hệ với kiến thức đã học, tính toán, có lúc phải tự làm những thí
nghiệm).
Ví dụ: Học về sự truyền điện tích, chất dẫn điện và chất cách điện.
+ Bài tập Vật lí có vai trò ôn tập, củng cố kiến thức đã học 1 cách sâu sắc.
4
Ví dụ: Học về định luật Jun – Len – Xơ.
+ Giải bài tập rèn luyện cho học sinh tinh thần sáng tạo, tính tự lập, tính
cẩn thận trong khi làm bài.
+ Qua việc giải bài tập của học sinh, giáo viên kiểm tra đánh giá được kết
quả học tập của học sinh để từ đó có phương pháp giáo dục và hướng dẫn học
sinh.
2.1.2. Phân loại bài tập Vật lí:
2.1.2.1. Bài tập định tính:
Có tác dụng rèn luyện tư duy logíc cho học sinh và tập cho học sinh biết
phân tích bản chất vật lí của hiện tượng. Là loại bài khi giải không cần tính toán
cụ thể hay chỉ cần tính nhẩm đơn giản. Muốn giải bài tập này học sinh cần vận
dụng kiến thức nhằm phát hiện bản chất vật lí được nêu bật lên, vận dụng kiến
thức kĩ năng đã biết đi tới kết luận cuối cùng, những chi tiết không bản chất
được lược bớt.
Ví dụ1:
Làm thí nghiệm như hình vẽ: Giả sử U không đổi, biết Ampe kế chỉ 0,6A
đối với dây dẫn R1, chỉ 1,2A đối với R2. Hỏi điện trở nào lớn hơn?
V
V
R1
R2
A
A
Ví dụ 2: Khi đi xe đạp xuống dốc tuy không cần đạp xe nhưng càng
xuống càng chạy nhanh hơn. Em hãy giải thích hiện tượng đó về mặt năng
lượng?
Giải: Đây là hiện tượng có liên quan đến sự bảo toàn cơ năng. KHi xe
đạp xuống dốc, thế năng giảm (vì độ cao giảm) nên động năng tăng. Vì vậy vận
tốc xe tăng.
Ví dụ 3: Hai bình giống nhau, trong đó có một bình đựng nước. Người ta
5
treo vào trong hai bình hai quả cầu sắt giống nhau. Cả hai quả cầu ở cùng một
độ cao so với đáy bình. Hỏi thế năng của hai quả cầu ở cùng một độ cao so với
đáy bình có như nhau không?
Giải: Thế năng của quả cầu so với đáy bình được đo bằng công sinh ra
để nâng cầu từ đáy bình tới vị trí đã cho.
Công nâng quả cầu từ đáy bình tới độ cao h trong bình chứa không khí là
A1 = P . h
(P là trọng lượng quả cầu).
Công nâng quả cầu từ đáy bình tới cùng độ cao trong bình chứa nước là:
A2 = (P – FA) . h
(FA là lực đẩy Acsimet).
So sánh A1 và A2 ta thấy A1 > A2. Vậy thế năng của quả cầu trong bình
nhỏ hơn.
Ví dụ 4:
a/ Hãy giải thích tại sao khi nâng vật nặng lên cao hoặc xuống thấp
(trường hợp dắt xe lên các bậc cao, đưa các kiện hàng nặng lên xe tải) ta
thường dùng mặt phẳng nghiêng?
b/ Giải thích câu thành ngữ: “Dao sắc không bằng chắc kê”.
c/ Tại sao ở đầu nối các thanh ray phải có khoảng cách nhỏ? Tại sao tôn
lợp nhà phải có hình lượn sóng?
Bài tập định tính thường dùng để minh hoạ những ứng dụng thực tế hay
gặp trong sinh hoạt hàng ngày nên phải ngắn gọn. Thực chất loại bài tập này là
những câu hỏi.
2.1.2.2. Bài tập định lượng:
Là loại bài tập có số liệu cụ thể, muốn giải được phải thực hiện hàng loạt
các phép tính.
Loại bài tập này giúp học sinh hiểu được đầy đủ và sâu sắc hơn ý nghĩa
Vật lí, rèn kluyện kỹ năng tính toán, vẽ hình, tiến tới giải các bài tổng hợp có
nhiều nội dung phức tạp hơn.
Khi giải bài tập, học sinh phải phân loại được bài tập, đưa ra được phương
pháp giải tổng quát và tính toán để tìm ra được kết quả cụ thể.
• Ví dụ các bài tập phần nhiệt được phân chia thành 3 dạng như sau:
6
* Dạng 1: Toán trao đổi nhiệt giữa hai hay nhiều vật.
Bài 1: Ba chất lỏng không tác dụng hoá học với nhau được trộn với
nhau trong một nhiệt lượng kế. Chúng có khối lượng lần lượt là m1 = 1kg;
m2 = 10kg; m3 = 5kg có nhiệt dung riêng c1 = 2000 J/kg.K, c2 = 4000 J/kg.K, c3
= 2000 J/kg.K và nhiệt độ ban đầu tương ứng là t1 = 60C; t2 = -400C; t3 = 600C.
a, Hãy xác định nhiệt độ của hốn hợp khi đã cân bằng nhiệt độ.
b, Hãy tính nhiệt lượng cần thiết để hỗn hợp được nóng lên đến
t4 = 60C. Biết rằng khi trao dổi nhiệt không có chất nào bị hoá rắn hay bay hơi.
Tóm tắt đầu bài:
Chất lỏng 1
m1 = 1kg
Chất lỏng 2
m2 = 10kg
Chất lỏng 3
m3 = 5kg
c1 = 2000 J/kg.K
t1 = 60C
c2 = 4000 J/kg.K
t2 = -400C
c3 = 2000 J/kg.K
t3 = 600C
t4 = 60C
a, tcb = ?
b, Q = ?
Hướng dẫn cách giải:
a, Ta có thể coi rằng thoạt đầu hai chất lỏng có nhiệt độ thấp hơn trộn với
nhau được hỗn hợp có nhiệt độ t0 (t2 < t0 < t1)
Ta có phương trình cân bằng nhiệt: c1m1(t1 – t0) = c2m2(t0 – t2)
Hay c1m1t1 – c1m1t0 = c2m2t0 – c2m2t2
c1m1t1 c2 m2t2
2000.1.6 4000.10.
40
to =
= -37,80C
c1m1 c2 m2
2000.1 4000.10
Sau đó trộn tiếp hỗn hợp này với chất lỏng còn lại có nhiệt độ t’ < t3
(c1m1 + c2m2)(t’ – t0) = c3m3(t3 – t’)
t’(c1m1 + c2m2 + c3m3) = t0(c1m1 + c2m2) + c3m3t3
t0
c1m1 c2 m2
c3 m3t3
37,8
2000.1 4000.10
2000.5.60
t’ =
c1m1 c2 m2 c3 m3
2000.1 4000.10 2000.5
t’ = -18,990C
Vậy nhiệt độ cân bằng của hốn hợp là -18,990C.
7
b, Nhiệt lượng tổng cộng để hỗn hợp này nóng từ –18,990C đến 60C là:
Qthu = (c1m1 + c2m2 + c3m3)(t4 – t’) = 2000 + 40000 + 10000 = 1 299 480 J
ĐS: a, -18,990C ;
b,1 299 480 J
Bài 2: Có hai bình cách nhiệt. Bình thứ nhất chứa 5l nước ở nhiệt độ t1 =
600C, bình thứ hai chứa 1l nước ở nhiệt độ t2 = 200C. Đầu tiên rót một phần
nước từ bình thứ nhất sang bình thứ hai khi trong bình thứ hai đã đạt cân bằng
nhiệt người ta lại rót trả lại từ bình thứ hai sang bình thứ nhất một lượng nước để
cho trong hai bình lại có dung tích nước bằng lúc ban đầu. Sau các thao tác đó,
nhiệt độ nước trong bình thứ nhất là t1’ = 590C. Hỏi đã rót bao nhiêu nước từ
bình thứ nhất sang bình thứ hai và ngược lại?
• Lưu ý:
Lần rót 1: m toả nhiệt, m2 thu nhiệt
phương trình cân bằng nhiệt.
phương trình cân bằng nhiệt.
Lần rót 2: m thu nhiệt, (m1 – m) toả nhiệt
Từ hai phương trình trên giải ra lượng nước đã rót trong mỗi lần.
Tóm tắt đầu bài:
Bình 1:
Bình 2
m1 = 5kg
t1 = 600C
t1’ = 590C
m = ?
m2 = 1kg
t2 = 200C
Hướng dẫn cách giải:
Lần rót thứ nhất m toả nhiệt, m2 thu nhiệt. Ta có phương trình cân bằng
nhiệt: cm(t1 – t2’) = cm2(t2’ – t2) m(t1 – t2’) = m2(t2’ – t2) (1)
Lần rót thứ hai m thu nhiệt, (m1 – m) toả nhiệt. Ta có phương trình cân bằng
nhiệt: cm(t1’ – t2’) = c(m1 – m)(t1 – t1’) m(t1 – t2’) = m1(t1 – t1’) (2)
Từ (1) và (2) ta có: m2(t2’ – t2) = m1(t1 – t1’)
m1
t1 t1 '
5
60 59
t2 ' t2
20
250 C
m2
1
8
m2
t2 't2
1
25 20
60 25
5
Thay vào trên ta có:m
0,143kg
t1 t2 '
35
Vậy lượng nước đã rót trong mỗi lần là m = 0,143kg.
* Dạng 2: Toán nhiệt học có liên quan đến thời gian.
Bài 1: Một bếp điện đun một ấm đựng 500g nước ở 15=0C Nếu đun 5
phút thì nhiệt độ nước lên đến 230C. Nếu lượng nước là 750g thì đung trong 5
phút nhiệt độ chỉ lên 20,80C. Tính:
a, Nhiệt lượng ấm thu vào để tăng 10C.
b, Nhiệt lượng do bếp điện toả ra trong 1 phút. Cho hiệu suất của bếp là
40% và nhiệt dung riêng của nước là 4200 J/kg.K
Tóm tắt:
Ấm
Nước trong ấm
Bếp điện
a, Qthu
m0 m1 = 500g = 0,5kg m2 = 750g = 0,75kg. H = 40% = 0,4 của ấm = ?
c0
t1 = 150C
t2 = 230C
t2' = 20,80C
b, Qtoả
c = 4200 J/kg.K
Hướng dẫn giải:
của bếp = ?
a, Trong cùng thời gian 5 phút như nhau, nên nhiệt lượng bếp điện toả ra
như nhau:
(c0m0 + cm1)(t2 - t1) = (c0m0 + cm2)(t2' - t1)
8c0m0 + 8cm1 = 5,8c0m0 + 5,8cm2
8c0m0 - 5,8c0m0 = -8cm1 + 5,8 cm2
2,2c0m0 = c(5,8m2 - 8m1)
c
5,8m2 8m1
4200
5,8.0,758.0,5
c0 m0
668,2J
2,2
2,2
Vậy nhiệt ấm thu vào để tăng 10C là Q = c0m0
b, Nhiệt lượng do ấm và nước thu vào trong 5 phút là:
t = 668,2 J.
(c0m0 + cm1)(t2 - t1) = (668,2 + 4200 . 0,5) . 8 = 22145,6 J
Nhiệt lượng toàn phần do bếp điện toả ra trong 5 phút là:
Qi
H
22.145,6
0,4
Qtp =
55364J
55364
5
Nhiệt lượng mà bếp toả ra trong 1 phút là: Q =
11072,8J
9
* Dạng 3: Dạng toán thực hành phần nhiệt học
Bài 1: Trong tay em chỉ có nước (có nhiệt dung riêng cn), nhiệt lượng kế,
nhiệt kế, cân, bộ quả cân, bình đun, dây buộc, bếp. Em hãy thiết lập phương án
để xác định nhiệt dung riêng của một vật rắn nguyên chất.
Hướng dẫn giải:
Về mặt nguyên tắc có thể thực hiện như sau:
Cân nhiệt lượng kế suy ra khối lượng m.
Cân nhiệt lượng kế có nước suy ra khối lượng m'.
Suy ra khối lượng nước m1 = m' - m.
Buộc vật thả vào bình nước đang đun sôi. Đo nhiệt độ t2 của nước sôi cũng
là của vật.
Nhắc nhanh vật trả vào nhiệt lượng kế, đo nhiệt độ khi có cân bằng nhiệt.
m2c2(t2 - t) = (mkck + m1cn)(t - t1)
mk .ck m1cn t t1
c2
m2
t2 t
Lặp lại thí nghiệm hai, ba lần xác định sai số và nhận giá trị c2 với độ sai số
nhỏ nhất.
• Ví dụ khi giải bài tập phần quang, các bài tập được phân chia
thành 15 dạng như sau:
* Dạng 1: Đường truyền tia sáng qua gương phẳng.
* Dạng 2: Xác định đường đặt mắt thấy ảnh qua gương.
* Dạng 3: Xác định thị trường của gương.
* Dạng 4: Xác định ảnh qua hệ gương.
* Dạng 5: Vẽ đường đi của tia sáng qua hệ gương.
* Dạng 6: Nghiên cứu sự di chuyển của ảnh cho bởi gương phẳng.
* Dạng 7: Nghiên cứu vệt sáng trên màn.
* Dạng 8: Nghiên cứu sự truyền ánh sáng qua thấu kính.
* Dạng 9: Bằng phép vẽ xác định vị trí tương đối của ảnh và vật qua thấu
kính.
* Dạng 10: Bằng tính toán xác định vị trí tương đối của ảnh và của vật
10
qua thấu kính.
* Dạng 11: Tìm hai vị trí thấu kính cho ảnh trên màn.
* Dạng 12: Nghiên cứu mối quan hệ khoảng di chuyển vật và ảnh.
* Dạng 13: Xác định kích thước vết sáng trên màn theo kích thước thấu
kính.
* Dạng 14: Quan hệ thấu kính và gương.
2.1.2.3. Bài tập tổng quát (mang tính trừu tượng)
• Ví dụ: Tính vận tốc V của canô khi đi được quãng đường S trong thời
gian t.
2.1.2.4. Bài tập tổng hợp (một số bài tập cuối chương, cuối phần).
2.1.2.5. Bài tập mang tính thực tế:
Đây là loại bài tập có liên quan trực tiếp tới đời sống kinh tế, kỹ thuật, sản
xuất, các hiện tượng thiên nhiên và đặc biệt là thực tế lao động, sinh hoạt hàng
ngày mà học sinh thường gặp. Những bài tập này có tác dụng rất lớn về mặt giáo
dục kỹ thuật tổng hợp.
Ví dụ 1:
Hãy giải thích vì sao vào những giờ cao điểm (khoảng từ 19h đến 22h)
các đèn lại tối đi? Có nhiều địa phương cấm các xí nghiệp (tiêu thụ điện nhiều)
hoạt động vào các giờ trên.
Ví dụ 2:
Hãy mô tả xem bằng cách nào có thể xác định được chiều dài của một dây
dẫn cuốn thành một ống dây vào một lõi mà không tháo dây ra khỏi lõi (giữa
các dây có sự cách điện nhau và cách điện với lõi). Nếu biết điện trở suất, tiết
diện của dây và trong tay có ắc quy, vôn kế, ampe kế.
Ví dụ 3:
Pin thường có 3 cỡ khác nhau: to (đại), vừa (trung) và nhỏ (tiểu):
- Hiệu điện thế giữa hai cực của chúng có khác nhau không?
- Nếu mắc vào cùng một bóng đèn thì trong trường hợp nào đèn sáng
hơn? Tại sao?.
2.1.2.6. Bài tập thí nghiệm:
11
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Phương pháp giải bài tập Vật lí -Trung học cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_phuong_phap_giai_bai_tap_vat_li_trung_hoc_co_so.doc
- BIA SKKN.doc
- MỤC LỤC SKKN- Quang.doc