SKKN Nâng cao năng lực giải toán cho học sinh lớp 6

Toán học là bộ môn khoa học được coi là chủ lực, bởi trước hết Toán học hình thành cho con người tính chính xác, tính hệ thống, tình khoa học và tính logic,...vì thế nếu chất lượng dạy và học toán được nâng cao thì có nghĩa là chúng ta tiếp cận với nền kinh tế tri thức khoa học hiện đại, giàu tình nhân văn của nhân loại.Nếu “Toán học là một môn thể thao của trí tuệ” thì công việc của người dạy toán là tổ chức hoạt động trí tuệ ấy. Có lẽ không có môn học nào thuận lợi hơn môn toán trong công việc đầy hứng thú và khó khăn này.
Sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao năng lực giải toán cho học sinh lớp 6”  
***************************************************  
PHẦN I - MỞ ĐẦU  
A. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI  
1.Cơ sở luận.  
Toán học bộ môn khoa học được coi là chủ lực, bởi trước hết Toán học hình  
thành cho con người tính chính xác, tính hệ thống, tình khoa học và tính logic,...vì  
thế nếu chất lượng dạy học toán được nâng cao thì nghĩa là chúng ta tiếp cận  
với nền kinh tế tri thức khoa học hiện đại, giàu tình nhân văn của nhân loại.Nếu  
“Toán học một môn thể thao của trí tuệ” thì công việc của người dạy toán là tổ  
chức hoạt động trí tuệ ấy. lẽ không có môn học nào thuận lợi hơn môn toán  
trong công việc đầy hứng thú và khó khăn này.  
Định hướng đổi mới PPDH Môn Toán trong giai đoạn hiện nay đã được xác  
định là: “ Phương pháp dạy học môn toán trong nhà trường các cấp phải phát huy  
tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự  
học, trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy”. Theo định  
hướng dạy học này, giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, diều khiển quá  
trình học tập còn học sinh là chủ thể nhận thức.Vì vậy dạy học sinh học toán có  
phương pháp, chủ động và sáng tạo hay nói gọn là nâng cao năng lực giải toán là  
một phần của việc thực hiện định hướng đổi mới phương pháp dạy học môn toán.  
2. Cơ sở thực tiễn.  
Nhìn chung chương trình toán THCS vẫn mang tính lôgic, hệ thống: Tri thức  
trước chuẩn bị cho tri thức sau, kiến thức được sắp xếp như một chuỗi mắt xích liên  
kết với nhau chặt chẽ. Bởi thế học sinh muốn lĩnh hội được các kiến thức toán học  
thì phải có trình độ phát triển tư duy phù hợp với yêu cầu của chương trình.Cụ thể  
phải nhận thức được mối liên hệ giữa các mệnh đề toán học, biết suy luận để tìm  
ra những tính chất mới từ những tính chất đã biết, vận dụng các kiến thức đó để  
giải các bài tập đa dạng. Thực tế, đa số học sinh đều rất ngại học toán so với các  
môn học khác, đặc biệt học sinh đầu cấp THCS. Do lần đầu tiên tiếp xúc với môi  
trường mới, khi học đa số các em vận dụng kiến thức tư duy còn nhiều hạn chế, khả  
năng suy luận chưa nhiều, khả năng phân tích chưa cao do đó việc giải toán của các  
em gặp nhiều khó khăn. thế ít học sinh giải đúng, chính xác, gọn hợp lí.  
******************************************************************************  
1/27  
Sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao năng lực giải toán cho học sinh lớp 6”  
***************************************************  
Mặt khác trong quá trình giảng dạy do năng lực, ngại đầu tư thời gian, ngại suy  
nghĩ; đôi khi giáo viên mới chỉ dạy cho học sinh ở mức độ truyền thụ kiến thức trên  
tinh thần của sách giáo khoa mà chưa đầu tư nghiên cứu soạn hệ thống câu hỏi có  
tác dụng dẫn dắt, khuyến khích học sinh tích cực suy luận hay chưa phân loại các  
dạng toán, chưa khái quát được cách giải mỗi dạng toán cho học sinh. Do đó muốn  
bồi dưỡng năng lực giải toán cho học sinh phải tạo cho học sinh thói quen luôn suy  
nghĩ, phát huy năng lực một cách sáng tạo. vậy nhiệm vụ của người thầy giáo  
không đơn thuần giới thiệu kiến thức mới, giải bài tập cho học sinh mà vấn đề  
đặt ra là người thầy phải người định hướng, hướng dẫn cho học sinh cách tiếp  
cận kiến thức mới. Vận dụng kiến thức vào giải bài tập hiệu quả và khai thác  
được kết quả bài toán đơn giản để giải bài toán tồng quát, bài nâng cao, những bài  
tương tự....  
3.Năng lực nghiên cứu:  
Bản thân tôi đã dạy toán tất cả các lớp từ 6 đến 9 (Với chương trình thay SGK  
mới từ năm 2002-2003); đã dạy bồi đội tuyển học sinh giỏi toán cấp quận nhiều  
năm.  
Nhận thức rõ vai trò to lớn, tầm quan trọng hàng đầu của việc nâng cao năng lực  
giải toán đối với hiệu quả học tập môn toán của học sinh THCS nói chung, học  
sinh lớp 6 nói riêng nên tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Nâng cao năng lực giải toán  
cho học sinh lớp 6”  
B. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU  
Tôi chọn đề tài này nhằm góp thêm một hướng đi, một cách làm có hiệu quả các  
biện pháp sư phạm giúp cho học sinh có năng lực giải toán 6, góp phần nâng cao  
chất lượng dạy học Toán 6 nói riêng và Toán THCS nói chung. Đồng thời với cách  
làm này góp phần kích thích sự hứng thú và làm tăng lòng say mê môn Toán ở  
các em.  
C. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU  
- Học sinh lớp 6A5  
D. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
- Tham khảo các tài liệu có liên quan.  
******************************************************************************  
2/27  
Sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao năng lực giải toán cho học sinh lớp 6”  
***************************************************  
- Rút kinh nghiệm từ thực tế giảng dạy của bản thân.  
- Sưu tầm, tra cứu, học hỏi từ đồng nghiệp.  
- Vận dụng một số phương pháp chung của bộ môn, từ đó đưa ra một số biện pháp  
cụ thể đã áp dụng được trong thực tế giảng dạy đạt hiệu quả.  
Như vậy đề tài này được hoàn thành bằng phương pháp nghiên cứu luận,  
phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phương pháp thực nghiệm sư phạm trên đối  
tượng học sinh lớp 6 khi học toán 6( phần số học).  
E. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU:  
+ Việc hình thành năng lực giải toán cho học sinh là một quá trình lâu dài, đòi hỏi  
sự quan tâm ngay từ đầu và duy trì bền bỉ trong suốt cả quá trình dạy học của giáo  
viên. Vì vậy trong mọi giờ học toán dù chính khoá hay ngoại khoá, dù dạy kiến  
thức mới hay luyện tập, ôn tập, với đối tượng học sinh khá giỏi hay yếu kém  
giáo viên phải khéo léo dẫn dắt, giải ®Ó ®-a ®Õn kiÕn thøc mét c¸ch hîp lÝ, tù  
nhiªn , lµm cho HS thÊy rÊt gÇn gòi víi c¸c kiÕn thøc mµ c¸c em ®· cã, ®· biÕt, ®·  
®-îc häc..Tuy nhiên để điều kiện nghiên cứu sâu, tìm hiểu kỹ thì trong đề tài  
này tôi tập trung nghiên cứu thể nghiệm chủ yếu trong phần số học lớp 6.  
+ Thời gian thực hiện đtài: tháng 11 năm 2014 đến tháng 4 năm 2015  
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU  
-Để đạt được mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ làm sáng tỏ một số vấn đề  
như sau:  
-Làm sáng tỏ cơ sở luận về năng lực giải Toán.  
-Đề xuất các biện pháp sư phạm để bồi dưỡng năng lực giải Toán cho HS.  
-Thực nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi của đề tài.  
******************************************************************************  
3/27  
Sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao năng lực giải toán cho học sinh lớp 6”  
***************************************************  
PHẦN II – NỘI DUNG  
A. NHỮNG NỘI DUNG LÍ LUẬN  
Trong quá trình dạy học ở trường THCS tôi nhận thấy đa số học sinh chưa  
phát huy hết năng lực giải toán của mình, nhất học sinh đầu cấp THCS đối với  
môn số học 6 là bước khởi đầu quan trọng nhất để hình thành khả năng phân tích  
giải toán cho học sinh.  
Qua việc nghiên cứu thực tế giảng dạy cho thấy việc thực hiện đề tài thu  
được hiệu quả rõ nét. Chất lượng bài kiểm tra được nâng lên rõ rệt thể hiện qua sổ  
điểm. Hơn nữa chất lượng học sinh khá giỏi cũng tăng lên. Học sinh tỏ ra quan tâm  
yêu thích học toán hơn trước đây.  
B. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:  
1.Về phía GV  
Trong quá trình dạy học trong trường THCS hiện nay còn một vài giáo  
viên không xem trọng việc tự học ở nhà của học sinh mà thường giáo viên chỉ  
hướng dẫn một cách sài, giáo viên chưa phát huy hết tác dụng của đồ dùng dạy  
học, đặt câu hỏi chưa rõ ràng hoặc chưa sát với yêu cầu bài toán, chưa đưa ra được  
các bài toán tổng hợp ở cuối chương làm cho học sinh không có thời gian học bài  
và làm bài tập ở nhà và tạo áp lực cho học sinh gặp nhiều khó khăn…  
Bên cạnh đó một số giáo viên chưa chú trọng nhiều đến năng lực giải toán  
cho học sinh tìm nhiều cách giải, sáng tạo ra bài toán mới.  
2. Về phía HS  
Khả năng tính toán của các em chưa linh hoạt, chưa vận dụng hợp lí các  
phương pháp giải, hợp logic, khả năng phân tích, dự đoán kết quả của một số em  
còn hạn chế khả năng khai thác bài toán.  
Học sinh không nắm vững được những kiến thức đã học, một số học sinh  
không có khả năng phân tích một bài toán từ những đề bài yêu cầu sau đó tổng  
hợp lại, không chuyển đổi được từ ngôn ngữ bình thường sang ngôn ngữ số học  
hoặc không tìm ra phương pháp chung để giải dạng toán về phân số, từ đó cần có  
khả năng so sánh các cách giải để trình bày lời giải cho hợp lí. Nhiều học sinh một  
bài giải không xác định được đáp án đúng và sai. Vận dụng các cách giải đó để có  
thể tạo ra một bài toán mới tổng quát hơn.  
3. Nguyên nhân  
-Do học sinh bị mất căn bản của phần kiến thức về số tự nhiên và số nguyên.  
******************************************************************************  
4/27  
Sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao năng lực giải toán cho học sinh lớp 6”  
***************************************************  
-Cách trình bày lời giải một bài toán chưa thật chặt chẽ thực hiện các phép  
tính chưa chính xác nên hướng dẫn học sinh cần phải thực hiện cho hợp lí.  
-Chưa phương pháp học tập hợp lí; Chưa xác định đúng các dạng toán;  
-Chưa thời khóa biểu học ở nhà cụ thể; Không giải được nhiều bài tập ở  
lớp.  
Tõ ®Æc ®iÓm t©m lÝ häc sinh nãi chung th-êng c¶m thÊy khã lµm, dÔ bÞ sai nªn  
nhiÒu bµi tËp HS ch-a hiÓu b¶n chÊt vÊn ®Ò, ngän nguån cña kiÕn thøc.  
. V× thÕ nhiÖm vô cña GV lµ ph¶i khÐo lÐo dÉn d¾t , lÝ gi¶i ®Ó ®-a ®Õn kiÕn thøc  
mét c¸ch hîp lÝ , tù nhiªn , lµm cho HS thÊy rÊt gÇn gòi víi c¸c kiÕn thøc mµ c¸c  
em ®· cã , ®· biÕt , ®· ®-îc häc.  
Việc bồi dưỡng kiến thức cơ bản một công việc cực kỳ quan trọng kiến  
thức cơ bản nền tảng quyết định đến khả năng học tập của các em, đặc biệt môn  
Toán càng quan trọng hơn lượng kiến thức của bộ môn Toán có mối quan hệ  
chặt chẽ với nhau. Do đó trong quá trình dạy học cần rèn luyện giúp HS nắm vững  
các kiến thức cơ bản về phân số từ đó cơ sở để giải các bài toán có liên quan.  
Trong quá trình học tập đa số các em dễ bị mất các kiến thức cơ bản, do các  
em cho rằng các kiến này không quan trọng lắm nên thường không chú trọng.  
Trong quá trình dạy học GV cần chú trọng đến việc bồi dưỡng các kiến thức cơ bản  
cho các em để nhằm giúp cho các em nắm vững các kiến thức. Từ đó các em có  
nền tảng vững chắc cũng cơ sở giúp cho các em học tập một cách tốt hơn.  
Muốn vậy, trong quá trình giải toán GV có thể thông qua hệ thống câu hỏi để  
HS nắm lại các kiến thức đã học.  
C. GIẢI PHÁP:  
Ở cấp THCS, nhận thức của học sinh đang chuyển dần từ cảm tính sang lí tính,  
phương pháp suy luận chưa được hình thành một cách vững chắc. vậy trong việc  
học toán, hệ thống câu hỏi có tác dụng dẫn dắt, khuyến khích học sinh tích cực suy  
luận hình thành kĩ năng giải toán. Trong giảng dạy tôi đã sử dụng câu hỏi trong  
nhiều khâu như: Hình thành khái niệm; rèn luyện kĩ năng, kiểm tra kiến thức, củng  
cố bài giảng… Nhưng khâu nào thì giáo viên phải:  
*Làm cho hệ thống câu hỏi trở thành một quá trình dẫn dắt học sinh suy luận:  
Hiện nay, có nhiều tiết giáo viên còn nặng về thuyết trình, học sinh chỉ nghe và  
ghi một cách thụ động. Cùng có những tiết giáo viên lại đặt ra nhiều câu hỏi nhưng  
******************************************************************************  
5/27  
Sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao năng lực giải toán cho học sinh lớp 6”  
***************************************************  
không chọn lọc, học sinh cũng chưa hào hứng đối với câu hỏi đó. Tác dụng của câu  
hỏi không phải ở chỗ học sinh giơ tay nhiều hay ít, mà phải ở chỗ những câu hỏi ấy  
hướng dẫn bộ óc học sinh làm việc như thế nào?  
Tôi thấy rằng kiến thức mới bao giờ cũng mang tính kế thừa, nghĩa là có mối quan  
hệ sâu sắc với các kiến thức cũ. thế , hệ thống câu hỏi phải làm sao cho học sinh  
thể từ cái đã biết tìm ra cái chưa biết, từ cái dễ nhận biết đến cái khó hơn. Hệ  
thống câu hỏi phải tạo nên một quá trình dìu dắt, hướng dẫn học sinh suy nghĩ và  
trả lời theo qui luật phát triển của tư duy. Như vậy khi giải toán học sinh không bị  
hạn chế vào một cách giải duy nhất. Ngoài ra từ các cách giải sau các con còn có  
thể phát triển bài toán bằng tổng quát hoá hay thay đổi dữ kiện của bài toán để có  
bài toán mới mà cách giải vẫn tương tự.  
Khi hướng dẫn học sinh trả lời, thường gặp những câu trả lời sai của học sinh.  
Tôi đã chú ý chuẩn bị trước, dự đoán trước để biến những câu trả lời sai đó thành  
những phản dụ có ích, nhằm khắc sâu kiến thức cho học sinh. Chẳng hạn khi học  
về tính chất phân phối của phép nhân và phép cộng phân số, học sinh nêu rằng:  
a
b
c
m
n
a c  
m
n
.
.   
d
b d  
Tôi cứ để cho các con ứng dụng:  
2 9  
3
2 9  
.   
3 4 10  
3
3  
2
3
15  
3
12 6  
.
=
3
4 10  
10 10 10 10  
5
Sau đó để các con làm cách khác:  
Từ đó các con nhận ra được chỗ sai lầm của mình  
* Câu hỏi không lặp đi lặp lại một cách đơn điệu. Nên hỏi cùng một nội dung dưới  
nhiều hình thức khác nhau  
Để khắc sâu kiến thức phải sự nhắc đi nhắc lại. Song nếu nhắc đi nhắc lại một  
cách đơn điệu thì sẽ không gây hứng thú học tập. vậy khi chọn hệ thống câu hỏi,  
tôi chú trọng đưa nội dung của cùng một vấn đề dưới những hình thức khác nhau  
làm cho các em vừa nắm được bản chất của vấn đề, vừa biết vận dụng kiến thức  
vào những tình huống khác nhau.  
Đặc biệt tôi hay dùng những câu hỏi, bài toán có gắn liền với thực tế đời sống và  
2
các con. Chẳng hạn: Với bài toán :tìm một số biết của bằng 14 thì tôi cho học  
7
2
sinh bài toán: Đố các con cô bao nhiêu tuổi, biết số tuổi của bằng 14; đáng lẽ  
7
******************************************************************************  
6/27  
Sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao năng lực giải toán cho học sinh lớp 6”  
***************************************************  
3
a2  
phải tính giá trị của biểu thức 0,08 với a = thì tôi đưa ra bài toán: Tính diện  
4
3
tích mặt cắt của một thân cây hình tròn có chu vi là m bằng công thức tính gần  
4
C2  
đúng diện tích S = 0,08 trong đó C là chu vi đường tròn.  
Trước khi thay đổi các hình thức câu hỏi, tôi thường chọn các câu hỏi so sánh để  
học sinh có thể liên hệ khái niệm cũ với khái niệm mới. dụ: So sánh các qui tắc  
nhân phân số với phân số, nhân phân số với số nguyên, nhân số nguyên với phân số  
thì phải chỉ mối quan hệ bao hàm: Qui tắc đúng cho trường hợp chung thì sẽ  
đúng cho trường hợp riêng. Khi so sánh phân loại, tôi thường đưa ra sơ đồ.Ví dụ:  
Khi dạy xong ba bài toán cơ bản vphân số tôi chuyển từ ngôn ngữ thông thường  
sang ngôn ngữ toán học qua bảng hệ thống hoá kiến thức sau:  
Bài toán 1  
Bài toán 2  
(Tìm giá trị PS của 1 số cho trước)  
(Tìm 1 số, biết giá trị 1PS của nó)  
m
m
Tìm a, biết a =  
của b  
Tìm b, biết  
của b bằng a.  
n
n
Công thc 1  
Công thức 2  
b = a :  
m
m
n
a = b.  
n
Bài toán 2  
(Tìm tỉ số của 2 số a và b)  
Công thức 3  
a
= a : b  
b
* Hệ thống câu hỏi phải tác động đến nhiều loại đối tượng:  
Rõ ràng trong một lớp học, trình độ của học sinh không đồng đều. Phải chăng cần  
những câu hỏi để dành riêng cho các em kém và lúc đó các em khá không cần  
theo dõi, lại những câu hỏi khó dành cho các em khá và các em kém chỉ cần  
ngồi nghe?  
******************************************************************************  
7/27  
Sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao năng lực giải toán cho học sinh lớp 6”  
***************************************************  
Làm như vậy vừa không có tính sư phạm vừa không đủ thời gian. Tôi cho rằng  
những câu hỏi này phải xen kẽ nhau một cách hợp lí. Em khá cùng phải theo dõi  
các câu hỏi dễ đằng sau câu hỏi ấy một sự phát triển mới. Em kém cùng có thể  
hiểu được câu hỏi khó vì nó đã một quá trình dẫn dắt.  
dụ: Giới thiệu về số nguyên tố, giáo viên bắt đầu bằng một câu hỏi:  
+ Cho 1; 2; 9; 21; 23; 567. Số nào là số nguyên tố? ( Câu này học sinh kém cũng  
trả lời được)  
+ Vì sao? ( Câu này chỉ có HS trung bình mới trả lời được trôi chảy)  
+ Số nào là hợp số? Vì sao ?  
Các câu hỏi sau đây đi vào mức cao hơn :  
+ Số nào chỉ chia hết cho 1 và chính nó mà lại không phải số nguyên tố ?  
+ Số nào lớn hơn 1, chia hết cho 1 và chính nó mà lại không phải số nguyên tố ?  
Những câu hỏi này đã nâng mức suy luận của học sinh cao hơn, và sau đó đi vào  
phần luyện tập. Để phát huy tác dụng câu trả lời của các em khá đối với các em  
kém, tôi lại đề ra câu hỏi :  
+ Hãy viết số 19 thành tổng của 2 số nguyên tố ?  
Các em khá đã tìm ra là : 19 = 2+ 17. Dựa vào đó các em kém cũng phân tích được  
như sau: 13 = 2 + 11; 25 = 2 + 23. Cứ như vậy, tất cả mọi đối tượng trong lớp đều  
được giáo viên quan tâm đến và các em kém dần dần được nâng lên mức trung  
bình.  
CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ:  
I/ Bồi dưỡng kiến thức cơ bản cho học sinh  
1. Cơ sở xác định biện pháp  
Việc bồi dưỡng kiến thức cơ bản một công việc cực kỳ quan trọng kiến  
thức cơ bản nền tảng quyết định đến khả năng học tập của các em, đặc biệt môn  
Toán càng quan trọng hơn lượng kiến thức của bộ môn Toán có mối quan hệ  
chặt chẽ với nhau. Do đó trong quá trình dạy học cần rèn luyện giúp HS nắm vững  
các kiến thức cơ bản về phân số từ đó cơ sở để giải các bài toán có liên quan.  
2. Nội dung của biện pháp  
Để bồi dưỡng kiến thức cơ bản hiệu quả thì chúng ta cần:  
-Xác định được đối tượng cần bồi dưỡng kiến thức.  
-Kế hoạch của việc cần bồi dưỡng kiến thức.  
******************************************************************************  
8/27  
Sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao năng lực giải toán cho học sinh lớp 6”  
***************************************************  
-Nội dung bồi dưỡng kiến thức.  
-Đánh giá hiệu quả qua việc bồi dưỡng kiến thức.  
3. Yêu cầu của biện pháp  
Trong quá trình học tập đa số các em dễ bị mất các kiến thức cơ bản, do các  
em cho rằng các kiến này không quan trọng lắm nên thường không chú trọng.  
Trong quá trình dạy học GV cần chú trọng đến việc bồi dưỡng các kiến thức cơ bản  
cho các em để nhằm giúp cho các em nắm vững các kiến thức. Từ đó các em có  
nền tảng vững chắc cũng cơ sở giúp cho các em học tập một cách tốt hơn.  
Muốn vậy, trong quá trình giải toán GV có thể thông qua hệ thống câu hỏi để  
HS nắm lại các kiến thức đã học.  
4. Các ví dụ minh họa  
dụ 1 ( Ví dụ 2 phương pháp giải toán 6 tập 2 tr 149 )  
3 1  
4 3 7   
4
1 7  
.
Tính: a) C :  
b) D .  
:  
5
3 5  
4 5  
7 5 5  
Gợi ý câu a  
GV:Yêu cầu học sinh nêu thứ tự thực hiện phép toán  
GV:Trong dấu ngoặc là phép toán gì ? Cách thực hiện của chúng ra sao ?  
GV: Trong quá trình thực hiện các phép tính ta cũng cần chú ý đến việc rút gọn để  
giúp cho bài toán trở nên dễ tính hơn.  
GV: Để thực hiện phép chia hai phân số ta làm như thế nào ?  
Gợi ý câu b.  
GV: Yêu cầu học sinh nêu thứ tự thực hiện phép toán ?  
GV: Hãy cho biết thứ tự ưu tiên cho dấu ngoặc nào trước ?  
GV: Trong dấu ngoặc gồm những phép toán nào ? Thứ tự thực hiện của chúng ra  
sao ?  
4
1 7  
3 5  
4 7 4 1  
: :  
5 35 5 5  
4
a) C :  
.
.(5)  4  
5
5
3 1  
4 3 7 3 1  
4 3 5 3 1  
4
7
3   
b) D .  
:  
.  
.  
.  
4 5 7 5 5  
4 5  
7 5 7  
4 5  
7
3 1 1  
3 2  
.  
3
.  
4 5 7  
4 35 70  
******************************************************************************  
9/27  
Sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao năng lực giải toán cho học sinh lớp 6”  
***************************************************  
Trong quá trình giải bài toán GV cần đặt ra các câu hỏi có liên quan đến kiến  
thức trọng tâm của dạng toán để áp dụng giải bài tập. Các bài toán trên chúng ta đã  
sử dụng các kiến thức nào để giải ? Để nhằm giúp HS khắc sâu các kiến thức.  
Qua bài toán trên nhằm rèn khả năng tính toán cho HS, giúp cho các nắm  
vững thứ tự thực hiện các phép tính trong toán đồng thời cũng rèn luyện khả năng  
duy cho các em. Đặc biệt trong quá trình dạy học GV cần đặt nhiều câu hỏi gợi ý  
cho sinh nhằm giúp cho các em nắm vững kiến thức.  
dụ 2 ( Bài tập 92 phương pháp giải toán 6 tập 2 tr 157 )  
3
Quãng đường từ nhà đến trường dài 1200m. An đi xe đạp được  
quãng  
5
đường thì bị hỏng xe. An đành phải gửi xe và đi bộ đến trường. Tính quãng đường  
An đi xe đạp đi bộ.  
Gợi ý bài toán  
GV: Đây là bài toán liên quan đến kiến thức nào ?  
m
GV: Xác định đâu là b và đâu là  
?
n
GV: Quãng đường An đi bộ chiếm bao nhiêu phần quãng đường từ nhà đến  
trường ?  
Giải:  
3
Quãng đường An đi xe đạp 1200. 720 (m).  
5
2
Quãng đường An đi bộ 1200. 480 (m).  
5
Qua bài toán rèn luyện cho HS khả năng phân tích đúng bài toán và biết cách  
giải đúng bài toán, cho HS thấy được mối quan hệ giữa toán học thực tế. Do đó  
trong quá trình dạy học GV cần tạo được sự tò mò, hứng thú và muốn khám phá sự  
hiểu biết của mình để nhằm làm tăng khả năng học tập cho các em.  
II/ Bồi dưỡng năng lực định hướng đường lối giải bài toán  
1. Cơ sở xác định biện pháp  
Công việc định hướng tìm đường lối giải bài toán là một vấn đề khó khăn  
cho những học sinh yếu, kém và kể cả những học sinh khá, giỏi. Để giải quyết tốt  
******************************************************************************  
10/27  
Sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao năng lực giải toán cho học sinh lớp 6”  
***************************************************  
bài toán thì cần phải định hướng giải đúng. Do đó việc định hướng giải bài toán  
một vấn đề rất cần thiết và quan trọng.  
2. Nội dung biện pháp  
Khi giải bài toán thì chúng ta cần phải biết đường lối giải nhưng không phải  
bài toán nào cũng dễ tìm thấy đường lối giải. Do đó việc tìm ra đường lối giải là  
một vấn đề nan giải, nó là một quá trình rèn luyện lâu dài. Ngoài việc nắm vững  
các kiến thức cơ bản thì việc thực hành cũng rất quan trọng. Nhờ quá trình thực  
hành đó giúp cho HS hình thành nên những kỹ năng, kỹ xảo định hướng được  
đường lối giải bài toán. Do đó đòi hỏi người dạy, người học phải có tính nghiêm  
túc, cẩn thận và kiên nhẫn cao.  
3. Yêu cầu của biện pháp  
Việc xác định đường lối giải chính xác sẽ giúp cho HS giải quyết các bài  
toán một cách nhanh chóng, dễ hiểu, ngắn gọn và tránh mất được thời gian. Chính  
vậy, đòi hỏi mỗi GV cần phải rèn luyện cho HS khả năng định hướng đường lối  
giải bài toán là điều không thể thiếu trong quá trình dạy học Toán.  
4. Các ví dụ minh họa  
dụ 1 ( Bài tập 168d ôn tập Toán 6 tr 92 )  
5
18  
Tính:  
0,75  
24 27  
Định hướng giải bài toán  
GV: Để thực hiện được phép tính trên, trước tiên chúng ta cần làm gì ?  
GV: Các phân số đó đã tối giản chưa ?  
GV: Để thực hiện phép cộng phân số không cùng mẫu ta làm như thế nào ?  
Giải :  
5
18  
5
18 75  
5
2
3
4
5
16 18 39 13  
0,75  
=
=
   
=
24 27  
24 27 100 24  
3
24 24 24 24  
8
Qua bài toán này nhằm giúp cho HS nắm vững các kiến thức và làm quen  
dần các bước phân tích, lập luận bài toán cho HS.  
dụ 2 ( Ví dụ 64 Ôn tập Toán 6 tr 99 )  
7 11 2 7  
8
Tính nhanh: A   
.
.
15 13 13 15 15  
Định hướng giải bài toán  
GV: Hãy quan sát và nhận xét 3 số hạng của biểu thức ?  
GV: Để tính nhanh giá trị của biểu thức trên ta cần vận dụng tính chất nào để giải ?  
******************************************************************************  
11/27  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 31 trang minhvan 22/06/2025 330
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Nâng cao năng lực giải toán cho học sinh lớp 6", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_nang_cao_nang_luc_giai_toan_cho_hoc_sinh_lop_6.doc