SKKN Nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn luyện từ và câu lớp 4 ở Trường Tiểu học Vạn Khánh 2
Môn Tiếng Việt trong nhà trường Tiểu học chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Nó nhằm hình thành và phát triển ở học sinh Tiểu học các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết; cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về thế giới xung quanh. Qua đó bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách cho học sinh.
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VẠN NINH
TRƯỜNG TIỂU HỌC VẠN KHÁNH 2
SÁNG KIẾN
ÑEÀ TAØI :
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ
CÂU LỚP 4 Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC VẠN KHÁNH 2
Tên tác giả : NGUYỄN DUY HUY
Năm học : 2018 - 2019
MỤC LỤC
Trang
I. Đặt vấn đề
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................1
2. Lịch sử của đề tài............................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu đề tài.............................................................................2
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu...........................................................2
5. Giới hạn (phạm vi) nghiên cứu.......................................................................2
6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu...............................................................3
II. Giải quyết vấn đề
1. Cơ sở lí luận của vấn đề...............................................................................4
2. Thực trạng của vấn đề .................................................................................5
3. Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề...........................................10
4. Hiệu quả của đề tài....................................................................................24
III. Kết luận
1. Đúc kết lại những nội dung chính đã trình bày…………………………..26
2. Đề ra biện pháp triển khai, áp dụng đề tài vào thực tiễn…………………27
3. Nêu kiến nghị, đề xuất…………………………………………………....27
4. Hướng phát triển của đề tài……..………………………………………..27
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
I. Đặt vấn đề :
1. Lý do chọn đề tài:
Môn Tiếng Việt trong nhà trường Tiểu học chiếm một vị trí vô cùng quan
trọng. Nó nhằm hình thành và phát triển ở học sinh Tiểu học các kĩ năng nghe,
nói, đọc, viết; cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về thế giới xung
quanh. Qua đó bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách
cho học sinh. Trong chương trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học, Luyện từ và câu
được tách thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với các phân môn
khác như Tập đọc, Chính tả, Tập làm văn... Ngoài ra Luyện từ và câu còn được
đặt trong các phân môn khác thuộc môn Tiếng Việt và trong giờ học của các
môn học khác...Như vậy nội dung dạy về luyện từ và câu trong chương trình
môn Tiếng Việt nói riêng, các môn học nói chung ở Tiểu học, chiếm một tỷ lệ
đáng kể. Điều đó nói lên ý nghĩa quan trọng của việc dạy Luyện từ và câu ở
Tiểu học.
Nói đến dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học người ta thường nói tới 3 nhiệm
vụ chủ yếu là giúp học sinh phong phú hoá vốn từ, chính xác hoá vốn từ và tích
cực hoá vốn từ. Phong phú hoá vốn từ còn gọi là mở rộng vốn từ, phát triển vốn
từ nghĩa là xây dựng vốn từ ngữ phong phú, thường trực và có hệ thống trong trí
nhớ học sinh, để tạo điều kiện cho từ đi vào hoạt động ngôn ngữ (nghe - đọc, nói
- viết) được thuận lợi. Chính xác hoá vốn từ là giúp học sinh hiểu nghĩa của từ
một cách chính xác - nhất là đối với những từ ngữ mà học sinh thu nhận được
qua cách học tự nhiên, đồng thời giúp học sinh nắm được nghĩa của những từ
ngữ mới. Tích cực hoá vốn từ là giúp học sinh luyện tập, sử dụng từ ngữ trong
nói - viết, nghĩa là giúp học sinh chuyển hoá những từ ngữ tiêu cực (từ ngữ mà
chủ thể hiểu nhưng không hoặc ít dùng) thành những từ ngữ tích cực (từ ngữ
được chủ thể sử dụng trong nói - viết), phát triển kỹ năng, kỹ xảo phát triển từ
ngữ cho học sinh.
Do Luyện từ và câu là một phân môn mới và khó, cho nên giáo viên còn
lúng túng trong việc tổ chức một tiết dạy - học Luyện từ và câu sao cho đúng
yêu cầu của phân môn, đúng đặc trưng của phân môn và đạt được hiệu quả dạy -
học cao. Dưới cái nhìn của giáo viên, có thể nói một số nội dung giảng dạy
(được trình bày trong sách giáo khoa) còn ít nhiều xa lạ và phương pháp dạy
phân môn này hầu như chưa định hình, cho nên giáo viên gặp nhiều khó khăn
trong giảng dạy. Giáo viên có tâm lý ngại dạy Luyện từ và câu. Hiệu quả dạy -
học giờ Luyện từ và câu nhìn chung còn thấp. Cách dạy của nhiều giáo viên
trong giờ luyện từ và câu còn đơn điệu, lệ thuộc một cách máy móc vào sách
giáo viên, hầu như rất ít sáng tạo, chưa sinh động, chưa cuốn hút được học sinh.
Điều kiện giảng dạy của giáo viên còn hạn chế, các tài liệu tham khảo phục vụ
việc giảng dạy Luyện từ và câu cũng như tranh ảnh, vật chất và các đồ dùng dạy
học khác chưa phong phú.
Mặt khác, học sinh ít hứng thú học phân môn này. Hầu hết các em được
hỏi ý kiến đều cho rằng: Luyện từ và câu là một môn học khô và khó. Một số
chủ đề còn trừu tượng, khó hiểu, không gần gũi quen thuộc. Bên cạnh đó, cách
2
miêu tả, giải thích nghĩa một số từ trong sách giáo khoa còn mang tính chất ngôn
ngữ học, chưa phù hợp với lối tư duy trực quan của các em. Trong sách giáo
khoa, có những loại bài tập hoặc xuất hiện quá nhiều, gây tâm lý nhàm chán
(điền từ) hoặc yêu cầu được nêu ra trong bài tập không rõ ràng, không tường
minh và khó thực hiện (bài tập dùng từ viết thành đoạn văn ngắn). Điều này dẫn
đến tâm lý mệt mỏi, ngại học phân môn Luyện từ và câu ở các em.
Do vậy việc tổ chức cho học sinh học phân môn Luyện từ và câu là vấn đề
trăn trở cho các giáo viên và ngay bản thân tôi. Để tháo gỡ khó khăn đó rất cần
có biện pháp tổ chức tốt nhất, có hiệu quả nhất cho tiết dạy Luyện từ và câu cho
học sinh.
Từ tình hình thực tế nêu trên và nhận thức được tầm quan trọng của phân
môn Luyện từ và câu, thông qua việc học tập, giảng dạy trong những năm qua,
tôi đã chọn đề tài “Nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và
câu lớp 4 ở trường Tiểu học Vạn Khánh 2” để nghiên cứu sâu hơn về biện
pháp tổ chức dạy Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4.
2. Lịch sử của đề tài
Trước đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu về nội dung này. Tuy nhiên về
chất lượng dạy và học phân môn Luyện từ và câu của học sinh lớp 4 nói chung
và học sinh lớp 4 trường Tiểu học Vạn Khánh 2 nói riêng vẫn chưa đạt kết quả
cao.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Qua nghiên cứu đề tài, bản thân và đồng nghiệp tìm ra được các biện pháp
giảng dạy phân môn Luyện từ và câu tối ưu, giúp học sinh tiếp thu và vận dụng
kiến thức một cách hiệu quả nhất, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn
Tiếng Việt nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng, tiến tới nâng cao
chất lượng giáo dục trong nhà trường.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu mục tiêu, nội dung dạy- học phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4.
- Tìm hiểu thực trạng dạy- học phân môn Luyện từ và câu lớp 4 ở trường Tiểu
học Vạn Khánh 2.
- Đưa ra một số biện pháp dạy- học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy phân
môn Luyện từ và câu ở trường Tiểu học Vạn Khánh 2.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp điều tra, khảo sát.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp thực nghiệm.
3
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
5. Giới hạn (phạm vi) nghiên cứu
- Nội dung: Phân môn Luyện từ và câu lớp 4.
- Thời gian: 9/ 2018 – 12/ 2018
- Không gian: Trường Tiểu học Vạn Khánh 2
- Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 4 trường Tiểu học Vạn Khánh 2.
6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
Đề tài đưa ra những biện pháp tích cực nhằm giúp học sinh khối lớp 4 ở
trường Tiểu học Vạn Khánh 2 học tốt hơn phân môn Luyện từ và câu, nâng cao
chất lượng giảng dạy phân môn này, góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng
Việt.
4
II. Giải quyết vấn đề :
1. Cơ sở lí luận :
1.1. Vị trí của phân môn Luyện từ và câu
Từ và câu có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Từ là
đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Câu là đơn vị nhỏ nhất có thể thực hiện chức
năng giao tiếp. Vai trò của từ và câu trong hệ thống ngôn ngữ quyết định tầm
quan trọng của việc dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học. Việc dạy Luyện từ và câu
nhằm mở rộng, hệ thống hóa làm phong phú vốn từ của học sinh, cung cấp cho
học sinh những hiểu biết sơ giản về từ và câu, rèn cho học sinh kĩ năng dùng từ
đặt câu và sử dụng các kiểu câu để thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình, đồng
thời giúp cho học sinh có khả năng hiểu các câu nói của người khác. Luyện từ
và câu có vai trò hướng dẫn học sinh trong việc nghe, nói, đọc, viết, phát triển
ngôn ngữ trí tuệ của các em.
1.2. Nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu
1.2.1. Làm giàu vốn từ cho học sinh và phát triển năng lực dùng từ đặt
câu của các em
Nhiệm vụ này bao gồm các công việc sau:
- Dạy nghĩa từ: Làm cho học sinh nắm nghĩa từ bao gồm việc thêm vào vốn từ
của học sinh những từ mới và những nghĩa mới của từ đã biết, làm cho các em
nắm được tính nhiều nghĩa và sự chuyển nghĩa của từ.
- Hệ thống hóa vốn từ: Dạy học sinh biết cách sắp xếp các từ một cách có hệ
thống trong trí nhớ của mình để tích lũy từ được nhanh chóng và tạo ra tính
thường trực của từ, tạo điều kiện cho các từ đi vào hoạt động lời nói được thuận
lợi.
- Tích cực hóa vốn từ: Dạy cho học sinh sử dụng từ, phát triển kĩ năng sử dụng
trong lời nói và lời viết của học sinh, đưa vào trong vốn từ tích cực được học
sinh dùng thường xuyên .
- Dạy cho học sinh biết cách đặt câu, sử dụng các kiểu câu đúng mẫu, phù hợp
với hoàn cảnh, mục đích giao tiếp.
1.2.2. Cung cấp một số kiến thức về câu
Trên cơ sở vốn ngôn ngữ có được trước khi đến trường, từ những hiện
tượng cụ thể của tiếng mẹ đẻ, phân môn Luyện từ và câu cung cấp cho học sinh
một số kiến thức về từ và câu cơ bản, sơ giản, cần thiết và vừa sức với các em.
Luyện từ và câu trang bị cho học sinh những hiểu biết về cấu trúc của từ, câu,
quy luật hành chức của chúng.
Ngoài các nhiệm vụ chuyên biệt trên, Luyện từ và câu còn có nhiệm vụ
rèn luyện tư duy và giáo dục thẩm mĩ cho học sinh.
1.3. Chương trình dạy học Luyện từ và câu
5
Ở lớp 1 chưa có tiết Luyện từ và câu, ở lớp 2 và lớp 3 mỗi tuần có 1 tiết, ở
lớp 4 và 5 có 2 tiết mỗi tuần (chưa kể các tuần ôn tập).
Ở lớp 4, các kiến thức lí thuyết được học thành tiết riêng. Đó là các nội
dung như từ và cấu tạo từ, các lớp từ (đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm, nhiều
nghĩa), từ loại, câu, các kiểu câu, thành phần câu, dấu câu, biện pháp liên kết
câu. Ngoài ra, chương trình còn cung cấp cho học sinh một số kiến thức ngữ âm
– chính tả như tiếng, cấu tạo tiếng.
1.3.1. Về vốn từ
Học sinh học thêm khoảng 500 – 550 từ ngữ (kể cả thành ngữ, tục ngữ và
một số yếu tố gốc Hán thông dụng) theo các chủ đề.
1.3.2. Các mạch kiến thức và kĩ năng về từ và câu
- Cấu tạo từ: Từ đơn, từ phức, từ ghép, từ láy.
- Từ loại: Danh từ, danh từ chung, danh từ riêng, động từ, tính từ.
- Các kiểu câu: Câu hỏi và dấu chấm hỏi; Dùng câu hỏi với mục đích khác; Giữ
phép lịch sự khi đặt câu hỏi; Câu kể; Câu kể “Ai làm gì?”; Câu kể “Ai thế
nào?”; Câu kể “Ai là gì?”; Luyện tập câu kể “Ai làm gì?”; Câu khiến; Cách đặt
câu khiến; Giữ phép lịch sự khi bày tỏ yêu cầu, đề nghị; Câu cảm.
- Cấu tạo câu (thành phần câu): Vị ngữ trong câu kể “Ai làm gì?”; Chủ ngữ
trong câu kể “Ai làm gì?”; Vị ngữ trong câu kể “Ai thế nào?”; Chủ ngữ trong
câu kể “Ai thế nào?”; Vị ngữ trong câu kể “Ai là gì?”; Chủ ngữ trong câu kể “Ai
là gì?”; Thêm trạng ngữ cho câu; Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu.
- Dấu câu: Dấu hai chấm, dấu ngoặc kép, dấu chấm hỏi, dấu gạch ngang.
- Ngữ âm – chính tả: Cấu tạo tiếng; Cách viết tên người, tên địa lí Việt Nam;
Cách viết tên người, tên địa lí nước ngoài; Cách viết tên các cơ quan, tổ chức,
giải thưởng, danh hiệu, huân chương.
1.3.4. Các kiểu bài học Luyện từ và câu trong sách giáo khoa
Các bài học theo các mạch kiến thức từ, câu có thể chia thành hai kiểu:
bài lí thuyết, bài thực hành.
- Những bài được xem là bài lí thuyết về từ và câu ở lớp 4 là những bài được đặt
tên theo một mạch kiến thức và có phần ghi nhớ được đóng khung. Cấu trúc bài
lí thuyết về từ và câu gồm có ba phần: phần Nhận xét, phần Ghi nhớ, phần
Luyện tập.
- Bài thực hành là những bài có tên gọi “Luyện tập”, chỉ gồm các bài tập nhưng
cũng có khi thêm những nội dung kiến thức mới, ví dụ kiến thức về các kiểu loại
danh từ ở bài luyện tập về danh từ, kiến thức về các kiểu từ ghép trong bài luyện
tập về từ ghép.
Ngoài ra, bài ôn tập là nhóm bài có tên gọi “Ôn tập”, là các bài có nội
dung luyện từ và câu trong tuần ôn tập giữa học kì, cuối học kì, cuối năm.
1.3.5. Các nhóm, dạng bài tập Luyện từ và câu
6
Dựa vào nội dung dạy học, các bài tập Luyện từ và câu được chia làm hai
mảng lớn là mảng bài tập làm giàu vốn từ và mảng bài tập theo các mạch kiến
thức và kĩ năng về từ và câu.
- Bài tập làm giàu vốn từ được chia thành ba nhóm: bài tập dạy nghĩa, bài
tập hệ thống hóa vốn từ và bài tập dạy sử dụng từ (tích cực hóa vốn từ).
- Bài tập theo các mạch kiến thức và kĩ năng về từ và câu được chia ra
thành các nhóm: bài tập luyện từ (bài tập về các lớp từ, về biện pháp tu từ, cấu
tạo từ, từ loại), bài tập luyện câu (các kiểu câu, cấu tạo câu, dấu câu, biện pháp
liên kết câu), ngoài ra còn có nhóm bài tập về cấu tạo tiếng và quy tắc viết hoa.
1.4. Các biện pháp dạy học chủ yếu
1.4.1. Cung cấp kiến thức mới
- Giáo viên tổ chức cho học sinh làm các bài tập ở phần nhận xét theo các hình
thức:
+ Trao đổi chung cả lớp.
+ Trao đổi từng nhóm ( tổ; bàn; hoặc 2,3 học sinh).
+ Tự làm cá nhân, qua đó học sinh rút ra kết luận theo các điểm cần ghi nhớ về
kiến thức.
1.4.2. Luyện tập và mở rộng vốn từ
- Giáo viên cho học sinh nhắc lại một số kiến thức có liên quan, sau đó tổ chức
cho học sinh làm các bài tập theo các hình thức trao đổi nhóm, thi đua giữa các
nhóm, cá nhân. Cần lưu ý các vấn đề sau:
+ Hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ yêu cầu của bài tập.
+ Hướng dẫn thực hiện mẫu một phần bài tập.
+ Hướng dẫn học sinh làm vào vở ( bảng con, bảng phụ…)
+ Hướng dẫn học sinh nêu kết quả, chữa bài tập và tự kiểm tra kết quả luyện tập.
2. Thực trạng của vấn đề
2.1. Đối với giáo viên
Phân môn Luyện từ và câu tạo cho học sinh môi trường giao tiếp để học
sinh mở rộng vốn từ có định hướng, trang bị cho học sinh các kiến thức cơ bản
về Tiếng Việt gắn với các tình huống giao tiếp thường gặp. Từ đó nâng cao các
kỹ năng sử dụng Tiếng Việt của học sinh. Giáo viên là một trong 3 nhân tố cần
được xem xét của quá trình dạy học Luyện từ và câu, là nhân tố quyết định sự
thành công của quá trình dạy học này. Khi nghiên cứu quá trình dạy Luyện từ và
câu cho học sinh lớp 4, tôi thấy thực trạng của giáo viên như sau:
- Tồn tại giáo viên không chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai thác
kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, lệ thuộc vào đáp án, gợi
ý dẫn đến học sinh không có hứng thú trong học tập.
7
- Cách dạy của một số giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc máy móc vào sách giáo
khoa, ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn được học sinh.
- Nhiều giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ cho
học sinh nên các em chưa được làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt.
- Thực tế trong trường tôi công tác, chúng tôi luôn tích cực đổi mới phương
pháp giảng dạy sao cho tiết học đạt hiệu quả cao nhất. Đó cũng là tiền đề trong
việc phát triển bồi dưỡng những em có năng khiếu. Nhưng kết quả giảng dạy và
hiệu quả còn bộc lộ không ít những hạn chế.
2.2. Đối với học sinh
Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân
môn Luyện từ và câu nên chưa dành thời gian thích đáng để học môn học này.
Học sinh không có hứng thú học phân môn này. Các em đều cho đây là
phân môn vừa “khô” vừa “khó”.
Nhiều học sinh chưa nắm vững kiến thức đã học, từ đó dẫn đến việc nhận
diện, phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn
nhiều.
Chưa hiểu nghĩa của từ, cấu tạo từ, vốn từ còn nghèo nàn nên các em
dùng từ còn sai, khi nói và viết chưa trọn câu, không diễn đạt một cách trôi chảy
những cảm nhận của mình.
Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đề bài, thường hay bỏ
sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài.
Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trôi
chảy, chính xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và bài làm không
đạt yêu cầu. Điều đó cho thấy rằng học sinh nắm kiến thức một cách còn máy
móc, thụ động và tỏ ra yếu kém, thiếu chắc chắn.
Do vậy ngay khi dạy tới phần từ ghép, từ láy...Tôi đã tiến hành khảo sát
học sinh khối 4 (45 học sinh) bằng bài tập có nội dung như sau:
Đề bài: Hãy xếp những từ được in đậm trong các câu dưới đây thành hai loại: từ
ghép và từ láy.
Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên, cứng
cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người.
Kết quả khảo sát như sau:
Xếp loại
Lớp
Sĩ số
Giỏi
Khá
TB
12
Yếu
8
4A
4B
22
23
0
0
2
3
11
9
8
Tổng số
45
0
5 (11,1%) 23(51,1%) 17 (37, 8%)
Điều đáng nói ở đây là có tới 37,8% số học sinh chưa biết xác định từ ghép, từ
láy. Mặt khác, học sinh chưa biết trình bày bài làm khoa học rõ ràng, câu trả lời
chưa đầy đủ. Qua giảng dạy tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do nguyên nhân
cả hai phía: Người dạy và người học. Do vậy tôi rất cần phải trau dồi kiến thức
tìm ra biện pháp đổi mới trong hướng dẫn giảng dạy để khắc phục thực trạng
trên, kết quả dạy học được nâng lên, thu hút sự chú ý của học sinh vào hoạt động
học.
3. Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề
Từ kết quả thực tế dạy và học phân môn Luyện từ và câu trên tôi có đề
xuất một số biện pháp sau:
3.1. Chuẩn bị đồ dùng
Việc dạy học theo phương pháp mới hiện nay đòi hỏi giáo viên phải năng
động, sáng tạo tìm tòi học hỏi để làm tăng hiệu quả giờ dạy đồng thời nâng cao
chất lượng học tập của học sinh. Vì vậy, việc chuẩn bị phương tiện và đồ dùng
dạy học cho mỗi bài học là một khâu không thể thiếu. Mỗi bài yêu cầu mỗi loại
phương tiện và đồ dùng riêng như: băng đĩa, phiếu học tập, bảng phụ, hình ảnh
trực quan, vật thật…Đồ dùng dạy học sẽ đóng góp phần lớn cho hiệu quả cũng
như thành công của tiết dạy.
Ví dụ: Khi dạy bài: Câu kể Ai là gì? (Tuần 24)
Bài tập 2 yêu cầu dùng câu kể Ai là gì? viết đoạn văn giới thiệu về gia
đình em hoặc tập thể lớp em. Chắc chắn rằng, giờ học sẽ sinh động và lôi cuốn
hơn khi học sinh có tấm ảnh chụp cả gia đình, các em sẽ nhìn vào đó để giới
thiệu thành viên của gia đình cho cả lớp nghe qua tấm ảnh đó.
3.2. Tạo sự gần gũi, hứng thú ban đầu cho các em
Kiểm tra bài cũ để giáo viên nắm bắt việc học ở nhà của học sinh, nhưng
nếu chỉ đơn thuần là kiểm tra kiến thức của bài học sẽ gây cho học sinh cảm giác
nhàm chán hoặc “sợ”. Vì vậy, hình thức kiểm tra là rất quan trọng để gây hứng
thú học tập cho học sinh. Có thể kiểm tra bằng nhiều hình thức như: hỏi - đáp
giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh và học sinh, trò chơi ...
Ví dụ: Bài: Mở rộng vốn từ: Nhân hậu - Đoàn kết ( Tuần 3).
Khi kiểm tra bài cũ tôi đã thực hiện bằng hình thức cho học sinh chơi trò
chơi: Xếp các từ ghép có tiếng “nhân” vào hai cột.
“Nhân” có nghĩa là người
Nhân dân
“Nhân” có nghĩa là lòng thương người
Nhân hậu
Nhân đức
Công nhân
9
Nhân tài
...
Nhân từ
...
Tổ chức thi đua giữa hai đội, đội nào xếp đúng và nhanh nhất sẽ thắng cuộc.
Phần giới thiệu bài, việc dẫn dắt vào bài học cũng là một nghệ thuật. Lời
vào bài chỉ cần ngắn gọn, vừa đủ ý, không dài dòng để học sinh cảm thấy hấp
dẫn, muốn tìm hiểu, muốn nghe cô giảng.
3.3. Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu
Việc phân tích ngữ liệu giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập và
thực hành tốt nhằm rút ra kiến thức. Giáo viên cần cho học sinh đọc thầm, trình
bày yêu cầu của bài tập, giải thích thêm cho học sinh nắm rõ yêu cầu bài tập. Tổ
chức cho học sinh làm bài tập bằng nhiều hình thức như: cá nhân, nhóm. Sau đó
báo cáo kết quả, cả lớp cùng tham gia trao đổi, nhận xét, học sinh tự rút ra kết
luận. Giáo viên chỉ khẳng định kết luận đúng hoặc bổ sung. Trao đổi với học
sinh, sửa lỗi cho học sinh hoặc tổ chức cho học sinh góp ý và đánh giá cho nhau
trong quá trình làm bài. Giáo viên không nhất thiết phải giải nghĩa từ mà gợi ý
cho học sinh liên tưởng, so sánh để tìm nghĩa của từ. Với những từ ngữ trừu
tượng, ít gần gũi học sinh, giáo viên cần đưa vào hoàn cảnh cụ thể để học sinh
hiểu nghĩa. Cuối cùng giáo viên tổng kết ý kiến của học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài: Động từ ( Tuần 9).
Ở phần nhận xét, sau khi cho học sinh đọc kĩ, thảo luận theo cặp tìm các
từ chỉ hoạt động của người, các từ chỉ trạng thái của vật, rồi trình bày kết quả
trước lớp. Giáo viên sẽ chốt lại: Các từ nêu trên là động từ. Và đặt câu hỏi: “Vậy
thế nào là động từ?”. Học sinh trả lời – giáo viên khẳng định và ghi bảng.
3.4. Dạy nội dung mở rộng và hệ thống hóa vốn từ
Từ ngữ được mở rộng và hệ thống hoá trong phân môn Luyện từ và câu ở
lớp 4 bao gồm các từ thuần Việt, Hán Việt, thành ngữ, tục ngữ phù hợp với chủ
điểm của từng đơn vị học. Để học sinh hiểu nghĩa và biết dùng từ ngữ, thành
ngữ, tục ngữ... thuộc các chủ điểm, giáo viên cần gợi ý cho học sinh liên tưởng,
so sánh hoặc tra từ điển để tìm hiểu nghĩa. Với những từ ngữ trừu tượng, ít gần
gũi với học sinh, cần đưa chúng vào văn cảnh cụ thể để làm rõ nghĩa.
Giáo viên cần làm cho học sinh hiểu rõ tên chủ điểm. Từ đó, học sinh có
cơ sở tìm thêm các từ khác theo chủ điểm đã cho. Căn cứ vào từng đối tượng
học sinh, giáo viên cần lựa chọn biện pháp dạy học cho phù hợp. Tạo điều kiện
cho tất cả học sinh đều được tham gia thực hành theo năng lực của mình từng
bước vươn lên đạt chuẩn kiến thức và kỹ năng.
Ví dụ: Khi dạy bài: Mở rộng vốn từ: Trung thực - Tự trọng (Tuần 5).
Bài tập 4: Có thể dùng thành ngữ, tục ngữ nào dưới đây để nói về tính trung
thực hoặc lòng tự trọng:
10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn luyện từ và câu lớp 4 ở Trường Tiểu học Vạn Khánh 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_nang_cao_chat_luong_giang_day_phan_mon_luyen_tu_va_cau.doc