SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm giúp học sinh chủ động và tự tin trong hoạt động
Tiểu học là bậc học góp phần quan trong trong việc đặt nền móng hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Ngày nay, để đào tạo được những con người phát triển toàn diện có ích cho xã hội, đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước thì mục đích hàng đầu của Nhà nước ta là phải nâng cao chất lượng Giáo dục- Đạo tạo mà nền tảng là giáo dục Tiểu học.
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH XUÂN – HÀ NỘI
TRƯỜNG TIỂU HỌC THANH XUÂN TRUNG
-------------------------------------------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM GIÚP
HỌC SINH CHỦ ĐỘNG VÀ TỰ TIN TRONG HOẠT ĐỘNG
MÔN: CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
Tác giả
: Trịnh Thị Hồng Nhật
: Giáo viên Chủ nhiệm
Chức vụ
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thanh Xuân Trung
(Tài liệu có kèm theo đĩa CD)
NĂM HỌC 2011 - 2012
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài:
Tiểu học là bậc học góp phần quan trong trong việc đặt nền móng hình
thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Ngày nay, để đào tạo được những
con người phát triển toàn diện có ích cho xã hội, đáp ứng được yêu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước thì mục đích hàng đầu của Nhà nước ta là
phải nâng cao chất lượng Giáo dục- Đạo tạo mà nền tảng là giáo dục Tiểu học.
Trong nhà trường Tiểu học, công tác giảng dạy không thể tách rời công
tác chủ nhiệm. Công tác giảng dạy sẽ không thể đạt hiệu quả cao nếu công tác
chủ nhiệm không tốt. Hai nhiệm vụ này không thể tách rời nhau mà nó luôn luôn
bổ sung, hỗ trợ nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Chính vì vậy, việc tu
dưỡng và rèn luyện đào tạo cho học sinh Tiểu học là rất quan trọng. Và không
phải học sinh nào khi đến lớp cũng có sẵn ý thức kỷ luật và những hiểu biết về
sự cần thiết phải tuân theo kỷ luật của nhà trường.
Hiện nay, ở bậc Tiểu học, các em được học 2 buổi/ngày. Hàng ngày đến
trường, sự gắn bó của các em với nhà trường, với tập thể lớp và cô giáo chiếm
thời gian nhiều hơn ở gia đình. Ngay từ khi cắp sách tới trường, các em đã được
làm quen với các chủ đề “Vâng lời, lễ phép với ông bà, cha mẹ”, “Lễ phép với
thầy cô giáo”, “Biết cảm ơn, xin lỗi”… của môn Đạo Đức. Qua các bài giảng
của cô trên lớp về các môn như: Tiếng Việt, Tự nhiên xã hội, Mỹ thuật,… các
em được cung cấp những hiểu biết về đất nước, thiên nhiên, về con người và về
làng xã, phố phường… Các em đã được hiểu nhiều hơn được mở rộng tầm nhìn
hơn. Nhưng ở lứa tuổi này với tính tò mò, hay hỏi, nếu thiếu sự quan tâm, nhắc
nhở của người lớn sẽ nảy sinh tính tự do, ý thức kém, sẽ thích làm theo ý mình
và ương bướng.
Các bậc phụ huynh học sinh khi đưa con em đến trường học luôn đặt niềm
tin tuyệt đối vào các thầy, các cô và nhà trường. Là người thầy, khi đó nhận
những đứa con ngây thơ, hồn nhiên là đón nhận niềm vui, lo lắng và trách nhiệm
lớn lao. Nhưng chỉ qua một thời gian ngắn, tình cảm thầy trò chúng tôi đã nhanh
1
chóng gắn bó. Đến lúc đó, tôi thấy tình thương và trách nhiệm của mình đối với
các em thật to lớn.
Hơn nữa, để hưởng ứng cuộc vận động “Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực”, “Nhà trường văn hoá- Nhà giáo mẫu mực- Học sinh thanh
lịch”, mỗi người giáo viên phải xây dựng một lớp học thân thiện với những
thành viên tích cực. Để làm được điều này, người giáo viên phải làm thật tốt
công tác chủ nhiệm.
Đứng trước tình hình đó, được sự chỉ đạo, góp ý của Ban lãnh đạo nhà
trường, của các đồng nghiệp tôi thấy: Để xây dựng một lớp học thân thiện với
những học sinh tích cực, để nâng cao chất lượng dạy học, góp phần đào tạo các
em sau này trở thành con người phát triển toàn diện, có ích cho xã hội thì người
giáo viên không chỉ chú trọng bồi dưỡng nâng cao cho các em hoàn thiện về mặt
kiến thức mà còn phải giáo dục các em cả về mặt nhân cách mà trong đó việc
giúp các em chủ động tự tin trong hoạt động là không thể thiếu được. Chính vì
vậy, tôi chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm giúp học
sinh chủ động và tự tin trong hoạt động”.
2. Mục đích của đề tài:
Kết quả quan trọng nhất và cũng khó khăn nhất của quá trình giáo dục
Tiểu học là những kĩ năng, hành vi, thói quen tích cực về các mặt đạo đức, lao
động, thể chất, thẩm mĩ… được hình thành ở học sinh. Những kĩ năng, hành vi
và thói quen này phải thoả mãn các chỉ tiêu:
- Phù hợp với những chuẩn mực hành vi về đạo đức, lao động, thể chất,
thẩm mĩ… đã được quy định.
- Có tính tự giác, thống nhất với ý thức đã được hình thành;
- Có động cơ trong sáng, được thúc đẩy bởi thái độ, tình cảm đúng đắn.
- Có tính phổ biến và tính bền vững.
Các chỉ tiêu này hợp thành một chỉnh thể thống nhất với nhau nên giáo
viên không được bỏ qua bất kì một chỉ tiêu nào.
2
Chính vì vậy, đề tài nghiên cứu “Một số kinh nghiệm trong công tác chủ
nhiệm giúp học sinh chủ động và tự tin, trong thoạt động” với mục đích.
2.1. Xây dựng cơ sở lí luận cho việc xây dựng một tập thể lớp với những
thành viên chủ động, tự tin trong hoạt động.
2.2. Phân tích thực trạng giáo dục trong nhà trường tiểu học. Từ đó, đưa
ra những giải pháp nhằm giúp học sinh chủ động tích cực hơn trong mọi hoạt
động.
2.3. Thực nghiệm để xem xét tính khả thi của các giải pháp đề ra. Từ đó
rút ra những kết luận sư phạm để ứng dụng vào thực tế giáo dục học sinh tiểu
học.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi và thời gian thực hiện đề tài:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh lớp 3A3 Trường Tiểu học Thanh Xuân Trung.
- Các phương pháp, hình thức giáo dục học sinh tiểu học.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu các phương pháp giáo dục học sinh lớp mình phụ trách.
3.3. Thời gian thực hiện đề tài:
Từ tháng 9 năm 2011 đến tháng 4 năm 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp thống kê.
3
B. NỘI DUNG CHÍNH
I. Cơ sở lí luận:
Quá trình giáo dục tiểu học, về bản chất, là quá trình chuyển hoá tự giác,
tích cực độc lập những yêu cầu về những chuẩn mực hành vi đã được quy định
thành những kĩ năng, hành vi và thói quen tương ứng đã được quy định dưới tác
dụng chủ đạo của giáo viên, thông qua việc tổ chức các hoạt động và giao tiếp
khác nhau.
Trong quá trình giáo dục tiểu học, học sinh chịu ảnh hưởng, tác động từ
nhiều phía khác nhau- Nhà trường, gia đình, xã hội. Trong nhà trường, những
tác động đó có thể là của giáo viên, của tập thể lớp, của bạn bè, của nội quy nhà
trường của các hoạt động giáo viên được tổ chức… Trong gia đình, đó có thể là
di truyền là những tác động của tác động từ các phương tiện thông tin đại chúng
(Sách, báo, ti vi…) của các hiện tượng xảy ra trong thực tiễn mà các em chứng
kiến hàng ngày…
Các tác động này rất phức tạp có thể tích cực hay tiêu cực, tự giác hay tự
phát; trực tiếp hay gián tiếp. Đặc biệt, chúng thường xảy ra đồng thời, đan kết
nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, tạo ra sự cộng hưởng tích cực và sự cộng hưởng tiêu
cực cùng tác động đến học sinh tiểu học- Những người còn non lớt, ít kinh
nghiêm sống, dễ bắt chước.
Khi học sinh có ý thức tự giác thì các em phải có những tri thức cần thiết
và niềm tin tương ứng. Trong lúc đó việc hình thành niềm tin đòi hỏi học sinh
phải trải nghiệm cuộc sống để không những chứng kiến đối chiếu thực tiến với
tri thức đã có, mà còn thể nghiệm hành động của chính mình. Để có được niềm
tin đó, cần có thời gian dài nhất định, không chỉ vài giờ, vài ngày… Cũng như
vây, để có thái độ và tình cảm đúng đắn, đặc biệt là kỹ năng, hành vi và thói
quen tích cực, cần có thời gian để học sinh thể hiện, vận dụng những điều đã học
được vào thực tế cuộc sống của mình.
Quá trình giáo dục tiểu học cũng luôn luôn vận động và phát triển từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp nhằm đạt được kết quả như mong muốn. Mặt
khác theo triết học duy vật biện chứng, bất kỳ một quá trình nào cũng có mâu
4
thuẫn và nhờ việc giải quyết có hiệu quả những mâu thuẫn mà tạo nên sự phát
triển. Mâu thuẫn cơ bản của quá trình giáo dục tiểu học là mâu thuẫn giữa một
bên là yêu cầu của nhà trường về chuẩn mực hành vi được đề ra trong quá trình
giáo dục thì cao và một bên là trình độ được giáo dục của học sinh thì hạn chế.
Khi mâu thuẫn nảy sinh, dưới sự tổ chức hướng dẫn, điều khiển của giáo viên,
học sinh tự giác, tích cực tham gia thực hiện các hoạt động nhằm đáp ứng những
yêu cầu cao theo chuẩn mực hành vi quy định. Như vậy, mâu thuẫn được giải
quyết. Kết quả là mức độ được giáo dục cũng như trình độ phát triển nhân cách
nói chung ở học sinh được nâng cao một bước tương ứng với những yêu cầu đề
ra, toàn bộ quá trình giáo dục tiểu học cũng phát triển thêm một bước.
Như chúng ta đã biết, ở mỗi học sinh tiểu học có một “Vùng phát triển
gần nhất” về trình độ được giáo dục nằm trong tiềm năng con người. Để mâu
thuẫn trở thành động lực tạo nên sự phát triển của quá trình giáo dục thì yêu cầu
về chuẩn mực hành vi cần giáo dục phải tương ứng với giới hạn cao nhất của “
Vùng phát triển gần nhất” về trình độ được giáo dục của học sinh mà các em có
thể vươn tới được với sự nỗ lực cao nhất.
Vậy vấn đề đặt ra là, giáo viên cần đưa ra những yêu cầu về các chuẩn
mực hành vi thích hợp để học sinh thực hiện một cách có hiệu quả cao nhất, tạo
ra sự phát triển tốt nhất ở từng học sinh là một vẫn đề hết sức quan trọng. Vì
vậy, giáo viên cần nắm vững “ Vùng phát triển gần nhất” của mỗi em học sinh
và từ đó đưa ra những yêu cầu vừa sức, đồng thời tổ chức cho các em thực hiện
yêu cầu sao cho có kết quả cao.
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
1. Thực trạng chung:
Trong những năm gần đây, nền kinh tế của nước ta phát triển không
ngừng, đời sống của nhân dân được nâng cao, các tiện nghi phục vụ cho đời
sống sinh hoạt đầy đủ hơn. Ở gia đình và xã hội không thiếu những thứ để các
em quan tâm tới. Nếu thiếu sự giám sát của cha mẹ ở nhà, của cô giáo và bạn bè
ở trường, ở lớp thì các em sẽ không tránh khỏi có ý thức kỷ luật kiém, mải chơi
5
điện tử, đọc truyện, xem hoạt hình… mà lơ là việc học tập. Để đảm bảo khi đến
trường, các em học đủ 9 môn có chất lượng cao đòi hỏi các em đến trường phải
thực hiện đầy đủ nội quy trường lớp đề ra một cách thường xuyên và nghiêm túc
thì hai vai trò của người giáo viên chủ nhiệm là không nhỏ. Giáo viên chủ nhiệm
chính là người thuyền trưởng chèo lái đưa các con đi đúng hướng. Một số giáo
viên chủ nhiệm, để đạt được mục đích giáo dục hay tự làm việc mà ít đẩy hoạt
động về phía học sinh nên các em thường thụ động làm theo, giảm mất tính chủ
động. Một số khác lại hay áp đặt, hà khắc quá với học sinh khiến các em dễ rơi
vào tình trạng sợ sệt thiếu tự tin.
2. Thực trạng của lớp 3A3 Trường Tiểu học Thanh Xuân Trung
a. Thuận lợi:
- Được giảng dạy trong một ngôi trường mới xây khang trang, sạch đẹp
với đầy đủ trang thiết bị thiết yếu và hiện đại.
- Ban giám hiệu nhà trường luôn sát sao, tạo mọi điều kiện thuận lợi cũng
như có những phương hướng chỉ đạo phù hợp cho giáo viên và học sinh trong
công tác giáo dục.
- Đối tượng giáo dục là học sinh lớp 3, giữa bậc tiểu học đã trải qua giai
đoạn đầu bỡ ngỡ, các em tương đối ngoan biết nghe lời, phần nào đã quen nề
nếp của nhà trường.
- Được lên theo lớp, nên tôi nắm bắt tương đối rõ đặc điểm riêng của từng
em từ đó dễ dàng có những biện pháp giáo dục phù hợp.
b. Khó khăn:
- Năm học 2011-2012, Tôi được phân công chủ nhiệm lớp 3A3. Lớp tôi
phụ trách có 36 em (15 nữ và 21 nam). Ở độ tuổi này, các em vẫn còn nhận
thức cụ thể trực tiếp, máy móc và thích bắt chước. Do đó, các em dễ tiếp nhận
mọi điều tốt xấu từ bên ngoài. Thêm vào đó ở lứa tuổi này các em rất hiếu động,
hồn nhiên vô tư và rất chóng quên, ý thức kỷ luật và khả năng tự kiềm chế chưa
cao nên nhiều em thích chơi hơn học, dễ gây mất trật tự, do nói chuyện cười
đùa, làm việc riêng trong giờ truy bài, giờ hcọ, giở ngủ, sinh hoạt tập thể hay khi
vắng giáo viên.
6
- Mặt khác, thực tế xã hội hiện nay còn tồn tại nhiều hiện tượng có tác
động không lành mạnh tới học sinh. Cụ thể là: Hàng ngày các em được chứng
kiến nhiều hành vi đạo đức thiếu văn hoá như: đánh nhau, nói tục, chửi bậy, hỗn
láo với người trên (đặc biệt đối với những con ở khu vực chợ Nhân Chính).
Thêm vào đó, các em được tự do xem các loại phim, băng hình, trò chơi điện tử
mang nhiều tính bạo lực, không có tính giáo dục lành mạnh.
- Qua tìm hiểu, tôi thấy bố mẹ các em chủ yếu làm nghề tự do, nội trợ.
Thêm vào đó, còn nhiều em có hoàn cảnh gia đình đặc biệt như: em Thu Trang ở
với ông bà, em Hữu Chương bố mẹ bỏ nhau; em Dung, em Toàn, em Mạnh,
hoàn cảnh gia đình quá khó khăn. Vì các em thiếu vắng sự quan tâm giáo dục từ
phía gia đình nên đã ảnh hưởng lớn đến kết quả học tập cũng như việc rèn luyện
nề nếp của các em. Từ việc không có nề nếp kỷ luật dẫn đến chất lượng học tập
sút kém.
III. Giải pháp
1. Những việc cần làm của giáo viên chủ nhiệm:
a. Xây dựng kế hoạch cho năm học, kế hoạch từng tháng, kế hoạch
từng tuần và các mặt hoạt động:
Biện pháp xây dựng kế hoạch là một trong những biện pháp quan trọng
hàng đầu đối với công tác chủ nhiệm mà bất cứ giáo viên nào khi nhận lớp cũng
cần phải nắm được. Có xây dựng kế hoạch tốt, khoa học thì giáo viên chủ nhiệm
mới chủ động trong công tác, mới chỉ đạo lớp thực hiện tốt các phong trào của
nhà trường. Đồng thời thông qua bản kế hoạch đó mới kiểm tra, đánh giá kết quả
công việc tốt hay xấu để từ đó điều chỉnh phương pháp chủ nhiệm cho phù hợp.
Còn về phía học sinh, các em được xây dựng các biện pháp trên phương hướng
đề ra giúp các em tăng cường thêm tính chủ động, sáng tạo trong học tập cũng
như công việc hàng ngày.
Xuất phát từ tầm quan trọng của biện pháp, ngay từ khi nhận lớp chủ
nhiệm, tôi đã nghiên cứu và xây dựng bản kế hoạch cho hết năm học, kế hoạch
từng tháng, từng phần cho lớp mình chủ nhiệm.
7
* Ví dụ:
Khi xây dựng kế hoạch cho hết năm học, tôi có kết hợp với kế hoạch
chung của nhà trường của đoàn đội để xây dựng kế hoạch riêng cho lớp mình.
Tôi đã xây dựng kế hoạch công tác tháng 3 như sau:
- Tháng 3 sẽ sinh hoạt theo chủ nhiệm: “Em là con ngoan”.
- Thi đua giành nhiều điểm 9, 10 tặng cô và em.
- Tiếp tục rèn nề nếp kỷ luật của lớp: Rèn nếp xếp hàng, múa hát tập thể
giữa giờ, truy bài, học bài và làm bài tập.
- Tham gia nhiệt tình các hoạt động chào mừng ngày 26-3.
- Tham gia mua tăm ủng hộ người mùa đợt 2.
- Chuẩn bị thu kế hoạch nhỏ đợt 2.
- Biết nhặt giấy rác vứt đúng nơi quy định.
- Từ kế hoạch tháng, xây dựng kế hoạch từng tuần, cụ thể kế hoạch tuần 1
tháng 3 (tuần 26) như sau:
- Củng cố đội ngũ cán bộ lớp nhằm giành nhiều điểm 9, 10 tặng mẹ, tặng
cô chào mừng ngày 8-3.
- Chuẩn bị cây dự thi “Hoa cây cảnh” và “Hội chợ mùa xuân”.
- Sinh hoạt theo chủ điểm: “Em là con ngoan”.
b. Sự quan tâm của giáo viên chủ nhiệm.
- Cô là người mẹ thứ hai của học sinh, người gần gũi và có thời gian ở bên
cạnh học sinh suốt cả ngày hơn cả thời gian học sinh ở gia đình, ý thức được
điều đó nên tôi luôn thương yêu, tôn trọng học sinh và giữ đúng lời hứa.
- Luôn tin tưởng, tôn trọng học sinh và giữ đúng lời hứa.
- Gần gũi, tìm hiểu hoàn cảnh của từng học sinh luôn thể hiện sự chân
thành, cởi mở là nơi tâm sự, là người bạn, người chị, chỗ dựa về tình thần của
các em khi ở trường.
- Đưa ra những quy định phù hợp. Tránh “nói suông - doạ suông” nâng
dần các yêu cầu theo sự tiến bộ của lớp. Tuy nhiên không đưa ra nhiều yêu cầu
quá cao hay khó thực hiện được sự dẫn tới lời nói của người thầy không còn
trọng lượng. Bởi vậy, giáo viên cần tìm hiểu, nắm chắc đặc điểm lứa tuổi, khả
8
năng nhận thức, tình cảm nhu cầu của từng cá nhân học sinh. Muốn làm được
điều này, giáo viên cần vận dụng phối hợp các phương pháp như: Nghiên cứu
các tài liệu tâm lý học liên quan, quan sát hành vi và hoạt động của học sinh,
nghiên cứu hồ sơ, thăm dò ý kiến những giáo viên cũ, gia đình và bạn bè các
em, nghiên cứu kết quả và sản phẩm hoạt động của học sinh…
- Giải quyết các vấn đề của lớp phải thật công bằng, không thiên vị.
- Ngoài việc trú trọng đến nhiều giờ học các môn học chính GVCN cần
đặc biệt quan tâm đến các giờ sinh hoạt tập thể, luôn đổi mới nó. Như tăng
cường các buổi sinh hoạt theo chủ đề để học sinh bộc lộ hết khả năng của mình,
giúp các em thêm tự tin và thầy trò hiểu nhau hơn. Trong giờ học cô giáo là
người thầy dạy, giờ nghỉ là người mẹ, giờ chơi là người bạn. Chính vì vậy, kể cả
lúc các con chơi tôi cũng luôn trăn trở tìm cách mang lại niềm vui cho các con
qua những trò chơi bổ ích sau những giờ học căng thẳng. Dạy các con chơi
những trò chơi dân gian (Ô ăn quan, nhảy dây…) vừa rèn tư duy, tăng tính đoàn
kết lại giảm bởi được tai nạn thương tích.
- Khen thưởng, động viên các em kịp thời, thường xuyên tặng quà cho các
em học sinh có thành tích, tiến bộ vào các giờ sinh hoạt cuối tuần. Phương châm
với những em yêu, mắc nhiều khuyết điểm thì luôn chú ý tìm đến những tiến bộ
dù là nhỏ nhất để động viên khen thưởng kịp thời. Còn đối với những em khá
giỏi, ngoan thì chú ý nhiều đến việc sửa chữa nhắc nhở các em nếu các em vi
phạm. Đây là biện pháp rất hiệu quả vì việc động viên, khen thưởng kịp thời sẽ
giúp các em tự tin và có ý thức vươn lên, nhất là những học sinh yếu kém khi
nhận được những lời động viên khen thưởng của cô giáo. Tránh các hiện tượng
như “khoán trắng” mọi việc cho học sinh, thiếu sự định hướng, tổ chức, kiểm tra
đánh giá từ phía giáo viên.
* Ví dụ: Em Bích Trà, Bảo Lâm, Thy Khoa khi có được sự động viên của
cô giáo, em đã tiến bộ hơn, đã học bài khi đến lớp và mạnh dạn đứng lên phát
biểu xây dựng bài.
9
2. Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp:
Muốn học sinh có ý thức tự giác, chủ động, tích cực, theo tôi yếu tố làm
nên sự thành công là bước đầu xây dựng đội ngũ cán bộ lớp có năng lực, tích
cực, nhanh nhẹn trong công tác. Cán bộ lớp chính là nòng cốt thúc đẩy mọi hoạt
động của lớp, đồng thời, cán bộ lớp cũng là tấm gương để mọi cá nhân, thành
viên trong lớp noi theo. Chính vì vậy, khi lựa chọn đội ngũ cán bộ lớp giáo viên
cần chọn những em gương mẫu trong mọi công việc, mọi hành động. Tôi đã
chọn.
Em Vũ Tâm Nhi
- Lớp trưởng phụ trách chung
- Lớp phó học tập
- Lớp phỏ kỷ luật
- Quản ca
Em Phạm Xuân Bách
Em Hà Văn Quang
Em Đào Hà Trang
Mỗi tổ bầu ra 1 bạn tổ trưởng và 1 bạn tổ phó.
Nhưng bên cạnh những cán bộ lớp trụ cột, tôi còn bầu thêm một số em có
“Cá tính mạnh” cũng làm cán bộ lớp hoặc giao nhiệm vụ với mục đích cho các
em đó được đôn đốc nhắc nhở các bạn từ đó tự ý thức được những việc mình
phải làm, những việc mình chưa được, cần chỉnh sửa.
* Ví dụ: Em Đăng Minh là một em rất hiếu động. Sau khi được phân công
làm tổ phó, em đã có ý thức tự giác hơn, giảm bớt nghịch ngợm để thể hiện
mình với vai trò một cán bộ lớp. Như vậy, vô hình chung, trong lớp sẽ giảm bớt
được một bạn hay vi phạm nội quy.
Ngay từ đầu người giáo viên chủ nhiệm cần rèn cho các em: Lớp trưởng,
lớp phó, tổ trưởng, tổ phó phải thật công bằng không thiên vị, ỷ lại đồng thời
phải biết đoàn kêt, đồng tâm nhất trí. Cán bộ lớp biết nhắc nhở kip thời những
sai phạm cũng như nêu những gương tốt của các bạn trong lớp.
Công tác chủ nhiệm đạt kết quả tốt phải kể đến sự hỗ trợ của đội ngũ cán
bộ lớp. Bởi vậy, việc xây dựng đội ngũ cán bộ lớp gương mẫu, nhiệt tình, chăm
học và có phương pháp làm việc khoa học là một việc làm cần thiết. Đội ngũ cán
bộ lớp có thể coi là cánh tay đặc lực của giáo viên chủ nhiệm trong việc đôn
đốc, theo dõi nhắc nhở các bạn. Hàng tuần cán bộ lớp đền có bản nhận xét để kết
10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm giúp học sinh chủ động và tự tin trong hoạt động", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
skkn_mot_so_kinh_nghiem_trong_cong_tac_chu_nhiem_giup_hoc_si.doc