SKKN Phương pháp giải bài tập Vật lí -Trung học cơ sở

Thông qua bài tập, học sinh khắc sâu thêm lý thuyết. Bài tập Vật lí là hình thức củng cố, ôn tập, hệ thống hoá kiến thức. Thông qua bài tập học sinh có điều kiện liên hệ thực tế, rèn kỹ năng, kỹ xảo, tính toán và tích cực học tập. Bài tập Vật lí là phương tiện kiểm tra kiến thức và kỹ năng của học sinh.
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM  
PHƯƠNG PHÁP GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ -TRUNG HỌC CƠ SỞ  
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:  
Trong nhà trường, hoạt động cơ bản nhất dạy học. Nó là con đường  
chính, con đường ngắn nhất để đưa học sinh tới tri thức của loài người, nhằm  
phát triển nhân cách cho học sinh. Nhiệm vụ cơ bản của việc giảng dạy môn Vật  
của trường phổ thông là: “Đảm bảo cho học sinh nắm vững được hệ thống các  
kiến thức, kỹ năng cơ bản về môn học, phát triển trí tuệ học sinh trong quá trình  
dạy học Vật lí. Giáo dục kỹ thuật tổng hợp và giáo dục thế giới quan trong giảng  
dạy Vật lí”.  
Cũng như các môn học khác môn Vật lí trong trường phổ thông giữ một  
vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển trí tuệ của học sinh. Mục  
đích của môn học là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao  
cho học sinh những tri thức, hiểu biết về thế giới, con người thông qua các bài  
học, giờ thực hành... của Vật lí. Học Vật lí là để hiểu, để giải thích được các vấn  
đề của tự nhiên và cuộc sống thông qua việc tìm hiểu các thuyết, các định luật  
chi phối các quy luật của tự nhiên. Đồng thời khởi nguồn, cơ sở phát huy  
tính sáng tạo, tạo ra những ứng dụng phục vụ trong đời sống của con người. Vật  
lí góp phần giải tỏa, xoá bỏ hiểu biết sai lệch làm phương hại đến đời sống, tinh  
thần của con người... Từ đó học sinh thấy thích được học bộ môn Vật lý và ham  
muốn khám phá tri thức nhân loại.  
Để đạt được những mục tiêu và nhiệm vụ đó trong việc truyền thụ kiến  
thức mới cho học sinh thì việc giảng dạy phải làm cho các em biết cách giải một  
bài tập Vật lí là một việc hết sức quan trọng. Vì qua việc giải bài tập Vật lí mà  
giúp học sinh củng cố, ôn tập, hệ thống hoá kiến thức, điều kiện thực tế rèn  
kỹ năng, kỹ xảo, tính toán và tích cực học tập, khắc sâu thêm lí thuyết. Đứng về  
mặt điều khiển hoạt động của học sinh, bài tập Vật lí là phương tiện để kiểm tra  
kiến thức kỹ năng của học sinh. Bài tập Vật lí giúp học sinh hiểu sâu hơn  
những quy luật vật lí, những hiện tượng vật lí, tạo điều kiện cho học sinh vận  
dụng linh hoạt, tự giải quyết những tình huống cụ thể khác nhau để từ đó hoàn  
thiện về mặt nhận thức và tích luỹ thành vốn riêng của họ.  
1
Bài tập Vật lí là hình thức củng cố, ôn tập mở rộng hoặc đi sâu vào các  
trường hợp riêng lẻ của định luật nhiều khi nếu nhắc lại nhiều lần ở phần lí  
thuyết thể làm cho học sinh nhàm chán.  
Đối với học sinh THCS thì môn Vật lí là một môn mới được làm quen.  
Nó là một môn chiếm một vtrí quan trọng trong hệ thống các môn học ở trường  
THCS. Muốn học tốt môn này học sinh ngoài việc nắm vững những thuyết  
còn phỉa vận dụng kiến thức đã học để giải được bài tập Vật lí. Bởi vì:  
Thông qua bài tập, học sinh khắc sâu thêm lý thuyết. Bài tập Vật lí là hình  
thức củng cố, ôn tập, hệ thống hoá kiến thức. Thông qua bài tập học sinh có điều  
kiện liên hệ thực tế, rèn kỹ năng, kỹ xảo, tính toán và tích cực học tập. Bài tập  
Vật lí là phương tiện kiểm tra kiến thức kỹ năng của học sinh.  
Qua bài tập, giáo viên có dịp mở rộng mở rộng các định luật Vật lí hay đi  
sâu vào các trường hợp riêng lẻ của định luật.  
Trong phân phối chương trình, số tiết bài tập của môn Vật chưa được  
phân bố nhiều so với tổng số tiết học trong chương trình. Ví dụ: Vật lớp 9 có  
13 tiết bài tập và ôn tập, tổng kết.  
Việc giải bài tập Vật lí có ý nghĩa quan trọng như đã nêu trên, song trong  
thực tế tìm hiểu thì thấy rằng hiện nay học sinh vẫn chưa say mê giải các bài tập  
Vật lí, còn sợ làm bài tập Vật lí do việc dạy học sinh giải bài tập Vật lí còn chưa  
được coi trọng, chưa phát huy được hết vai trò của việc giải bài tập trong việc  
học môn này. Việc hướng dẫn học sinh có phương pháp giải bài tập Vật lí là một  
việc tương đối khó khăn, thể hiện việc điều khiển lao động trí óc của học  
sinh. Bởi vậy, người giáo viên phải một trình độ hiểu biết sâu rộng bộ môn  
này, có năng lực sư phạm để thích ứng tốt trong các tiết dạy bài tập.  
Chính vì lí do trên, với kinh nghiệm giáo dục của bản thân cùng đồng  
nghiệp đang trực tiếp giảng dạy bộ môn vật nhà trường, tôi mạnh dạn đề  
xuất: “Phương pháp giải bài tập Vật lí -Trung học cơ sở” nhằm giúp học sinh  
nắm chắc được kiến thức cơ bản, mở rộng hiểu sâu kiến thức. Từ đó nâng cao  
được chất lượng bộ môn Vật lí và biết vận dụng vào thực tế vừa để điều kiện  
trao đổi với các đồng nghiệp dạy bộ môn này.  
2
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐÊ  
1. Thực trạng của vấn đề:  
Trước khi đề xuất “Phương pháp giải bài tập Vật lí THCS” qua giảng dạy  
ở trường THCS Văn Lang, qua tìm hiểu và trao đổi với đồng nghiệp trong  
trường và các trường bạn trên địa bàn huyện Hạ Hòa tôi nhận thấy thực trạng:  
1.1. Về phía giáo viên:  
Việc dạy học sinh giải bài tập Vật chưa thực sự được coi trọng, chưa  
phát huy hết vai trò và chưa thấy hết tác dụng của việc giải bài tập Vật lí. Giáo  
viên chưa chịu khó tìm tòi, lựa chọn những bài tập Vật chưa sát với mục đích  
của từng giờ dạy.  
Để phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc giải bài tập  
Vật của học sinh, đòi hỏi người giáo viên phải sự định hướng đúng phải  
xây dựng được phương pháp phù hợp với tiết học. Muốn vậy người dạy cần hiểu  
và xác định được vai trò và ý nghĩa của bài tập Vật lí trong tiết dạy đó. Người  
dạy phải phân loại được các dạng bài tập trong chương trình và giúp học sinh  
tìm hiểu cách giải các dạng bài tập Vật một cách thành thạo.  
1.2. Về phía học sinh:  
Đa số học sinh ham mê học bộ môn Vật lí, nhưng khi làm các bài tập vật  
lí các em thường lúng túng trong việc định hướng giải, thể nói hầu như các  
em chưa biết cách giải cũng như trình bày lời giải; một số em còn giải bài tập  
theo kiểu chống đối bằng cách sao chép bài tập của bạn. Đôi khi làm bài còn bỏ  
qua những bước phân tích và tóm tắt bài dẫn đến giải bài tập còn sai và lúng  
túng trong việc trình bày lời giải luận giải.  
Theo tôi, thực trạng nêu trên có thể do một số nguyên nhân sau:  
- Học sinh chưa phương pháp tổng quan để giải một bài tập Vật lí.  
- Học sinh chưa biết vận dụng các kiến thức, định luật Vật lí ...  
- Nội dung cấu trúc chương trình sách giáo khoa hầu như không dành  
thời lượng cho việc hướng dẫn học sinh giải bài tập hay luyện tập (đặc biệt là  
chương trình vật các lớp: 6, 7, 8), dẫn đến học sinh không có điều kiện bổ  
sung, mở rộng và nâng cao kiến thức cũng như rèn kỹ năng giải bài tập Vật lí.  
3
Trước khi đề ra phương pháp mới để giải các dạng bài tập Vật lí THCS  
tôi đã tiến hành kiểm tra và khảo sát đối với học sinh các lớp: 9A1, 9A2,  
trường THCS Văn Lang bằng một số bài tập cơ bản tương ứng với mức độ nội  
dung kiến thức năng lực của mỗi lớp. Kết quả thu được như sau:  
Giỏi  
SL  
Khá  
SL  
TB  
Yếu - Kém  
SL  
Lớp  
Sĩ số  
%
%
SL  
%
%
9A1  
9A2  
2. Các biện pháp để giải quyết vấn đề:  
2.1. Vai trò và phân loại các dạng bài tập Vật lí, các yêu cầu trong  
việc giải bài tập Vật lí:  
2.1.1. Vai tcủa bài tập Vật lí:  
+ Bài tập Vật được sử dụng như một phương tiện để nghiên cứu cung  
cấp kiến thức mới cho học sinh (Nghiên cứu định luật Acsimet).  
dụ: Chúng ta thả một thanh gỗ một thanh sắt xuống nước, thanh  
nào sẽ nổi lên? Thanh nào chìm xuống? Tại sao?  
Cũng là thanh sắt, nhưng khi dát mỏng làm thành con thuyền thì con  
thuyền sắt lại nổi Tại sao?  
+ Bài tập Vật lí là phương tiện rèn luyện cho học sinh khả năng vận dụng  
kiến thức và liên hệ với thực tế đời sống.  
dụ: Khi học về định luật Ôm cho đoạn mạch có các điện trở mắc song  
song, có thể ra cho học sinh bài tập: Giải thích vì sao tiết diện cầu chì mắc ở  
công tơ điện phải to hơn cầu chì mắc với mỗi dụng cụ điện trong nhà?  
+ Bài tập Vật lí giúp học sinh rèn duy, bồi dưỡng phương pháp nghiên  
cứu khoa học cho học sinh (phải phân tích các giữ kiện của đề bài, xây dựng cái  
mới, liên hệ với kiến thức đã học, tính toán, có lúc phải tự làm những thí  
nghiệm).  
dụ: Học về sự truyền điện tích, chất dẫn điện chất cách điện.  
+ Bài tập Vật lí có vai trò ôn tập, củng cố kiến thức đã học 1 cách sâu sắc.  
4
dụ: Học về định luật Jun – Len Xơ.  
+ Giải bài tập rèn luyện cho học sinh tinh thần sáng tạo, tính tự lập, tính  
cẩn thận trong khi làm bài.  
+ Qua việc giải bài tập của học sinh, giáo viên kiểm tra đánh giá được kết  
quả học tập của học sinh để từ đó phương pháp giáo dục hướng dẫn học  
sinh.  
2.1.2. Phân loại bài tập Vật lí:  
2.1.2.1. Bài tập định tính:  
Có tác dụng rèn luyện tư duy logíc cho học sinh và tập cho học sinh biết  
phân tích bản chất vật của hiện tượng. loại bài khi giải không cần tính toán  
cụ thể hay chỉ cần tính nhẩm đơn giản. Muốn giải bài tập này học sinh cần vận  
dụng kiến thức nhằm phát hiện bản chất vật được nêu bật lên, vận dụng kiến  
thức kĩ năng đã biết đi tới kết luận cuối cùng, những chi tiết không bản chất  
được lược bớt.  
dụ1:  
Làm thí nghiệm như hình vẽ: Giả sử U không đổi, biết Ampe kế chỉ 0,6A  
đối với dây dẫn R1, chỉ 1,2A đối với R2. Hỏi điện trnào lớn hơn?  
V
V
R1  
R2  
A
A
dụ 2: Khi đi xe đạp xuống dốc tuy không cần đạp xe nhưng càng  
xuống càng chạy nhanh hơn. Em hãy giải thích hiện tượng đó về mặt năng  
lượng?  
Giải: Đây hiện tượng có liên quan đến sự bảo toàn cơ năng. KHi xe  
đạp xuống dốc, thế năng giảm (vì độ cao giảm) nên động năng tăng. vậy vận  
tốc xe tăng.  
dụ 3: Hai bình giống nhau, trong đó một bình đựng nước. Người ta  
5
treo vào trong hai bình hai quả cầu sắt giống nhau. Cả hai quả cầu ở cùng một  
độ cao so với đáy bình. Hỏi thế năng của hai quả cầu ở cùng một độ cao so với  
đáy bình có như nhau không?  
Giải: Thế năng của quả cầu so với đáy bình được đo bằng công sinh ra  
để nâng cầu từ đáy bình tới vị trí đã cho.  
Công nâng quả cầu từ đáy bình tới độ cao h trong bình chứa không khí là  
A1 = P . h  
(P là trọng lượng quả cầu).  
Công nâng quả cầu từ đáy bình tới cùng độ cao trong bình chứa nước là:  
A2 = (P – FA) . h  
(FA lực đẩy Acsimet).  
So sánh A1 và A2 ta thấy A1 > A2. Vậy thế năng của quả cầu trong bình  
nhỏ hơn.  
dụ 4:  
a/ Hãy giải thích tại sao khi nâng vật nặng lên cao hoặc xuống thấp  
(trường hợp dắt xe lên các bậc cao, đưa các kiện hàng nặng lên xe tải) ta  
thường dùng mặt phẳng nghiêng?  
b/ Giải thích câu thành ngữ: “Dao sắc không bằng chắc kê”.  
c/ Tại sao ở đầu nối các thanh ray phải khoảng cách nhỏ? Tại sao tôn  
lợp nhà phải có hình lượn sóng?  
Bài tập định tính thường dùng để minh hoạ những ứng dụng thực tế hay  
gặp trong sinh hoạt hàng ngày nên phải ngắn gọn. Thực chất loại bài tập này là  
những câu hỏi.  
2.1.2.2. Bài tập định lượng:  
loại bài tập số liệu cụ thể, muốn giải được phải thực hiện hàng loạt  
các phép tính.  
Loại bài tập này giúp học sinh hiểu được đầy đủ và sâu sắc hơn ý nghĩa  
Vật lí, rèn kluyện kỹ năng tính toán, vẽ hình, tiến tới giải các bài tổng hợp có  
nhiều nội dung phức tạp hơn.  
Khi giải bài tập, học sinh phải phân loại được bài tập, đưa ra được phương  
pháp giải tổng quát và tính toán để tìm ra được kết quả cụ thể.  
dụ các bài tập phần nhiệt được phân chia thành 3 dạng như sau:  
6
* Dạng 1: Toán trao đổi nhiệt giữa hai hay nhiều vật.  
Bài 1: Ba chất lỏng không tác dụng hoá học với nhau được trộn với  
nhau trong một nhiệt lượng kế. Chúng có khối lượng lần lượt là m1 = 1kg;  
m2 = 10kg; m3 = 5kg có nhiệt dung riêng c1 = 2000 J/kg.K, c2 = 4000 J/kg.K, c3  
= 2000 J/kg.K nhiệt độ ban đầu tương ứng là t1 = 60C; t2 = -400C; t3 = 600C.  
a, Hãy xác định nhiệt độ của hốn hợp khi đã cân bằng nhiệt độ.  
b, Hãy tính nhiệt lượng cần thiết để hỗn hợp được nóng lên đến  
t4 = 60C. Biết rằng khi trao dổi nhiệt không có chất nào bị hoá rắn hay bay hơi.  
Tóm tắt đầu bài:  
Chất lỏng 1  
m1 = 1kg  
Chất lỏng 2  
m2 = 10kg  
Chất lỏng 3  
m3 = 5kg  
c1 = 2000 J/kg.K  
t1 = 60C  
c2 = 4000 J/kg.K  
t2 = -400C  
c3 = 2000 J/kg.K  
t3 = 600C  
t4 = 60C  
a, tcb = ?  
b, Q = ?  
Hướng dẫn cách giải:  
a, Ta có thể coi rằng thoạt đầu hai chất lỏng nhiệt độ thấp hơn trộn với  
nhau được hỗn hợp nhiệt độ t0 (t2 < t0 < t1)  
Ta có phương trình cân bằng nhiệt: c1m1(t1 – t0) = c2m2(t0 – t2)  
Hay c1m1t1 – c1m1t0 = c2m2t0 – c2m2t2  
c1m1t1 c2 m2t2  
2000.1.6 4000.10.  
40  
to =  
= -37,80C  
c1m1 c2 m2  
2000.14000.10  
Sau đó trộn tiếp hỗn hợp này với chất lỏng còn lại nhiệt độ t’ < t3  
(c1m1 + c2m2)(t’ – t0) = c3m3(t3 – t’)  
t’(c1m1 + c2m2 + c3m3) = t0(c1m1 + c2m2) + c3m3t3  
t0  
c1m1 c2 m2  
c3 m3t3  
37,8  
2000.14000.10  
2000.5.60  
t’ =  
c1m1 c2 m2 c3 m3  
2000.14000.10 2000.5  
t’ = -18,990C  
Vậy nhiệt đcân bằng của hốn hợp là -18,990C.  
7
b, Nhiệt lượng tổng cộng để hỗn hợp này nóng từ –18,990C đến 60C là:  
Qthu = (c1m1 + c2m2 + c3m3)(t4 – t’) = 2000 + 40000 + 10000 = 1 299 480 J  
ĐS: a, -18,990C ;  
b,1 299 480 J  
Bài 2: Có hai bình cách nhiệt. Bình thứ nhất chứa 5l nước ở nhiệt độ t1 =  
600C, bình thứ hai chứa 1l nước ở nhiệt độ t2 = 200C. Đầu tiên rót một phần  
nước từ bình thứ nhất sang bình thứ hai khi trong bình thứ hai đã đạt cân bằng  
nhiệt người ta lại rót trả lại từ bình thứ hai sang bình thứ nhất một lượng nước để  
cho trong hai bình lại có dung tích nước bằng lúc ban đầu. Sau các thao tác đó,  
nhiệt độ nước trong bình thứ nhất là t1’ = 590C. Hỏi đã rót bao nhiêu nước từ  
bình thứ nhất sang bình thứ hai và ngược lại?  
Lưu ý:  
Lần rót 1: m toả nhiệt, m2 thu nhiệt  
phương trình cân bằng nhiệt.  
phương trình cân bằng nhiệt.  
Lần rót 2: m thu nhiệt, (m1 – m) toả nhiệt  
Từ hai phương trình trên giải ra lượng nước đã rót trong mỗi lần.  
Tóm tắt đầu bài:  
Bình 1:  
Bình 2  
m1 = 5kg  
t1 = 600C  
t1’ = 590C  
m = ?  
m2 = 1kg  
t2 = 200C  
Hướng dẫn cách giải:  
Lần rót thứ nhất m toả nhiệt, m2 thu nhiệt. Ta có phương trình cân bằng  
nhiệt: cm(t1 – t2’) = cm2(t2’ – t2) m(t1 – t2’) = m2(t2’ – t2) (1)  
Lần rót thứ hai m thu nhiệt, (m1 – m) toả nhiệt. Ta có phương trình cân bằng  
nhiệt: cm(t1’ – t2’) = c(m1 – m)(t1 – t1’) m(t1 – t2’) = m1(t1 – t1’) (2)  
Từ (1) và (2) ta có: m2(t2’ – t2) = m1(t1 – t1’)  
m1  
t1 t1 '  
5
60 59  
t2 't2   
20   
250 C  
m2  
1
8
m2  
t2 't2  
1
2520  
60 25  
5
Thay vào trên ta có:m   
0,143kg  
t1 t2 '  
35  
Vậy lượng nước đã rót trong mỗi lần là m = 0,143kg.  
* Dạng 2: Toán nhiệt học có liên quan đến thời gian.  
Bài 1: Một bếp điện đun một ấm đựng 500g nước ở 15=0C Nếu đun 5  
phút thì nhiệt độ nước lên đến 230C. Nếu lượng nước là 750g thì đung trong 5  
phút nhiệt độ chlên 20,80C. Tính:  
a, Nhiệt lượng ấm thu vào để tăng 10C.  
b, Nhiệt lượng do bếp điện toả ra trong 1 phút. Cho hiệu suất của bếp là  
40% và nhiệt dung riêng của nước là 4200 J/kg.K  
Tóm tắt:  
Ấm  
Nước trong ấm  
Bếp điện  
a, Qthu  
m0 m1 = 500g = 0,5kg m2 = 750g = 0,75kg. H = 40% = 0,4 của ấm = ?  
c0  
t1 = 150C  
t2 = 230C  
t2' = 20,80C  
b, Qtoả  
c = 4200 J/kg.K  
Hướng dẫn giải:  
của bếp = ?  
a, Trong cùng thời gian 5 phút như nhau, nên nhiệt lượng bếp điện toả ra  
như nhau:  
(c0m0 + cm1)(t2 - t1) = (c0m0 + cm2)(t2' - t1)  
8c0m0 + 8cm1 = 5,8c0m0 + 5,8cm2  
8c0m0 - 5,8c0m0 = -8cm1 + 5,8 cm2  
2,2c0m0 = c(5,8m2 - 8m1)  
c
5,8m2 8m1  
4200  
5,8.0,758.0,5  
c0 m0   
668,2J  
2,2  
2,2  
Vậy nhiệt ấm thu vào để tăng 10C là Q = c0m0  
b, Nhiệt lượng do ấm nước thu vào trong 5 phút là:  
t = 668,2 J.  
(c0m0 + cm1)(t2 - t1) = (668,2 + 4200 . 0,5) . 8 = 22145,6 J  
Nhiệt lượng toàn phần do bếp điện toả ra trong 5 phút là:  
Qi  
H
22.145,6  
0,4  
Qtp =  
55364J  
55364  
5
Nhiệt lượng bếp toả ra trong 1 phút là: Q =  
11072,8J  
9
* Dạng 3: Dạng toán thực hành phần nhiệt học  
Bài 1: Trong tay em chỉ nước (có nhiệt dung riêng cn), nhiệt lượng kế,  
nhiệt kế, cân, bộ quả cân, bình đun, dây buộc, bếp. Em hãy thiết lập phương án  
để xác định nhiệt dung riêng của một vật rắn nguyên chất.  
Hướng dẫn giải:  
Về mặt nguyên tắc thể thực hiện như sau:  
Cân nhiệt lượng kế suy ra khối lượng m.  
Cân nhiệt lượng kế nước suy ra khối lượng m'.  
Suy ra khối lượng nước m1 = m' - m.  
Buộc vật thả vào bình nước đang đun sôi. Đo nhiệt độ t2 của nước sôi cũng  
của vật.  
Nhắc nhanh vật trả vào nhiệt lượng kế, đo nhiệt độ khi có cân bằng nhiệt.  
m2c2(t2 - t) = (mkck + m1cn)(t - t1)  
mk .ck m1cn t t1  
c2   
m2  
t2 t  
Lặp lại thí nghiệm hai, ba lần xác định sai số nhận giá trị c2 với độ sai số  
nhỏ nhất.  
dụ khi giải bài tập phần quang, các bài tập được phân chia  
thành 15 dạng như sau:  
* Dạng 1: Đường truyền tia sáng qua gương phẳng.  
* Dạng 2: Xác định đường đặt mắt thấy ảnh qua gương.  
* Dạng 3: Xác định thị trường của gương.  
* Dạng 4: Xác định ảnh qua hệ gương.  
* Dạng 5: Vẽ đường đi của tia sáng qua hệ gương.  
* Dạng 6: Nghiên cứu sự di chuyển của ảnh cho bởi gương phẳng.  
* Dạng 7: Nghiên cứu vệt sáng trên màn.  
* Dạng 8: Nghiên cứu sự truyền ánh sáng qua thấu kính.  
* Dạng 9: Bằng phép vẽ xác định vị trí tương đối của ảnh vật qua thấu  
kính.  
* Dạng 10: Bằng tính toán xác định vị trí tương đối của ảnh của vật  
10  
qua thấu kính.  
* Dạng 11: Tìm hai vị trí thấu kính cho ảnh trên màn.  
* Dạng 12: Nghiên cứu mối quan hệ khoảng di chuyển vật ảnh.  
* Dạng 13: Xác định kích thước vết sáng trên màn theo kích thước thấu  
kính.  
* Dạng 14: Quan hệ thấu kính và gương.  
2.1.2.3. Bài tập tổng quát (mang tính trừu tượng)  
dụ: Tính vận tốc V của canô khi đi được quãng đường S trong thời  
gian t.  
2.1.2.4. Bài tập tổng hợp (một số bài tập cuối chương, cuối phần).  
2.1.2.5. Bài tập mang tính thực tế:  
Đây loại bài tập có liên quan trực tiếp tới đời sống kinh tế, kỹ thuật, sản  
xuất, các hiện tượng thiên nhiên và đặc biệt thực tế lao động, sinh hoạt hàng  
ngày mà học sinh thường gặp. Những bài tập này có tác dụng rất lớn về mặt giáo  
dục kỹ thuật tổng hợp.  
dụ 1:  
Hãy giải thích vì sao vào những giờ cao điểm (khoảng từ 19h đến 22h)  
các đèn lại tối đi? nhiều địa phương cấm các xí nghiệp (tiêu thụ điện nhiều)  
hoạt động vào các giờ trên.  
dụ 2:  
Hãy mô tả xem bằng cách nào có thể xác định được chiều dài của một dây  
dẫn cuốn thành một ống dây vào một lõi mà không tháo dây ra khỏi lõi (giữa  
các dây có sự cách điện nhau và cách điện với lõi). Nếu biết điện trở suất, tiết  
diện của dây và trong tay có ắc quy, vôn kế, ampe kế.  
dụ 3:  
Pin thường có 3 cỡ khác nhau: to (đại), vừa (trung) và nhỏ (tiểu):  
- Hiệu điện thế giữa hai cực của chúng có khác nhau không?  
- Nếu mắc vào cùng một bóng đèn thì trong trường hợp nào đèn sáng  
hơn? Tại sao?.  
2.1.2.6. Bài tập thí nghiệm:  
11  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 21 trang minhvan 03/06/2024 1630
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Phương pháp giải bài tập Vật lí -Trung học cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_phuong_phap_giai_bai_tap_vat_li_trung_hoc_co_so.doc
  • docBIA SKKN.doc
  • docMỤC LỤC SKKN- Quang.doc