SKKN Một số kỹ thuật để thay đổi trạng thái học tập cho học sinh qua môn Ngữ văn THPT

“Phương pháp giáo dục phải khoa học, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học và hợp tác, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Điều đó yêu cầu người dạy phải không ngừng học hỏi, sáng tạo để đem lại hiệu quả dạy học tốt đáp ứng yêu cầu về của xã hội về con người.
Së GD & §T nghÖ an  
--------------- --------------  
Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng  
Mét sè kü thuËt ®Ó thay ®æi  
tr¹ng th¸I Häc tËp cho häc sinh  
qua m«n ng÷ v¨n thpt  
(LÜNH VùC: Ng÷ v¨n)  
Họ tên: Chế Thị Lệ Mỹ  
Tổ:  
Văn-Ngoại ngữ  
N¨m häc 2019 2020  
0
MỤC LỤC  
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ.....................................................................................1  
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ...................................................................................1  
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................................2  
3. CẤU TRÚC ĐỀ I.......................................................................................2  
PHẦN II: NỘI DUNG........................................................................................3  
I. CƠ SỞ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ................................3  
1.1 Cơ sở luận ..................................................................................................3  
1.1.1 Khái niệm kĩ thuật dạy học........................................................................3  
1.1.2 Trạng thái học tập của học sinh..................................................................3  
1.2 Cơ sở thực tiễn...............................................................................................4  
1.2.1 Thực trạng từ phía chương trình, thời lượng..............................................4  
1.2.2 Thực trạng từ phía giáo viên.......................................................................4  
1.2.3 Thực trạng từ phía học sinh....................................................................5  
2. Vai trò, ý nghĩa của Kĩ thuật dạy học đối với việc thay đổi trạng thái học tập  
cho học sinh.........................................................................................................6  
3. Mt skĩ thut để thay đổi trng thái hc tp cho hc sinh qua môn NgVăn ....  
.........................................................................................................................................7  
3.1 Mt skĩ thut để thay đổi trng thái hot động hc tp chung cho hc sinh .....  
.........................................................................................................................................8  
3.1.1 Xây dựng một squy ước mới mẻ với học sinh .......................................8  
3.1.2 Tạo cơ hội cho học sinh được vận động ngay trong tiết học......................9  
2.1.3 Tạo không gian học tập mới mẻ cho học sinh............................................11  
3.2 Một số kĩ thuật dạy học để thay đổi trạng thái học tập của học sinh qua môn  
Ngữ Văn ..............................................................................................................14  
3.2.1. Nm quy lut ca não bộ để tìm phương pháp kĩ thut dy hc phù hp......  
.....................................................................................................................................14  
3.2.2 Tạo điều kiện để học sinh phát huy năng khiếu của bản thân....................15  
3.2.3 Xây dựng kĩ thuật dựa vào mô hình “lớp học đảo ngược”.........................20  
3.2.4 Tạo những hoạt động “bất thường” để “đánh thức” trạng thái học tập cho  
học sinh................................................................................................................23  
3.2.5 Đa dạng hóa các hoạt động xlí thông tin................................................24  
IV. Kết quả ứng dụng ..........................................................................................26  
PHẦN III: KẾT LUẬN .......................................................................................28  
PHỤ LỤC............................................................................................................31  
1
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................34  
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ  
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI  
1.1 Luât giáo dục năm 2019 về Những quy định chung có nêu những yêu  
cầu về nội dung, phương pháp giáo dục đó giáo dục phải bảo đảm tính cơ  
bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại, hệ thống được cập nhật thường xuyên;  
coi trọng giáo dục tư tưởng, phẩm chất đạo đức và ý thức công dân; kế thừa và  
phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa  
nhân loại; phù hợp với sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tâm sinh lý lứa tuổi và  
khả năng của người họ”,  
“Phương pháp giáo dục phải khoa học, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ  
động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học  
hợp tác, khả năng thực hành, lòng say học tập và ý chí vươn lên”. Điều đó  
yêu cầu người dạy phải không ngừng học hỏi, sáng tạo để đem lại hiệu quả dạy  
học tốt đáp ứng yêu cầu về của hội về con người.  
1.2 Xut phát tyêu cu đổi mi giáo dc nhm đào to nhng con người  
năng động, sáng to, có khnăng thích ng vi đời sng xã hi, hoà nhp và phát  
trin cng đồng thì vic đánh giá không chdng li vic tái hin kiến thc, lp  
li nhng kiến thc đã hc mà phi khuyến khích trí thông minh sáng to, khnăng  
tư duy, vn dng kiến thc vào thc tin ca hc sinh. Trên tinh thn đó, ngui  
giáo viên phi luôn tlàm mi, làm phong phú chính bn thân mình. Không chỉ  
trau di kiến thc chuyên môn mà người giáo viên còn phi là người đưa đến cho  
hc sinh nhng “ lung gió mi”. Hiu rõ mc tiêu đó, hơn ai hết người giáo viên  
schính là người khơi ngun sáng to, phát huy để làm sng dy “sinh khí”, năng  
lượng hng thú cho hc sinh. Nghĩa là, giáo viên không chlà người kiến to để  
cho hc sinh chiếm lĩnh tri thc mà còn là người kích thích trng thái, tinh thần để  
học sinh sẵn sàng cho hoạt động học tập của mình.  
1.3 Trong thời đại bùng nổ thông tin, học sinh phải nắm bắt quá nhiều  
lượng thông tin, nhưng khả năng lưu nhớ hạn. vậy, người giáo viên dù  
chuẩn bị giáo án tốt nhưng không phải bao giờ cũng thành công đem lại  
hứng thú học tập cho học sinh. Vấn đề đặt ra là người giáo viên phải làm sao để  
giúp học sinh ghi nhớ bài học tốt nhất. Ngoài việc chuẩn bị tốt nội dung dạy  
học, người giáo viên còn cần sự linh hoạt để nắm bắt, xử lí tình trạng học tập  
của học sinh, phải luôn tạo ra những kĩ thuật mới mẻ, sáng tạo để “giữ lửa” cho  
học sinh.  
một giáo viên, người thực thi những chủ trương, định hướng của giáo  
dục, tôi mong muốn được đóng góp công sức nhỏ của mình trong công cuộc  
đổi mới lớn lao của ngành bằng hoạt động thiết thực gần gũi với công việc dạy  
học đó đưa ra một số kĩ thuật dạy học đã ứng dụng để thay đổi trạng thái học  
tập cho học sinh thông qua việc học tập nói chung và bộ môn Ngữ văn nói riêng.  
2
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp  
nghiên cứu như sau:  
- Phương pháp phân tích- tổng hợp  
- Phương pháp thống kê  
- Phương pháp so sánh  
- Phương pháp hệ thống  
-Phương pháp nêu số liệu  
3. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI  
Phần mở đầu nêu lí do về tính cấp thiết của việc thay dổi trang thái học  
tập nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng.Ngoài phần mở đầu, kết luận,  
phần nội dung đề tài gồm:  
- Nhng cslí lun và thc tin vn đề thay đổi trng thái hc tp cho hc sinh  
- Vai trò, ý nghĩa của việc thay đổi trạng thái học tập cho học sinh  
- Một số kĩ thuật để thay dổi trạng thái học tập cho học sinh THPT qua môn  
Ngữ Văn  
- Kết quả ứng dụng.  
3
PHẦN II: NỘI DUNG  
I. CƠ SỞ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ  
1.1 Cơ sở luận  
1.1.1 Khái niệm kĩ thuật dạy học.  
Kỹ thuật dạy học những biện pháp, cách thức hành động của của giáo viên  
học sinh trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện điều khiển  
quá trình dạy học. Các kỹ thuật dạy học những đơn vị nhỏ nhất của phương  
pháp dạy học. những kỹ thuật dạy học chung, có những kỹ thuật đặc thù của  
từng phương pháp dạy học, dụ kỹ thuật đặt câu hỏi trong đàm thoại. Ngày nay  
người ta chú trọng phát triển sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích  
cực, sáng tạo của người học như “động não”, “tia chớp”, “bể cá”, XYZ, Bản đồ  
duy...  
Các kỹ thuật dạy học tích cực những kỹ thuật dạy học có ý nghĩa đặc biệt  
trong việc phát huy sự tham gia tích cực của HS vào quá trình dạy học, kích  
thích duy, sự sáng tạo sự cộng tác làm việc của từng học sinh.  
Như vậy thể hiểu kĩ thuât dạy học biện pháp, cách thức hành động của  
giáo viên trong các tình huống, hành động nhỏ nhằm thực hiện điều khiển  
quá trình dạy học  
1.1.2 Trạng thái học tập của học sinh  
- Theo từ điển thì Trạng thái là tình trạng tồn tại của sự vật, con người mà  
ít nhiều đã ổn định  
- Theo tác phẩm Học phương pháp học tác giả Robert M Smith đã đưa ra  
định nghĩa tổng quan về học tập: học tập của học sinh là hoạt động con người  
tiếp thu kiến thức. Nó có thể chủ ý hay chỉ sự tình cờ ngẫu nhiên. Học tập  
bao gồm việc thu thập thông tin, kĩ năng thái độ, hiểu biết hay giá trị mới. Nó  
thường đi kèm những thay đổi về cách ứng xử và liên tục trong suốt thời gian đi  
học. Học tập vừa được coi như là quá trình, vừa kết quả. Vậy, quá trình học  
tập thực sự như thế nào? Trạng thái của con người có tác động đến quá trình học  
tập hay không? Chúng ta có cần tạo nên những trạng thái tích cực để quá trình  
học tập, nắm bắt thông tin đạt được hiệu quả tốt nhất không? Trên thực tế, trạng  
thái tâm lí ảnh hưởng rất lớn đến quá trình học tập của học sinh. Khi con người  
mệt mỏi, buồn chán, hay không có ấn tượng, không bị kích thích trí tò mò…thì  
khả năng lưu nhớ thông tin sẽ khó thực hiện.  
Nhận thấy vai trò quan trọng của trạng thái học sinh ảnh hưởng rất lớn đến  
học tập, thế nhưng các đề tài nghiên cứu chưa nhấn mạnh và tìm ra những giải  
pháp cụ thể để làm thay đổi học sinh trong các hoàn cảnh cụ thể. Đa phần, các  
4
đề tài nghiên cứu hướng đến việc chuẩn bị nội dung học như thế nào để đạt  
được yêu cầu của chương trình mà ít để ý xem xét trạng thái tâm lí của học sinh  
như thế nào và mình cần điều chỉnh tâm lí đó ra sao.  
1.2 Cơ sở thực tiễn  
1.2.1 Thực trạng từ phía chương trình, thời lượng.  
Chương trình GDPT hiện hành được xây dựng theo định hướng nội dung,  
nặng về truyền thụ kiến thức, chưa chú trọng giúp học sinh vận dụng kiến thức  
học được vào thực tiễn. Theo mô hình này, kiến thức vừa “chất liệu”, “đầu  
vào” va là “kết qu”, “đầu ra” ca quá trình giáo dc. Vì vy, hc sinh phi hc và  
ghi nhrt nhiu nhưng khnăng vn dng vào đời sng rt hn chế.  
Trong Chương trình GDPT mi được xây dng theo mô hình phát trin năng lc,  
thông qua nhng kiến thc cơ bn, thiết thc, hin đại và các phương pháp tích cc  
hóa hot động ca người hc, giúp hc sinh hình thành và phát trin nhng phm  
cht và năng lc mà nhà trường và xã hi kvng. Thế nhưng, để hc sinh có  
nhng chuyn biến tích cc trong thái độ, hng thú hc tp vi hành trình hc tp  
lâu dài thì đó là li mt bài toán không bao gicó li gii cui cùng.  
Giới hạn nữa thời lượng bài học phải theo phân phối chương trình mang  
tính pháp quy do Bộ Giáo dục ban hành và nội dung bài học trong sách giáo  
khoa. Đến nay thực tế giáo dục ở Việt Nam vẫn nặng về thi cử, vậy để học  
sinh vượt qua những kì thi, giáo viên phải bám sát những yêu cầu kiến thức và  
kĩ năng cần đạt trong mỗi bài học. Đã những giáo viên mắc “tai nạn nghề  
nghiệp” vì vô tình hay hữu ý cắt xén chương trình, dồn ghép nội dung bài học...  
Theo chương trình giáo dục PT hiện tại, số tiết học của học sinh trung bình  
5 tiết/ buổi ( Từ 7h đến 11h15), 6 buổi học/ tuần, chưa kể đến việc học sinh còn  
học thêm trong và ngoài nhà trường theo nhu cầu. Với áp lực chương trình học  
tập và thi cử khiến đa số học sinh không còn khoảng trống cho sự sáng tạo, thậm  
chí việc học mất nhiều thời gian nhưng thực sự không hiệu quả như công sức  
thời gian đã bỏ ra. Vậy chất lượng của những tiết học chính khóa thực sự bị ảnh  
hưởng, học sinh nặng nề, mệt mỏi sẽ không thể tiếp nhận xử tốt thông tin.  
1.2.2 Thực trạng từ phía giáo viên  
Là giáo viên, ai cũng hiểu năng lực để mỗi con người vào đời không chỉ bó  
hẹp trong yêu cầu ghi nhớ, tích lũy kiến thức mà còn để phân tích sâu, vận dụng  
sáng tạo trong công việc để sống tốt hơn. Môn Ngữ văn, trong ý nghĩa văn là  
đời càng cần vậy. Học Ngữ văn hiện nay không còn chủ yếu đi vào khai thác  
cái hay cái đẹp của ngôn từ, của hình tượng nghệ thuật, mà còn để cái hay cái  
đẹp ấy giúp học sinh có kỹ năng sử dụng ngôn ngữ tốt, sống tích cực, nhân văn.  
Chính vì vậy, lẽ chưa khi nào yêu cầu trải nghiệm trong hoạt động dạy học  
Ngữ văn lại cấp thiết đến thế. Với vai trò là người dẫn đường cho học trò tham  
gia trải nghiệm, giáo viên dạy Ngữ văn cũng cần vừa năng động vừa chiều  
sâu. Đó cũng chính là những trải nghiệm làm thầy, với tinh thần mới: Như chưa  
5
hề một lối mòn! Thế nhưng, trên thực tế giáo viên chú trọng đến việc hoàn  
thành chương trình theo phân phối mà quên đi mục đích thiết thực của bộ môn  
Ngữ Văn. Hơn nữa, số giáo viên chịu khó học hỏi và khao khát đổi mới chưa  
thực sự nhiều, tâm lí an phận đang làm ảnh hưởng đến khả năng sáng tạo trong  
dạy học của giáo viên.  
Mục tiêu của đa số giáo viên là mong muốn một giờ học tròn trĩnh, chuẩn  
mực nhưng trên thực tế “khuôn thước” ấy lại tạo nên sự nhàm chán đơn điệu  
trong dạy học. Với học sinh hay bất kì ai, sự đơn điệu, nhàm chán sẽ giết chết sự  
hứng thú. Hơn nữa, theo nghiên cứu khoa học thì khả năng tập trung bộ não của  
con người đa số chỉ tồn tại trong khoảng 10 đến 15 phút, sau đó sẽ bị sao nhãng  
nhưng giáo viên dường như không quan tâm đến quy luật này.  
Sau đây bảng khảo sát 20 giáo viên về việc chú trọng đến trạng thái học  
tập của học sinh trong tiết học  
Đúng  
Sai  
Ý kiến khác  
Nội dung thăm dò  
Số  
lượng  
Tỷ lệ  
%
Số  
lượng  
Tỷ lệ  
%
Số  
lượng  
Tỷ lệ  
%
1. Chỉ quan tâm đến nội  
dung bài học  
15  
75%  
32%  
5
15%  
68%  
0
0
0
0
2. Quan tâm đến trạng  
thái học tập của học sinh  
7
13  
3. Thường xuyên tìm  
kiếm kĩ thuật để làm thay  
đổi không khí học tập  
cho học sinh  
7
32%  
13  
68%  
0
0
1.2.3 Thực trạng từ phía học sinh  
hội ngày một thay đổi theo cơ chế kinh tế thị trường, vậy môn học Ngữ  
văn sẽ được khẳng định ở vị trí nào? Người học ngày nay chỉ ưu tiên cho những  
môn học định hướng nghề nghiệp tương lai, Ngữ văn có còn là một trong những  
lựa chọn hàng đầu? Thái độ trì trệ, chán nản của học sinh, phải làm sao để thay  
đổi? Thực tế hiện nay, giữa bão thông tin, nếu chỉ yêu cầu ghi nhớ thì học sinh  
ít “chịu” học thuộc các con chữ, những văn bản dài. Thế nên, việc phải tạo ấn  
tượng, điểm nhấn đã trở thành đòi hỏi bức thiết trong các giờ Ngữ văn. thể  
nói, chưa bao giờ người dạy Ngữ Văn được trang bị nhiều kiến thức, phương  
pháp, được sự hỗ trợ bởi những phương tiện tối tân, đặc biệt những phương  
tiện gắn liền với công nghệ thông tin như bây giờ. Đáng ra với điều kiện đó, chất  
lượng học Văn phải cao hơn, học trò yêu Văn hơn. Nhưng trên thực tế lại không  
như chúng ta mong muốn. Bởi vậy, với các phương pháp, cách thức, con đường  
để đạt được mục tiêu đề ra thì giáo viên còn phải sáng tạo các kĩ thuật trong mọi  
hoạt động đứng lớp của mình để luôn luôn mới trong mắt học sinh.  
6
thể dẫn ra đây một thói quen tai hại khác vẫn chiếm chỗ trong trường  
học của chúng ta là các bài giảng dài. Bạn thể gặp ở bất kỳ trường học nào đó  
là các tiết học kéo dài từ 45 phút tới vài tiếng. Bạn cũng dễ dàng bắt gặp cảnh  
tượng hàng tá học sinh lơ đãng, ngủ gật, hoặc ngồi làm việc riêng trong lớp vì  
không thể chú tâm vào bài giảng. Trong khi hầu hết giáo viên đổ lỗi cho các cô  
cậu học trò, thì các chuyên gia não bộ một lời giải thích đơn giản cho hiện  
tượng này: Não chúng ta chỉ khả năng chú tâm suy nghĩ trong một thời gian  
rất ngắn, chừng 10 phút, sau đó sẽ đến giai đoạn mất tập trung. Đây cơ chế  
phòng vệ hết sức tự nhiên của não người, vậy hãy phân chia các bài giảng  
thành từng phân đoạn ngắn hơn. Sau mỗi mười phút tập trung, hãy thiết kế một  
hoạt động để thư giãn và chuyển đổi sang phân đoạn tiếp theo. Thực ra đã từ lâu  
người ta đã biết dùng kỹ thuật phân giờ Pomodoro với các quy tắc đơn giản kể  
trên để gia tăng đáng kể năng suất làm việc học tập.  
Một thực tế nữa thường thấy trạng thái học tập của học sinh thường mệt  
mỏi, uể oải, các em rất lười vận động, các em không có thời gian để tập thể  
dục… Giờ ra chơi, còn rất nhiều học sinh lựa chọn việc ngồi trong lớp xem  
Smart phone, ngủ, đọc truyện…, vậy tạo sức ì làm ảnh hưởng đến việc học  
sáng tạo của học sinh.  
Sau đây bảng khảo sát tình trạng học tập của 100 học sinh môn Ngữ Văn  
tại trường THPT  
Luôn  
hứng thú  
Không  
hứng thú  
Bình thường  
Nội dung thăm dò  
Số  
Tỷ lệ  
Số  
Tỷ lệ  
Số  
Tỷ lệ  
lượng  
%
lượng  
%
lượng  
%
Trang thái thường  
xuyên của em trong giờ  
học  
11  
11%  
65  
65%  
24  
24%  
2. Vai trò, ý nghĩa của Kĩ thuật dạy học đối với việc thay đổi trạng thái học  
tập cho học sinh  
Về vai trò, các KTDHTC là kỹ thuật dạy học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng  
trong hoạt động dạy học vì chúng giúp phát huy sự tham gia hoạt động tích  
cực, chủ động của học sinh vào quá trình dạy học. Các KTDHTC còn kích thích  
duy, đánh thức sự sáng tạo của học sinh một cách tốt nhất. Bên cạnh đó, các  
KTDHTC còn động lực thúc đẩy sự cộng tác làm việc của học sinh, rèn luyện  
kỹ năng làm việc nhóm cho người học một cách đầy đủ hơn.  
Do yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, KTDHTC ngày càng đa dạng và  
phong phú với muôn màu sắc sinh động được tạo nên từ thực tiễn của hoạt  
động dạy học. Hiện nay các KTDHTC được vận dụng trong thực tế chủ yếu là:  
kỹ thuật động não, kỹ thuật thông tin phản hồi, kỹ thuật bể cá, kỹ thuật tia chớp,  
7
kỹ thuật khăn trải bàn, kỹ thuật ổ bi, kỹ thuật XYZ, kỹ thuật mảnh ghép, kỹ  
thuật kipling...Tuy nhiên, kĩ thuật dạy học như thủ thuật nảy sinh từ những kinh  
nghiệm của giáo viên, nó phụ thuộc vào kinh nghiệm của mỗi giáo viên. Những  
KTDHTC mà chúng ta thường thấy trong các tài liệu tập huấn, với người người  
giáo viên đó chỉ những gợi ý. Giáo viên phải linh hoạt vận dụng thường xuyên  
và không ngừng sáng tạo những kĩ thuật mới để luôn đem đến cho học sinh  
không khí mới mẻ, ấn tượng, thú vị trong tất cả hoạt động của buổi học. Học  
sinh sẽ luôn có cảm giác chờ đợi hồi hộp ngay từ khi giáo viên vào lớp. Giáo  
viên không chỉ vận dụng phương pháp dạy học lớn lao mà ngay trong những kĩ  
thuật, những mẹo nhỏ…để đem đến cho học sinh một chút niềm vui, nhen nhóm  
chút sinh khí, tạo một chút hứng thú từ khâu chào hỏi, cách hỏi bài cũ, cách cho  
học sinh thư giãn…Nghĩa là, giáo viên không chỉ chú trọng trọng việc xây dựng  
phương pháp học tập để lĩnh hội kiến thức mà giáo viên còn là đạo diễn linh  
hoạt, sẵn sàng làm mới mọi hình thức hoạt động trong mỗi tiết dạy. Những kĩ  
thuật này tuy nhỏ nhưng giá trị hiệu quả lại rất cao. Nhờ những kĩ thuật ấy mà  
người giáo viên sẽ giúp học sinh của mình luôn luôn được kích thích, tạo hưng  
phấn, tránh cảm giác mệt mỏi trong quá trình lĩnh hội xử kiến thức. Bởi lẽ:  
Chúng ta không thể dạy ai làm bất cứ điều gì, chúng ta chỉ thể giúp họ khám  
phá điều đó” (Theo Galileo Galilei). Cho nên, nếu khơi dậy được sự hứng thú,  
say mê cho học sinh thì sẽ tạo ra động cơ học tập tích cực, giúp các em hăng  
say, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để đạt kết quả học tập tốt nhất, từ  
đó người học sẽ tiếp nhận tri thức một cách chủ động tự giác, không bị ép  
buộc,…  
Thiên tài Albert Einstein từng nhận xét đại ý “bạn không thể giải bài toán  
theo 1.000 cách giống nhau rồi hy vọng lời giải khác”. Trong những lúc bí  
bách như thế này, cách tốt nhất tạm rời xa bài toán đấy, đi chơi, thư giãn rồi  
hẵng quay lại với bài toán. Việc bạn tạm rời bài toán đó để đi bộ, hóng gió, hoặc  
ngồi thiền ít phút sẽ giúp não bộ chuyển sang chế độ thư giãn, lúc này các vùng  
khác của não bộ được kích hoạt. Nếu quay trở lại giải toán, bạn sẽ khả năng  
tìm ra một con đường khác, không bế tắc như lúc đầu. vậy, thể khảng định  
rằng sáng tạo Kĩ thuật dạy học đối với việc thay đổi trạng thái học tập cho học  
sinh là vô cùng quan trọng.  
3. Mt skĩ thut để thay đổi trng thái hc tp cho hc sinh qua môn NgVăn  
Nắm bắt cơ chế hoạt động của não bộ con người, căn cứ vào thực tế học  
tập của học sinh, tôi nhận thấy rằng người giáo viên không phải chỉ chú trọng  
trau dồi nội dung bài giảng của môn học mà còn cần phải tìm cách thiết kế hoạt  
động thư giãn để góp phần tăng năng suất học tập cho học sinh. Sau đây một số  
8
hình thức mà tôi đã, đang áp dụng mà và nhận thấy hiệu quả để đem lại hứng thú  
cho học sinh trong mỗi giờ học.  
3.1 Mt skĩ thut để thay đổi trng thái hot động hc tp chung cho hc sinh  
3.1.1 Xây dựng một số quy ước mới mẻ với học sinh  
Trong các giờ học, việc lặp đi lặp lại những việc làm, thói quen mà chúng  
ta thường làm với học sinh như vào lớp, hỏi bài cũ, vào bài mới, chuẩn mực  
trong nội dung dạy học, chuẩn mực trong giao tiếp, ứng xử…thực sự đã làm cho  
người giáo viên đơn điệu hơn trong mắt học sinh. Tránh sự đơn điệu ấy, người  
giáo viên cần tạo ra sự mới mẻ mọi lức, mọi nơi khi có điều kiện thực hiện  
- Tạo ra những ám hiệu riêng với học sinh mà chỉ có giáo viên và học sinh  
lớp mình phụ trách hiểu.  
Để thành công trong một tiết dạy, như đã nói trên là người giáo viên  
không chỉ chuẩn bị nội dung kiến thức mà còn cần kĩ thuật quản lớp học.  
Thay vì giáo viên nhắc nhở ổn định lớp theo cách thông thường “cả lớp trật  
tự”, “các em chú ý”…thì GV có thể tạo ra những ám hiệu riêng như : Hi (xin  
chào)/hi (xin chào); Start (bắt đầu)/ok (được); Yêu/ Tiếng Việt; Lớp /  
D2…Nghĩa là, giáo viên sẽ nói vế đầu, học sinh sẽ nói vế sau. Những ám hiệu  
này sẽ thể thay đổi theo từng tiết học, buổi học để phù hợp với đặc điểm, tâm  
của giáo viên và học sinh của lớp mình dạy. Đây là cách để ổn định lớp và thu  
hút học sinh tập trung chú ý vào hoạt động học tập mà giáo viên đang tiến hành.  
- Cho học sinh bốc thăm để lấy số thứ tự riêng của mình  
Lấy số thứ tự khi hỏi bài : Trong sổ điểm của giáo viên đã số thứ tự  
của họ tên học sinh, nhưng để thay đổi không khí, giáo viên có thể cho học sinh  
bốc thăm để lấy số thứ tự. Các em sẽ nhớ số thứ tự của mình và trong quá trình  
dạy học, giáo viên có thể hỏi bài cũ bằng các con số thứ tự. Hình thức lấy số để  
gọi học sinh cũng phải thường xuyên thay đổi liên tục. Các hình thức đó thể  
thay đổi như gọi theo ngày, theo tháng, theo sự kiện đặc biệt, có khi thì cộng các  
số của ngày tháng lại để tạo thành số mới.  
Lấy số thứ tự khi hoạt động nhóm: Khi hoạt động nhóm, để tất cả các  
thành viên trong nhóm đều ở tư thế sẵn sàng trình bày, giáo viên không cử cố  
định trưởng nhóm mà tất cả các thành viên trong nhóm đều có vai trò như nhau.  
dụ khi chia nhóm 6 người, mỗi học sinh sẽ tự chọn cho mình một số thứ tự từ  
1 đến 6. Khi giao bài tập nhóm, tất cả các thành viên cùng nhau thực hiện.  
Thông thường, nhóm sẽ cử 1 đại diện khả năng trình bày tốt nhất nhưng mục  
tiêu của giáo viên là ai cũng phải được trình bày. Vì vậy, giáo viên sẽ chuẩn b6  
phiếu đánh số thứ tự từ 1 đến 6 và bốc thăm, bốc thăm trúng số nào thì thành  
viên số đó của tất cả các nhóm bắt buộc phải lên trình bày.  
Bốc thăm để chọn nhóm trưởng: Thông thường, chúng ta thường chọn  
nhóm trưởng những người học tốt hoặc mạnh dạn để đại diện nhóm phát biểu.  
Điều đó, vô hình trung chúng ta đã tạo sự ỉ lại cho đa số học sinh và hoạt động  
nhóm chủ yếu thu hút những bạn tích cực. Để tránh tình trạng trên, giáo viên sẽ  
9
cho các nhóm bốc thăm nhóm trưởng. Giả sử, nhóm 6 người, mỗi người vẫn tiếp  
tục lấy 1 số như ở hình thức trên và sau đó bốc thăm lấy một số bất kì. Trúng số  
nào thì người số thăm đó sẽ làm nhóm trưởng. Như vậy, việc đưa tất cả học  
sinh vào cuộc sẽ dễ dàng thực hiện. Đặc biệt, học sinh luôn trong tâm thế chờ  
đợi, hồi hộp và hào hứng hơn.  
- Kĩ thuật chia nhóm.  
Hoạt động nhóm là một phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ  
động, sáng tạo của người học. Đây một phương pháp sử dụng khá phổ biến  
hiện nay. Tuy nhiên, các hình thức chia nhóm nên sử dụng nhiều cách khác  
nhau. Theo cách thức thông thường, giáo viên sẽ chia nhóm dựa vào chỗ ngồi  
hoặc theo tổ. Nhóm đó sẽ giữ ổn định trong suốt thời gian một tháng hoặc một  
kì. Việc giữ ổn định này sẽ không tạo được cảm giác mới mẻ, hứng thú cho học  
sinh. Khi thay đổi các thành viên trong nhóm sẽ góp phần tạo nên trạng thái học  
tập mới mẻ cho học sinh, các em có cơ hội học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác  
nhau trong lớp. dụ: Chia theo nhóm điểm danh, theo vần, theo tháng sinh,  
bốc thăm…, hoặc hình thức hóa theo trò chơi như cho học sinh di chuyển vòng  
quanh lớp. Khi giáo viên có hiệu lệnh ngồi xuống thì bắt buộc học sinh phải  
ngồi xuống một vị trí của mỗi nhóm đã chia sẵn mà không được ngồi quá số  
lượng người đã chia….Những hình thức này giáo viên hoàn toàn có thể sáng tạo  
theo ý của mình miễn làm sao luôn luôn có được sự mới mẻ, tạo không khí thú  
vị cho học sinh khi học tập.  
- Đưa ra một số quy định mới mẻ khi học sinh không hoàn thành công việc  
của mình (chưa nghiêm túc, chưa hoàn thành bài tập…) thì có thể phạt học sinh  
bằng quy định nộp phạt bằng việc nộp phế thải, trồng cây, …  
Như vậy, trong biện pháp này giáo viên có thể tạo ra nhiều quy ước bằng  
chính sự sáng tạo của mình, tránh sự nhàm chán, đơn điệu để góp phần kích  
thích hưng phấn học tập cho học sinh.  
3.1.2 Tạo cơ hội cho học sinh được vận động ngay trong tiết học  
Như đã trình bày trong phần thực trạng, đa số các tiết học kéo dài từ 45  
phút tới vài tiếng. Chúng ta cũng dễ dàng bắt gặp cảnh tượng rất nhiều học sinh  
lơ đãng, ngủ gật, hoặc ngồi làm việc riêng trong lớp vì không thể chú tâm vào  
bài giảng. Các chuyên gia đã giải thích do quy luật của não bộ. Thay vì đổ lỗi  
cho học trò thì giáo viên thiết kế các hoạt động để thư giãn giúp học sinh có  
trạng thái học tập tốt hơn.  
- Cho học sinh di chuyển bàn học theo mục đích học tập của buổi học.  
Việc di chuyển, sắp xếp theo mục đích học tập của buổi học thường được  
thực hiện vào những tiết học dự giờ. Công việc sắp xếp này thường được  
chuẩn bị trước tiết học. Ở đây, thay vì chuẩn bị trước thì giáo viên sẽ cho học  
sinh tiến hành xếp bàn ngay trong tiết học. Khi hoạt động học tập cần sự thay  
đổi vị trí thì giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh sắp xếp bàn theo một hình thức nào  
đó phù hợp với hoạt động dạy học. dụ sắp xếp bàn thành hình chữ U, bàn  
hàng ngang, ghép bàn hình vuông, xếp bàn theo kiểu đại biểu…Thời gian cho  
10  

Tải về để xem bản đầy đủ

docx 37 trang minhvan 10/03/2024 1390
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số kỹ thuật để thay đổi trạng thái học tập cho học sinh qua môn Ngữ văn THPT", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_ky_thuat_de_thay_doi_trang_thai_hoc_tap_cho_hoc.docx