SKKN Một vài kinh nghiệm hình thành tính tích cực, tự giác, chủ động và năng lực tự học giúp học sinh yếu kém học tốt môn toán

Người thầy phải nắm vững các đặc điểm của học sinh yếu kém để từ đó đề ra các giải pháp phù hợp nhằm khắc phục tình trạng yếu kém trong học toán của học sinh. Cũng như việc bồi dưỡng học sinh giỏi toán, việc giúp đỡ học sinh yếu kém phải được tiến hành ngay cả trong những tiết dạy học đồng loạt bằng các biện pháp phân hoá nội tại thích hợp. Tuy nhiên, trong thực tế dạy học việc nâng cao hiệu suất giờ lên lớp để giúp đỡ học sinh yếu kém người thầy vẫn cần có sự giúp đỡ tách riêng đối với nhóm học sinh yếu kém (thực hiện chủ yếu ngoài giờ chính khoá).
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT  
Chữ viết tắt Tên đầy đủ  
Stt  
1
GV  
Giáo viên  
2
HS  
Học sinh  
3
PPDH  
SGK  
THCS  
Phương pháp dạy học  
Sách giáo khoa  
Trung học cơ sở  
4
5
1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN  
I. CƠ SỞ LUẬN  
Học sinh yếu kém về toán là những học sinh có kết quả về môn toán  
thường xuyên dưới mức trung bình. Do đó việc lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ  
năng cần thiết đối với những học sinh này tất yếu đòi hỏi tốn nhiều công sức và  
thời gian hơn so với những học sinh khác.  
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay đã xác định “phương  
pháp dạy học Toán trong nhà trường các cấp phải phát huy tính tích cực, tự giác  
chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học, trau dồi các  
phẩm chất linh hoạt , độc lập sáng tao của tư duy”.Bắt nguồn từ định hướng đó  
giáo viên cần phải học hỏi nghiên cứu, tìm tòi và áp dụng những phương pháp  
dạy học sao cho phù hợp với từng vùng miền, từng đối tượng học sinh, từng  
kiểu bài làm cho hiệu quả giờ học đạt cao nhất.  
Người thầy phải nắm vững các đặc điểm của học sinh yếu kém để từ đó  
đề ra các giải pháp phù hợp nhằm khắc phục tình trạng yếu kém trong học toán  
của học sinh. Cũng như việc bồi dưỡng học sinh giỏi toán, việc giúp đỡ học sinh  
yếu kém phải được tiến hành ngay cả trong những tiết dạy học đồng loạt bằng  
các biện pháp phân hoá nội tại thích hợp. Tuy nhiên, trong thực tế dạy học việc  
nâng cao hiệu suất giờ lên lớp để giúp đỡ học sinh yếu kém người thầy vẫn cần  
sự giúp đỡ tách riêng đối với nhóm học sinh yếu kém (thực hiện chủ yếu  
ngoài giờ chính khoá).  
một giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn Toán và tìm hiểu thực tiễn  
tại trường THCS Lang Sơn Hạ Hòa – Phú Thọ tôi thấy còn nhiều học sinh  
chưa nắm vững được kiến thức cơ bản, ý thức học tập của một số em chưa cao,  
phương pháp học tập chưa phù hợp, dẫn đến chất lượng học tập của học sinh còn  
yếu thế hầu hết các em sợ học môn toán nói chung và phân môn Hình học nói  
riêng. Chất lượng bộ môn vẫn còn thấp, các bài kiểm tra, bài thi còn chưa đạt  
yêu cầu. Bằng thực tiễn trong giảng dạy và tìm hiểu đã những ý kiến như:  
phân môn hình học khó tiếp thu, lượng kiến thức trong giờ học còn nhiều lại  
khô khan, không hấp dẫnĐiều đó nãy sinh trong tôi những trăn trở: Là làm  
thế nào để nâng cao chất lượng bộ môn? Làm thế nào để học sinh hứng thú, say  
mê trong khi học? biện pháp gì để tạo hứng thú say mê tìm tòi sáng tạo, vận  
dụng những đã học vào thực tiễn?Với mong muốn tìm ra những đáp án  
đó, đã thúc đẩy tôi chọn và nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm "Một vài kinh  
nghiệm hình thành tính tích cực, tự giác, chủ động năng lực tự học giúp học  
sinh yếu kém học tốt môn toán”.  
2
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN TẠO RA SÁNG KIẾN  
Cốt lõi của việc đổi mới PPDH ở trường THCS là giúp HS hướng tới việc  
học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. lẽ đó khi giảng dạy  
GV cần dựa vào 05 tiêu chuẩn chính lựa chọn PPDH:  
+ Chọn những PPDH có khả năng cao nhất đối với việc thực hiện mục  
tiêu dạy học.  
+ Lựa chọn các PPDH tương thích với nội dung.  
+ Lựa chọn các PPDH dựa vào hứng thú, thói quen, kinh nghiệm của HS.  
+ Lựa chọn các PPDH phù hợp với năng lực, điều kiện, thế mạnh... của  
GV.  
+ Lựa chọn các PPDH phù hợp với điều kiện dạy học.  
Trong quá trình thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã sử dụng  
những phương pháp sau :  
- Quan sát trực tiếp các đối tượng học sinh để phát hiện ra những vấn đề  
học sinh thấy lúng túng, khó khăn khi giáo viên yêu cầu giải quyết vấn đề  
đó.  
- Điều tra toàn diện các đối tượng học sinh khối 8 của trường tôi dạy để  
thống học lực của học sinh. Tìm hiểu tâm lý của các em khi học môn toán.  
- Nghiên cứu sản phẩm hoạt động của HS để phát hiện trình độ nhận thức,  
phương pháp và cách trình bày bài toán đặc biệt đi sâu vào những sai sót của các  
em khi làm bài để biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục.  
- Thực nghiệm giáo dục trong khi giải bài mới, trong các tiết luyện tập,  
tiết ôn tập, tôi đã đưa vấn đề này ra hướng dẫn học sinh cùng trao đổi, thảo luận  
bằng nhiều hình thức khác nhau như hoạt động nhóm, giảng giải, vấn đáp gợi  
mở để học sinh khắc sâu kiến thức, tránh được những sai lầm trong khi giải bài  
tập. Yêu cầu học sinh giải một số bài tập theo nội dung trong sách giáo khoa rồi  
đưa thêm vào đó những yếu tố mới, những điều kiện khác để xem xét mức độ  
nhận thức và suy luận của học sinh.  
- Phân tích và tổng kết kinh nghiệm giáo dục khi áp dụng nội dung đang  
nghiên cứu vào thực tiễn giảng dạy nhằm tìm ra nguyên nhân những sai lầm mà  
học sinh thường mắc phải khi giải toán. Từ đó tổ chức hiệu quả hơn trong các  
giờ dạy tiếp theo.  
Toán  
học có vai trò rất quan trọng đối với đời sống và các nghành khoa  
học khác. Hơn nữa đặc điểm về môn toán nội dung nhiều, công thức tính nhiều,  
3
bài tập thì đa dạng (có khó, có d, có phức tạp). thế trong quá trình tính toán,  
vận dụng HS rất dễ bị nhầm lẫn, sai sót.  
Qua một số năm giảng dạy bộ môn toán và tham khảo ý kiến của các  
đồng nghiệp nhiều năm kinh nghiệm, tôi nhận thấy: Trong quá trình hướng dẫn  
học sinh giải toán thì sự vận dụng thuyết vào việc giải các bài tập cụ thể của  
học sinh chưa linh hoạt. Khi gặp một bài toán đòi hỏi phải vận dụng và có sự tư  
duy thì học sinh không xác định được phương hướng để giải bài toán dẫn đến  
lời giải sai hoặc không làm được bài. Một vấn đề cần chú ý nữa kỹ năng giải  
toán và tính toán cơ bản của một số học sinh còn rất yếu.  
III. MỤC TIÊU  
Sở dĩ tôi chọn đề tài này là vì mong muốn tìm được một phương pháp tối  
ưu nhất để trong quỹ thời gian cho phép hoàn thành được một hệ thống chương  
trình qui định, nhằm lấp đầy các chỗ hổng kiến thức từng bước nâng cao  
thêm về mặt kỹ năng trong việc giải các bài tập Toán cho học sinh. Từ đó phát  
huy, khơi dậy khả năng sử dụng hiệu quả kiến thức vốn của học sinh, đồng  
thời thu hút, lôi cuốn các em ham thích học môn toán, đáp ứng những yêu cầu  
về đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học hiện nay.  
Hướng dẫn học sinh tiếp thu môn Toán nói chung, môn Hình học nói  
riêng đạt kết quả cao không phải chuyện nói đến đâu làm ngay được đến đó.  
Muốn đạt hiệu quả giảng dạy đòi hỏi một mặt kiến thức của thầy phải vững, phải  
sâu, phải phương pháp phù hợp; mặt khác đòi hỏi người thầy kỹ năng,  
nghiệp vụ sư phạm khéo léo. Với đối tượng học sinh lớp 8 các em đã bắt đầu có  
biểu hiện của lứa tuổi tập làm người lớn” nên lời khen, lời động viên đối với  
các em phát huy hiệu quả không nhỏ. Bởi đã tác động vào thế giới tâm lí, tình  
cảm của các em khiến nảy sinh hứng thú về vấn đề đang được đặt ra hướng các  
em đến với những hành vi tự giác, chủ động và tích cực trong việc chiếm lĩnh tri  
thức. Đặc biệt với học sinh có biểu hiện chán học, khó tiếp thu hoặc không có  
tinh thần tiếp thu kiến thức sẽ khiến các em rơi vào tình trạng học sa sút. Bởi  
vậy người giáo viên phải dùng cái tâm của mình để giúp các em vượt qua trở  
ngại này vươn lên trong học tập. Khi xác định được mục đích, ý nghĩa lớn lao  
của vấn đề này mới thể xây dựng được phương pháp phù hợp nhất. Bởi vậy  
biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học phân môn Hình học 8 là một nội dung  
có tính chất quan trọng và lâu dài đối với nhà trường nói chung và từng giáo  
viên nói riêng. Khi xây dựng đề tài này bản thân tôi hướng đến mục đích cụ thể  
như vậy nhằm triển khai có hiệu quả phương pháp mà mình đã tích lũy qua  
nhiều năm làm công tác giảng dạy môn Toán cho học sinh THCS.  
4
CHƯƠNG II: MÔ TẢ SÁNG KIẾN  
I. NÊU VẤN ĐỀ CỦA SÁNG KIẾN  
1. Phân tích, đánh giá thực trạng của vấn đề:  
Thực trạng hiện nay cho thấy vấn đề học sinh yếu kém các bộ môn rất  
trầm trọng. Trong đó môn toán không phải ngoại lệ. Với vai trò quan trọng  
của bộ môn có tính quyết định đến chất lượng học tập các bộ môn khác. Hơn  
nữa chương trình toán THCS là những viên gạch đặt nền móng đầu tiên cho cả  
quá trình học tập sau này.  
Bản thân tôi là một giáo viên đã trực tiếp giảng dạy môn Toán 8 tôi thấy  
rằng:  
- Trong trường THCS môn Toán là môn khoa học luôn được chú trọng  
cao và cũng là môn có nhiều khái niệm trừu tượng. Nhất là phân môn Hình học  
nhiều khái niệm trừu tượng nhất, bởi khi thực hiện các bài làm đối với hình  
vẽ lại phải mở rộng” các yếu tố như: vẽ thêm đường phụ để chứng minh, điểm,  
đường thẳng hay suy luận.... Kiến thức trong bài tập phong phú rất nhiều so với  
nội dung lí thuyết mới học. Bên cạnh đó yêu cầu bài học lại cao phải suy diễn  
chặt chẽ, lôgic.  
- Nếu phân môn Đại số các dạng bài tập thường có cách làm rất rõ ràng,  
chẳng hạn như: khi chia đa thức một biến đã sắp xếp, giải phương trình chứa ẩn  
ở mẫu thức, giải bài toán bằng cách lập phương trình thì SGK đưa ra các bước  
giải rất cụ thể ; thì phân môn Hình học thuyết vừa ít lại trừu tượng, các hướng  
đi cụ thể ít nên học sinh khó định hướng cách làm. Hơn nữa sự chênh lệch giữa  
kiến thức lí thuýêt với lượng bài tập thời gian luyện tập lại quá lớn. Do đó rất  
khó khăn trong việc chữa bài tập cho học sinh làm nhà, chọn bài để hướng dẫn  
trên lớp sao cho đầy đủ kiến thức cơ bản mà SGK yêu cầu.  
- Học sinh khó khăn trong việc lập luận, suy diễn lôgic đã tạo nên thái độ  
miễn cưỡng, chán nản ở các em. Từ đó nhiều em không nắm được kiến thức cơ  
bản, làm bài tập ở nhà cũng chỉ đối phó, lúng túng trong việc chọn sử dụng  
dụng cụ để vẽ hình... Điều này cho thấy giáo viên phải bỏ nhiều công sức để  
nghiên cứu, chọn lọc cho mình một cách soạn giảng tốt nhất để tạo hứng thú cho  
học sinh trong bài giảng.  
Qua điều tra về mức độ hứng thú học môn Hình học của lớp 8A1 đầu năm  
cho thấy kết quả:  
5
Số HS có hứng thú  
Số HS không có hứng thú  
Số HS  
SL  
%
SL  
%
30  
2
6,7%  
28  
93,3%  
Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm phân môn Hình học khiến bất cứ ai  
nhìn vào củng cảm thấy lo ngại ,cụ thể:  
Khá giỏi  
SL  
Trung bình  
Yếu kém  
SL  
22  
Số HS  
%
SL  
%
%
30  
2
6.7%  
6
20%  
73.3%  
Kết quả khảo sát đầu năm môn toán  
Số HS  
Giỏi  
SL  
Khá  
TB  
Yếu  
Kém  
%
SL  
2
%
SL  
17  
%
SL  
6
%
SL  
%
30  
2
6,7  
6,7  
56,6  
20  
3
10  
2. Các tồn tại, hạn chế:  
Trong thực tế giảng dạy môn toán lớp 8, bản thân tôi đã phát hiện những  
sai sót mà học sinh lớp 8 thường xuyên mắc phải khi trình bày bài toán số học,  
đó là:  
+ Thiếu tính cẩn thận dẫn đến suy luận sai, sử dụng sai ký hiệu sai.  
+ Trình bày bài toán không có cơ sở, thiếu lập luận hoặc lập luận không  
chính xác.  
+ Trình bày bài làm một cách tuỳ tiện: Nhầm lẫn giữa các bước hoặc  
không biết cách trình bày, hoặc trình bày bài toán rập khuôn thiếu sự tư duy,  
linh hoạt từ một bài toán mẫu.  
- Kết quả bài kiểm tra một tiết chương I môn Số học năm học 2016 - 2017  
như sau:  
Nội dung  
Tỷ lệ %  
+ Thiếu tính cẩn thận dẫn đến suy luận sai, sử dụng sai ký  
hiệu sai.  
30%  
+ Trình bày bài toán không có cơ sở, thiếu lập luận hoặc  
lập luận không chính xác.  
40%  
6
+ Trình bày bài một cách tuỳ tiện: Nhầm lẫn giữa các bước  
hoặc không biết cách trình bày, hoặc trình bày bài toán rập  
khuôn thiếu sự tư duy, linh hoạt từ một bài toán mẫu.  
50%  
3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế:  
Qua thực tế tìm hiểu tôi nhận thấy có các nguyên nhân chủ yếu sau dẫn  
đến học sinh học yếu đó là:  
Học sinh có nhiều "lỗ hổng" về kiến thức cũng như kỹ năng do:  
* Nguyên nhân khách quan:  
- Do kinh tế gia đình khó khăn nên điều kiện học tập thiếu thốn về cả vật  
chất cũng như thời gian, dẫn đến kết quả học tập theo đó bị hạn chế.  
- Do học sinh có sự khủng hoảng nhất thời về mặt tinh thần trong cuộc  
sống dẫn đến sao nhãng việc học hành.  
* Nguyên nhân chủ quan:  
- Kiến thức bị hổng do học sinh lười học.  
Do khả năng tiếp thu chậm.  
Do thiếu phương pháp học tập phù hợp.  
+ Chưa học thuyết đã làm bài tập.  
+ Chưa hiểu kiến thức một cách có hệ thống.  
+ Một số học sinh yếu chưa cố gắng trong học tập, thiếu tập trung trong  
tiết học thậm chí lười ghi cả bài giải mẫu của giáo viên.  
+ Học sinh chưa chú trọng việc học bài cũ, làm bài tập ở nhà.  
- Trong quá trình giải bài tập:  
+ Học sinh thiếu tính cẩn thận khi trình bày, tính toán.  
+ Không hiểu được đề bài cho cái gì, yêu cầu cái gì? Mà nguyên nhân là  
do không đọc kỹ đnên lập luận sai dẫn đến giải bài toán sai.  
- Thiếu sự quan tâm của gia đình trong việc học ở nhà do đó các em chỉ  
làm bài tập “qua loa, lấy lệ” rồi đi chơi.  
Qua quá trình giảng dạy và các lần kiểm tra: Miệng, 15 phút, một tiết, vở  
ghi, bài tập về nhà, bài tập làm trên lớp chương I phân môn Hình học 8 tôi nhận  
thấy HS mắc các sai sót do các nguyên nhân trên theo tỷ lệ như sau:  
7
Nội dung  
Tỷ lệ %  
+ Học sinh chưa phương pháp học tập đúng đắn với bộ  
50%  
môn.  
+ Trong quá trình giải bài tập: Thiếu tính cẩn thận khi trình  
bày, tính toán, thiếu lập luận hoặc lập luận không chính  
xác.  
40%  
+ Thiếu sự quan tâm của gia đình trong việc học nhà.  
30%  
4. Phân tích, đánh giá và chỉ ra tính cấp thiết của sáng kiến:  
Với thực trạng trên việc nhiều học sinh hiện nay còn học yếu kém môn  
toán. Tính tích cực, tự giác, chủ động kĩ năng học tập cũng như làm bài tập  
môn toán nói chung cũng như ở phân môn Hình học 8 nói riêng còn nhiều hạn  
chế. vậy tôi đã đặt ra cho mình mục tiêu giáo dục nhằm hình thành và phát  
triển các kỹ năng cơ bản về phương pháp học tập, hình thành tính tích cực, tự  
giác, chủ động năng lực tự học giúp học sinh yếu kém học tốt môn toán.  
Với những sai sót và nguyên nhân dẫn đến sai sót trong khi giải toán số  
học nói chung, dạng toán liên quan đến bội ước nói riêng, vận dụng những  
kinh nghiệm của bản thân và đồng nghiệp trong giảng dạy tôi đã tìm ra những  
biện pháp giúp học sinh trình bày tốt các dạng toán liên quan đến bội ước.  
Sau đây những biện pháp khắc phục triệt để những sai sót đó qua từng bài tập  
cơ bản cụ thể.  
II. GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN  
Trên cơ sở đó, tôi nghĩ giáo viên cần phải xây dựng được cho học sinh  
một sự hứng thú, kích thích tính tò mò, hình thành tính tích cực, tự giác, chủ  
động năng lực tự học giúp học sinh yếu kém học tốt môn toán. Bằng kinh  
nghiệm hiểu biết và tìm hiểu qua nhiều thông tin tôi có một số giải pháp như  
sau:  
1. Khắc phục các yếu tố chquan:  
Ảnh hưởng đến kết quả học tập của những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt  
khó khăn với tinh thần trách nhiệm của một người thầy trên cương vị giáo viên  
chủ nhiệm.  
*Đối với những em do hoàn cảnh kinh tế gia đình quá khó khăn  
dụ như các em bị thiếu thốn sách vở đồ dùng học tập. Ngoài các buổi  
đến lớp các em phải đi mò cua, bắt ốc để phụ giúp kinh tế gia đình không có thời  
gian để học tập. Sau khi tìm hiểu biết được hoàn cảnh của các em tôi đã có ý  
8
kiến đề xuất lên ban lãnh đạo nhà trường thể miễn giảm cho các em một phần  
nào các khoản đóng góp có thể được, giảm bớt gánh nặng về sự thiếu thốn vật  
chất cho các em. Ngoài ra tôi đã phát động các em học sinh trong lớp quyên góp  
một phần nào đó để giúp bạn thể mua một số đồ dùng học tập như sách giáo  
khoa,bút vở…Tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các em đó trong học tập.  
* Với đối tượng học sinh gặp sự cố bất thường về tinh thần.  
dụ như bố mẹ đi làm ăn kinh tế ở xa, hay những trường hợp những  
sốc về tình cảm trong gia đình mà các em bị ảnh hưởng, một số em phải ở  
với ông bà bị thiếu thốn về tình cảm sự chăm sóc của bố mẹ...Thông qua học  
sinh và phụ huynh tôi thường xuyên trò chuyện thân mật riêng với các em ,  
động viên an ủi để các em có thể vượt qua cơn khủng hoảng về tinh thần, góp  
phần nào giúp các em trở lại trạng thái cân bằng về tình cảm tập trung vào  
việc học tốt hơn.  
* Với đối tượng học sinh yếu kém do lười học. Tôi trực tiếp trò chuyện  
riêng với các em, phân tích cho các em hiểu mặt tốt, xấu sự liên quan đến  
tương lai của các em. Về mặt chuyên môn, tôi tăng cường công tác kiểm tra việc  
học và làm bài về nhà, trong các giờ học tôi khuyến khích cho các em phát biểu,  
gọi các em lên bảng và có lời khen kịp thời, cho điểm khuyến khích, động viên  
các em, giúp các em tự tin và hứng thú học tập hơn.  
Sau khi tạo được tâm thế thoải mái về tinh thần trong học sinh thì việc  
tiếp theo đóng vai trò quan trọng quyết định. Đó chính là thực hiện các biện  
pháp phù hợp nhằm giúp các học sinh yếu kém có điều kiện về mặt kiến thức để  
theo kịp yêu cầu chung của những tiết học trên lớp, tiến tới thể hoà nhập vào  
việc dạy học đồng loạt.  
Qua kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy tôi đã gặp rất nhiều khó khăn khi  
giảng dạy kiến thức mới trong điều kiện nền tảng kiến thức cũ rất yếu kém của  
học sinh. Đây một nỗi đau hàng ngày gặm nhấm trái tim nghề nghiệp của tôi,  
thôi thúc tôi phải làm một điều đó để thể giúp đỡ các em.Và tôi đã thay đổi  
cách nghĩ và cách làm trong công tác giảng dạy để giúp đỡ các em yếu, kém  
học tốt môn toán hơn qua các biện pháp cụ thể sau:  
2. Khắc phục các yếu tố khách quan:  
2.1. Tạo sự hấp dẫn cho học sinh khi tìm hiểu về kiến thức mới.  
Với học sinh THCS ở lứa tuổi các em rất hiếu động, thích tò mò, khám  
phá và muốn được mọi người công nhận năng lực của mình, không thích bị áp  
đặt, phê bình. Điều này cho thấy khi truyền thụ kiến thức cho học sinh giáo viên  
phải lựa chọn những phương pháp phù hợp, nhẹ nhàng, kích thích được tính tò  
9
của các em để xuất hiện nhu cầu khám phá, từ đó các em có tâm lý để chinh  
phục kiến thức.  
Như vậy, phải làm thế nào để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học?  
Rõ ràng để làm được điều này, giáo viên phải đầu tư thật kỹ cho tiết dạy của  
mình. Riêng tôi, khi dạy tiết hình, thường chọn cho mình một phương pháp tạo  
tình huống từ những vấn đề thực tiễn như: Đưa ra một hình huống trong thực tế  
hoặc kể một câu chuyệncó liên quan mật thiết đến toán học. Từ đó, học sinh  
tham gia tiết học tích cực, hào hứng hơn, các em không còn cảm giác bị gò ép,  
căng thẳng và chán nản nữa, đồng thời các em sẽ nhận thức được tính thực tiễn  
của bộ môn.  
Chẳng hạn:  
Khi dạy bài “Đường trung bình của tam giác” tôi đưa ra vấn để làm thế  
nào để gián tiếp đo khoảng cách giữa hai điểm B, C hai bên bờ ao.  
. C  
B .  
Khi dạy bài “Đối xứng trục” vấn đề cần giải quyết là làm thế nào để cắt  
được một chữ H nhanh như tờ giấy hình chữ nhật.  
H
Khi dạy bài “Hình thoi” tôi hỏi vì sao các thanh sắt ở cửa xếp lại dễ dàng  
đầy vào, kéo ra được.  
Với bài “ Diện tích hình thang” để học sinh nhớ công thức tôi cho các em ghi  
nhớ theo câu nói vần:  
“Muốn tính diện tích hình thang , đáy lớn đáy bé ta mang cộng vào, rồi đem  
A
nhân với chiều cao, chia đôi lấy nửa thế nào cũng ra”.  
B
AB CD  
SABCD  
=
AH  
2
D
H
C
Mỗi kiểu bài đều một đặc thù riêng và phương pháp dùng hình ảnh trực quan  
rất thích hợp đối với hình học: mô hình, vật thật, tranh vẽ… yếu tố không thể  
thiếu khi vào tiết dạy. Ngoài ra giáo viên nên tìm tòi những vật thật trong thực tế  
để tạo sự mới lạ và thú vị cho học sinh, như dạy bài đường thẳng song song cách  
đều tôi chỉ cho học sinh hình ảnh các song cửa sổ, các thanh rui mèn mái nhà,  
10  
dạy bài diện tích đa giác tôi yêu cầu học sinh về nhà xem diện tích mảnh vườn  
nhà mình mấy m2 …  
Vận dụng cách làm đó lớp học rất vui vẻ, học sinh tham gia xây dựng bài tích  
cực, đồng thời các em sẽ nhớ vận dụng làm bài tập nhanh hơn và lâu hơn.  
- Trong mỗi tiết dạy tôi chủ động phân định đối tượng học sinh theo 3 cấp: khá  
giỏi, trung bình, yếu kém để giao nhiệm vphù hợp với từng đối tượng từ đó lôi  
cuốn tất cả các em cùng tham gia vào xây dựng bài học. Câu hỏi của giáo viên  
cũng cần phải gợi mở, dể hiểu để kích thích sự suy nghĩ của các em.  
dụ: Khi xây dựng Đinh lý Ta-lét trong bài “Định lý Ta-lét trong tam giác”.  
Giáo viên treo bảng phụ ?3  
A
B’  
C’  
B
C
Gợi ý: Vì các đường kngang là các đường thẳng song song cách đều nên  
các đoạn liên tiếp trên AB bằng nhau, các đoạn liên tiếp trên AC cũng bằng  
nhau.  
Giả sử lấy m làm đơn vị một đoạn chắn trên AB, n làm đơn vị một đoạn  
chắn trên AC.  
Hỏi học sinh kém đoạn AB’ mấy đơn vị?  
AB'  
AB  
AC'  
AC  
AB' AC'  
?; từ đó so sánh hai tỉ số ;  
Hỏi học sinh yếu tỉ số  
?;  
AB AC  
Gọi học sinh trung bình so sánh hai trường hợp còn lại  
Yêu cầu học sinh khá phát biểu thành định từ bài toán trên.  
Gọi học sinh giỏi nêu GT, KT.  
Làm như vậy trong một tiết học tôi huy động hết đối tượng học sinh vào  
xây dựng bài học.  
2.2. Tạo không khi “học mà vui,vui để học” trong những tiết ôn tập.  
- Môn Hình học sau mỗi phần hoặc chương giáo viên phải hệ thống hoá  
kiến thức trọng tâm, để tạo hứng thú cho học sinh bằng cách tạo ra những cách  
chơi: Hệ thống kiến thức bằng sơ đồ hoặc bảng rồi yêu cầu học sinh điền vào  
những chỗ trống. Việc làm này giúp học sinh nhận thấy sự liên quan giữa các  
phần đã học. Từ đó các em khắc sâu kiến thức nhớ lâu hơn.  
11  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 22 trang minhvan 31/05/2024 1081
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một vài kinh nghiệm hình thành tính tích cực, tự giác, chủ động và năng lực tự học giúp học sinh yếu kém học tốt môn toán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_mot_vai_kinh_nghiem_hinh_thanh_tinh_tich_cuc_tu_giac_ch.doc