SKKN Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
Ở bậc học THPT, học sinh chủ yếu được học tập, rèn luyện kiểu bài nghị luận. Trong đó, dạng bài nghị luận xã hội nhằm mục đích tăng cường sự gắn bó của học sinh với đời sống xã hội; hình thành, bồi dưỡng kĩ năng sống cho học sinh; đặc biệt tạo cho học sinh năng lực chủ động đề xuất, phát biểu những suy nghĩ của mình trước nhiều vấn đề trong cuộc sống…
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .....................................................................................................1
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.........................................................................................1
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU................................................................................1
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU............................................................................1
IV. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT, THỰC NGHIỆM...................................................1
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................................................2
VI. PHẠM VI, KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU...........................................................2
PHẦN NỘI DUNG..................................................................................................3
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN.................................................................................................3
II. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ KHI VIẾT
ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CỦA HỌC SINH..........................................4
III. GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG HẠN CHẾ KHI VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ
LUẬN XÃ HỘI CỦA HỌC SINH ...........................................................................7
IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN....................................................................................10
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ....................................................................11
I. KẾT LUẬN ...........................................................................................................11
II. KIẾN NGHỊ .........................................................................................................11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
T.A.Ê-đi-xơn – một trong những nhà phát minh giàu ý tưởng nhất trong lịch sử
nhân loại đã từng nói: Giá trị của một ý tưởng nằm ở cách sử dụng nó. D.Ca-ne-giơ
cũng từng khẳng định: Tri thức chưa có sức mạnh chừng nào còn chưa được áp dụng.
Điều đó thực sự đúng đắn đối với bộ môn Ngữ văn. Với đặc thù riêng của môn học,
Ngữ văn không chỉ đòi hỏi người học tích lũy kiến thức mà quan trọng hơn, phải biết
chuyển tải kiến thức vào những bài văn mang tính thực hành. Nghĩa là, người học phải
biết vận dụng kiến thức và đặc biệt, phải nắm vững kĩ năng làm văn.
Môn Ngữ văn bao gồm ba phân môn cụ thể: Đọc văn, Tiếng Việt và Làm văn.
Mỗi phân môn vừa có vai trò riêng vừa có mối quan hệ chặt chẽ mang yếu tố tích hợp
cả theo chiều dọc lẫn chiều ngang. Trong đó, phân môn Làm văn có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc rèn luyện kĩ năng thực hành, sáng tạo cho học sinh.
Ở bậc học THPT, học sinh chủ yếu được học tập, rèn luyện kiểu bài nghị luận.
Trong đó, dạng bài nghị luận xã hội nhằm mục đích tăng cường sự gắn bó của học sinh
với đời sống xã hội; hình thành, bồi dưỡng kĩ năng sống cho học sinh; đặc biệt tạo cho
học sinh năng lực chủ động đề xuất, phát biểu những suy nghĩ của mình trước nhiều
vấn đề trong cuộc sống…
Năm học 2016 – 2017, Bộ Giáo dục – đào tạo tiếp tục đổi mới thi cử theo lộ
trình đã đề ra. Đối với bộ môn Ngữ văn, sự thay đổi về thời gian làm bài thi (từ 180
phút xuống 120 phút) đã đưa đến sự thay đổi về cấu trúc, dung lượng đề thi THPT
Quốc gia. Cụ thể, việc đổi mới rõ nhất chính là ở phần Làm văn, câu nghị luận xã hội:
từ yêu cầu viết một bài văn nghị luận xã hội khoảng 600 chữ ở những năm học trước
(3,0 điểm) chuyển sang yêu cầu viết một đoạn văn nghị luận xã hội khoảng 200 chữ
(2,0 điểm).
Sự thay đổi đó tạo nên một áp lực không nhỏ đối với cả học sinh lẫn giáo viên
trong quá trình ôn tập, chuẩn bị cho kì thi THPT Quốc gia. Vậy làm thế nào để giúp
các em học sinh có được kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội đúng chuẩn? Làm thế
nào để các em học sinh có thể chuyển tải những tri thức về cuộc sống trong những bài
viết, bài thi của mình?... Xuất phát từ những trăn trở và yêu cầu thực tế của việc dạy
Văn, với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả dạy học phần nghị luận xã hội nói
riêng và môn Ngữ văn nói chung; tôi lựa chọn đề tài: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng
viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Về phía giáo viên: sáng kiến giúp giáo viên tiếp tục nghiên cứu, rút kinh nghiệm
để nâng cao năng lực chuyên môn.
- Về phía học sinh: Giúp các em phát huy được năng lực làm bài viết đoạn văn
nghị luận xã hội đáp ứng yêu cầu việc đổi mới kiểm tra đánh giá của Bộ GD-ĐT.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Phân môn Làm văn trong nhà trường THPT, cụ thể là văn nghị luận xã hội
- Cấu trúc một đoạn văn
- Cách viết một đoạn văn nghị luận xã hội về tư tưởng đạo lý hoặc một hiện
tượng đời sống
- Học sinh lớp 12 chuẩn bị tham gia kỳ thi THPT Quốc gia
IV. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT, THỰC NGHIỆM
Sáng kiến được áp dụng trong thực tế giảng dạy môn Ngữ văn đối với học sinh
lớp 12A6, 12B4 (năm học 2017-2018) và lớp 12A3, 12B1(năm học 2018-2019) tại
trường THPT Vĩnh Linh – Quảng Trị.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp khảo sát thực tế
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp thống kê
VI. PHẠM VI, KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
- Năm học 2016-2017: Tổng hợp, phân tích tài liệu nghiên cứu; định hướng cấu
trúc vấn đề nghiên cứu, áp dụng ở lớp 12A5.
- Năm học 2017- 2018, 2018-2019: tiếp tục áp dụng đề tài vào giảng dạy môn Ngữ
Văn ở các lớp 12A6, 12B4; 12A3, 12B1; rút kinh nghiệm và hoàn thiện đề tài nghiên
cứu.
PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
I.1. Khái luận về văn nghị luận
* Khái niệm: Có nhiều cách hiểu về văn nghị luận, nhưng trong phạm vi chương
trình Làm văn ở Trung học phổ thông, có thể hiểu: Văn nghị luận là kiểu bài phát biểu
ý kiến, bày tỏ nhận thức, đánh giá và thái độ của người viết về một vấn đề nào đó bằng
những luận điểm, lí lẽ và dẫn chứng cụ thể.
* Văn nghị luận có những đặc điểm nổi bật như: tính trí tuệ, tính biện luận, tính
thuyết phục. Trong đó, tính trí tuệ thể hiện ở lí lẽ sâu sắc; tính biện luận thể hiện ở kĩ
năng vận dụng các thao tác lập luận như giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh,
bình luận, bác bỏ,… đề làm rõ các khía cạnh của vấn đề; tính thuyết phục ở khả năng
làm cho người đọc hiểu và tin vào quan điểm, hướng nghị luận của người viết bằng
sức mạnh của tư tưởng, lí lẽ, phương pháp luận giải và bằng tình cảm chân thành, say
mê chân lí.
I.2. Khái luận về văn nghị luận xã hội
* Khái niệm: Nghị luận xã hội là bàn bạc, bày tỏ suy nghĩ, nhận thức của người
viết về một vấn đề tư tưởng đạo lí hoặc hiện tượng phổ biến đang diễn ra trong đời
sống xã hội. Yêu cầu khả năng tư duy độc lập, tự chủ, óc sáng tạo và chủ động lựa
chọn nội dung cũng như cách trình bày về một vấn đề xã hội. Để làm tốt bài văn, đoạn
văn NLXH, về cơ bản cần có kiến thức và kĩ năng.
* Yêu cầu chung khi làm bài văn, đoạn văn NLXH:
- Về nội dung: người viết phải phát biểu được, nêu ra được những suy nghĩ, quan
điểm, nhận thức của mình về một vấn đề xã hội mà đề bài yêu cầu; thấy được ý nghĩa
thiết thực của vấn đề đó đối với bản thân mình, với thế hệ trẻ và với cả xã hội.Tùy
từng đề bài cụ thể mà huy động những dẫn chứng thích hợp để minh họa cho những
kiến giải của mình.
- Về cách thức làm bài, người viết phải vận dụng các thao tác lập luận đã học để
giải thích, phân tích và bình luận vấn đề, làm cho vấn đề được nhìn nhận dưới các góc
độ khác nhau; hành văn ngắn gọn, chắc chắn. Sức hấp dẫn của bài văn chủ yếu là
những lí lẽ sắc sảo, được trình bày một cách rõ ràng, khúc chiết.
Bên cạnh đó, để tư tưởng bài văn, đoạn văn và hướng nghị luận được đúng đắn
thì người viết cần trang bị cho mình một thế giới quan, nhân sinh quan, một lí tưởng
sống đúng đắn. Bởi NLXH không chỉ hấp dẫn ở những luận điểm sâu sắc, mới mẻ, độc
đáo mà còn hấp dẫn người đọc ở chính thái độ, tình cảm và nhiệt tình của người viết.
I.3. Đoạn văn
* Khái niệm: Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chữ viết
hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương
đối hoàn chỉnh.
* Đặc điểm của đoạn văn:
- Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành; trong đó có câu mở đoạn (câu có
nhiệm vụ giới thiệu đối tượng, vấn đề được bàn đến trong đoạn văn); các câu khai triển
(thuyết minh, mở rộng cho câu chủ đề) và câu kết (có nhiệm vụ báo hiệu đoạn văn kết
thúc, lưu ý người đọc những điểm chính của đoạn văn và có thể chuẩn bị cho đoạn văn
tiếp theo).
- Mỗi đoạn văn có một kiểu cấu trúc nhất định. Kiểu cấu trúc của đoạn văn thể
hiện cách thức, phương hướng phát triển chủ đề và hướng lập luận của đoạn.
Trong đó, có các kiểu cấu trúc đoạn văn thường thấy như sau
+ Đoạn có cấu trúc diễn dịch: Là đoạn văn trong đó có câu chủ đề (câu mang ý
khái quát của toàn đoạn) nằm ở vị trí đầu đoạn, các câu còn lại triển khai và cụ thể hóa
cho câu chủ đề.
+ Đoạn có cấu trúc quy nạp: Là đoạn văn có câu chủ đề ở vị trí cuối đoạn như là
một sự đúc kết lại nội dung của các câu đã trình bày trước nó.
+ Đoạn có cấu trúc tổng – phân – hợp: Là đoạn văn phối hợp của hai kiểu cấu
trúc diễn dịch và quy nạp. Câu đầu đoạn mang ý khái quát của toàn đoạn (thường được
gọi là câu mở đoạn). Các câu tiếp theo triển khai và cụ thể hóa cho câu mở đầu đoạn
(còn được gọi là câu thân đoạn). Câu cuối đoạn như một sự khái quát, đúc kết lại
những gì đã trình bày trong những câu đứng trước và có thể chuyển sang một ý mới
(được gọi là câu kết đoạn).
+ Đoạn có cấu trúc song hành: Là đoạn văn không có câu chủ đề. Mỗi câu trong
đoạn triển khai một hướng của chủ đề. Các câu có quan hệ ngang hàng, bình đẳng về
ngữ pháp.
+ Đoạn có cấu trúc móc xích: Là đoạn văn không có câu chủ đề; chủ đề đoạn được
triển khai theo hướng ý của câu sau kế tục ý của câu trước, cứ như thế cho đến hết
đoạn.
I.4. Đoạn văn nghị luận
* Khái niệm: Là đoạn văn thuộc bài văn nghị luận, trong đó người viết trình
bày một tư tưởng, một quan điểm về một vấn đề thuộc lĩnh vực văn học hoặc đời sống.
Hay nói cách khác, đoạn văn nghị luận là đoạn văn có nhiệm vụ làm sáng rõ một luận
điểm, từ đó thuyết phục người đọc, người nghe đồng tình với quan điểm của người
viết.
* Đoạn văn nghị luận cần sử dụng các thao tác lập luận: giải thích, chứng minh,
phân tích, so sánh, bình luận, bác bỏ (có thể sử dụng kết hợp tất cả hoặc một số thao
tác tùy thuộc yêu cầu của đề bài).
II. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ KHI VIẾT
ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CỦA HỌC SINH LỚP 12
II.1. Thực trạng
II.1.1. Thực tế yêu cầu trong đề thi THPT Quốc gia của Bộ GD- ĐT
Năm học 2016-2017, Bộ GD- ĐT tiếp tục đổi mới thi cử theo lộ trình đã đề ra. Với
môn Ngữ văn, có sự thay đổi về thời gian làm bài thi, kéo theo sự thay đổi về cấu trúc,
dung lượng đề thi. Thời gian làm bài từ 180 phút xuống 120 phút; đặc biệt ở phần
Làm văn, câu nghị luận xã hội từ yêu cầu viết bài văn nghị luận xã hội khoảng 600 chữ
(3,0 điểm) chuyển sang yêu cầu viết đoạn văn nghị luận xã hội khoảng 200 chữ (2,0
điểm), nội dung có sự tích hợp kiến thức với phần Đọc hiểu theo hướng vận dụng cao.
Thực tế này đã khiến cho giáo viên, học sinh không khỏi lo lắng và lúng túng để tìm
ra giải pháp đáp ứng được yêu cầu tốt nhất khi viết đoạn văn nghị luận xã hội. Vì các
em đã quen với cách viết một bài văn nghị luận xã hội, hơn nữa trong chương trình
giảng dạy SGK cũng chỉ có hai bài học Nghị luận về tư tưởng đạo lí và Nghị luận về
một hiện tượng đời sống. Vậy, Với dung lượng, thời lượng có hạn định, làm sao đoạn
văn vừa có thể đảm bảo đủ nội dung vừa lập luận chặt chẽ, thuyết phục?
II.1.2. Thực trạng giảng dạy của giáo viên
Có thể khẳng định, nhiều giáo viên Ngữ văn rất tâm huyết với nghề, đã chú
trọng đến việc đổi mới phương pháp giảng dạy, chú trọng kết hợp cung cấp lí thuyết
với rèn kĩ năng thực hành cho học sinh.
Song bên cạnh đó, phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, một số giáo viên vẫn chưa
quan tâm một cách thỏa đáng đến vấn đề rèn kĩ năng làm văn nói chung, rèn kĩ năng
viết đoạn văn nghị luận xã hội nói riêng cho học sinh. Tiết dạy của giáo viên vẫn còn
nặng về lí thuyết, còn thả lỏng cho học sinh tự phát huy; hoặc có hướng dẫn cũng chỉ
chung chung, chưa cụ thể,...
II.1.3. Thực trạng viết đoạn văn nghị luận xã hội của học sinh
Về ưu điểm: Trong quá trình giảng dạy, chấm chữa bài, tôi nhận thấy có
những học sinh đã biết cách viết đoạn văn nghị luận xã hội. Các em biết xác định hình
thức yêu cầu của một đoạn văn, nêu và triển khai phân tích, lập luận vấn đề trọng tâm
chặt chẽ. Đặc biệt, các em có hứng thú, nhiệt tình trong bày tỏ quan điểm cá nhân. Tuy
nhiên, số học sinh đó không nhiều, đa phần là những em có học lực khá, giỏi môn
Văn.
Về hạn chế: Đa phần học sinh không biết viết đoạn văn nghị luận xã hội. Thông
qua các bài kiểm tra có phần viết đoạn văn nghị luận xã hội, tôi thấy học sinh thường
mắc phải một số lỗi khi viết đoạn văn nghị luận xã hội như sau:
- Không xác định được vấn đề trọng tâm cần triển khai trong đoạn văn nên dẫn
đến đoạn văn thiếu trọng tâm, nội dung chưa đáp ứng yêu cầu của đề bài hoặc trình
bày vấn đề quá dài dòng, lan man.
- Không nắm chắc cấu trúc của 01 đoạn văn nên viết đoạn văn thiếu phần mở
đoạn và/hoặc phần kết đoạn.
- Viết đoạn văn rời rạc, thiếu liên kết giữa các câu trong đoạn.
- Lỗi về chính tả, ngữ pháp,...
Chẳng hạn, với đề bài: Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) bàn về vai trò
của gia đình, một học sinh đã viết như sau:
“Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha”
Gia đình là tập hợp những người cùng sống chung thành một đơn vị nhỏ nhất
trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống (1). Gia
đình có giá trị bền vững và vô cùng to lớn không bất cứ thứ gì trên đời này sánh được,
cũng như không có vật chất hay tinh thần nào có thể thay thế nổi (2). Gia đình luôn
luôn bên ta, dõi theo và ủng hộ những ước mơ nhỏ bé của ta (3). Lúc đang được vui
vẻ, hạnh phúc bên gia đình thì phải biết trân trọng và giữ lấy chứ đừng để lúc không
còn nữa thì hối tiếc, lúc đó đã muộn rồi (4). Bên cạnh đó, gia đình còn là cái nôi nuôi
dưỡng, chở che ta khôn lớn, là cái nôi hạnh phúc của con người từ bao thế hệ, đùm
bọc, cưu mang, nâng đỡ, giúp ta vượt qua những khó khăn trở ngại trong cuộc sống
(5)...
(Bài làm của học sinh)
Ở ví dụ trên, khoan hãy bàn về lỗi dùng từ, diễn đạt; chúng ta thấy đoạn văn
mắc phải lỗi lớn nhất là thiếu liên kết giữa các câu trong đoạn. Cụ thể, câu (1) - định
nghĩa gia đình; câu (2),(3) – bàn về vai trò của gia đình; câu (4) – liên hệ về trách
nhiệm, thái độ đối với gia đình; câu (5) – bàn về vai trò của gia đình...
Hoặc, với đề bài: Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ
của anh/chị về ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: “Leo lên đỉnh cao
là để các em có thể nhìn ngắm thế giới chứ không phải để thế giới nhận ra các em”,
một học sinh đã viết như sau:
Đỉnh cao hay thành công là những thứ con người mơ ước đạt được. Vậy có bao
giờ bạn tự hỏi: “Đạt được đỉnh cao để làm gì?” Trong bài phát biểu tại buổi lễ tốt
nghiệp trường trung học Wellesley, thầy Hiệu trưởng David McCullough đã từng nói:
“Leo lên đỉnh cao là để các em nhìn ngắm thế giới chứ không phải để thế giới nhận ra
các em”. Vậy đâu mới là ý nghĩa thật sự của thành công.
Thành công đến không phải dựa vào may mắn, thành công đến nhờ sự nỗ lực
hết mình. Đứng ở đỉnh cao không phải là để thế giới tôn vinh, hô hào hay ngưỡng mộ
mà chỉ đơn giản là nhìn lại thế giới.
Thành công hay đỉnh cao theo tôi nó cũng chả mấy xa vời. Một cậu bé sinh ra
bị liệt ở chân với ước mơ trở thành một vận động viên cử tạ chuyên nghiệp sau này khi
lớn lên cậu trở thành thành viên dự bị của đội cử tạ tỉnh thi đấu. Đó phải chăng là
thành công, là một thành công lớn không ai công nhận, không được thế giới biết đến
nhưng nhìn lại đó là một thành công lớn đối với cậu. Thành công không phải là con
điểm mười tròn trĩnh nó là những sai lầm khi ta biết sửa chữa để đạt lấy sự hoàn
thiện.
Thành công phải chăng là con dao hai lưỡi. Đứng ở đỉnh cao một là chúng ta
hoặc rớt xuống hoặc đứng vững. Khi con người ta quá tự phụ vào thành công, xem
mình là tâm điểm, là quan trọng, là ông hoàng họ sẽ mất tất cả không chỉ vậy họ sẽ rơi
xuống vực thẳm kéo theo đó là những tàn lụy. Xã hội sẽ chẳng phát triển nổi nếu ai
cũng như vậy. Khi con người biết đem thành công của mình vào sự phát triển chung
của xã hội, con người sẽ phát hiện ra sự thật vĩ đại đó là sự sẻ chia mới là điều tốt đẹp
nhất mà chúng ta làm cho bản thân.
Thành công hay đỉnh cao là do con người ta nhìn nhận mà thôi hãy nhìn ngắm
thế giới khi đạt được thành công ta sẽ thấy thế giới tươi đẹp biết bao.
(Bài làm của học sinh)
Ở bài làm này, học sinh đã không đảm bảo yêu cầu của đề ra (viết 01 đoạn văn)
mà đã tiến hành viết thành một bài văn với 05 đoạn. Và bài viết còn rất lan man, thiếu
trọng tâm; cũng chưa đảm bảo các bước cần thiết.
Ví dụ, với đề bài: Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ
của anh/chị về việc lãng phí thời gian của một bộ phận giới trẻ hiện nay; một học sinh
đã viết:
Giới trẻ hiện nay sa đà vào chơi game, lướt phây, mà ít dành thời gian để học
tập, lao động. Điều đó đem lại hậu quả vô cùng lớn lao, làm cho gia đình đi xuống, xã
hội lại còn không phát triển. Giới trẻ chỉ biết nghĩ đến bản thân, ích kỉ, không biết lo
lắng cho ai cả. Cho nên, xã hội và gia đình phải xem lại cách giáo dục đối với giới trẻ.
(Bài làm của học sinh)
Đây quả thực không phải là một đoạn văn đúng nghĩa; thiếu phần mở đầu và
thiếu cả phần kết đoạn; phần thân đoạn lại vô cùng sơ sài, dung lượng chưa đáp ứng
yêu cầu của đề bài (quá ngắn).
Trên đây chỉ là một vài ví dụ minh chứng cho những lỗi mà học sinh thường
mắc phải khi viết đoạn văn nghị luận xã hội; còn những lỗi thuộc về dùng từ, viết
câu,...tôi không thể liệt kê hết ở đây.
Vậy nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên là gì?
II.2. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế khi viết đoạn văn nghị luận xã hội của
học sinh THPT
Những hạn chế của học sinh khi viết đoạn văn nghị luận xã hội xuất phát từ
nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có những nguyên nhân chính sau đây:
II.2.1. Về phía chương trình dạy học môn Ngữ văn
Chúng ta vẫn biết, học luôn đi đôi với hành. Điều đó càng có ý nghĩa đối với bộ
môn Ngữ văn. Nhưng, trong chương trình dạy học môn Ngữ văn, thời lượng dành cho
phần luyện tập chưa nhiều, nhất là thời lượng dành cho luyện tập viết đoạn văn, đặc
biệt là đoạn văn nghị luận.
Ở chương trình THCS, có 01 tiết Luyện tập viết đoạn văn chứng minh (chương
trình lớp 7, tập 2); có 01 tiết Xây dựng đoạn văn trong văn bản; 01 tiết Liên kết các
đoạn văn trong văn bản (chương trình lớp 8, tập 1); có 02 tiết Liên kết câu và liên kết
đoạn văn (chương trình lớp 9, tập 2).
Ở chương trình THPT, có 01 tiết Luyện tập viết đoạn văn nghị luận (chương
trình lớp 10, kì 2).
Riêng đối với kiểu bài văn nghị luận xã hội, chương trình sách giáo khoa chỉ
dừng lại ở các tiết cung cấp lí thuyết kèm thực hành trọn vẹn một bài văn. Thực sự
chưa có bất kì tiết học nào chỉ dành riêng cho rèn kĩ năng viết 01 đoạn văn nghị luận
xã hội.
II.2.2. Về phía giáo viên
Hạn chế trong viết đoạn văn nghị luận xã hội còn xuất phát từ phương pháp dạy
học của giáo viên. Một số giáo viên hiện nay chủ yếu tập trung vào việc cung cấp kiến
thức về mặt lý thuyết, ít chú ý rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh. Hoặc nếu có
dành thời gian thực hành thì giáo viên cũng chủ yếu tập trung hướng dẫn việc phân
tích đề, lập dàn ý, xây dựng hệ thống luận điểm...mà chưa dành thời gian thích đáng để
hình thành kỹ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh. Vì vậy, một tiết học
trên lớp, học sinh ít có cơ hội rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội của
mình.
II.2.3. Về phía học sinh
Đây là những nguyên nhân chủ yếu và căn bản nhất dẫn đến những hạn chế của
học sinh khi viết đoạn văn nghị luận xã hội
- Học sinh không nắm vững lý thuyết viết đoạn văn và đoạn văn nghị luận nói
chung.
- Khi làm bài, học sinh có thói quen chủ quan, không thực hiện thao tác phân
tích đề. Từ đó, dẫn đến nhiều đoạn văn nghị luận xã hội không xác định đúng yêu cầu
của đề, không xác định được phạm vi đề đặt ra.
- Học sinh không chịu khó rèn luyện kĩ năng thực hành trong quá trình học. Học
sinh phần lớn chỉ chờ giáo viên hướng dẫn gì thì ghi lấy, không có ý thức tự mày mò,
tìm kiếm. Chính vì vậy, nhiều học sinh phải phụ thuộc cách viết của giáo viên hoặc
viết theo các bài văn mẫu của sách tham khảo.
- Đặc biệt, tình trạng học sinh phụ thuộc vào các bài viết trên mạng, tìm và chép
lại một cách máy móc, trong khi đó rất nhiều bài viết có nội dung chưa được kiểm
định chất lượng. Điều này dẫn đến tình trạng các em bị “nhiễu” thông tin, ôm đồm
kiến thức, bài văn lan man, không rõ trọng tâm, thiếu cảm xúc.
- Do tuổi đời của học sinh còn ít, chưa trải nghiệm cuộc sống nhiều nên nhận
thức và sự đánh giá nhìn nhận vấn đề xã hội của các em còn hạn chế, chưa toàn diện,
chưa sâu.
III. GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG HẠN CHẾ KHI VIẾT ĐOẠN VĂN
NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CỦA HỌC SINH LỚP 12.
III.1. Về xây dựng chương trình dạy học
Vào đầu mỗi năm học, Tổ Ngữ văn chúng tôi xây dựng kế hoạch dạy học,
PPCT theo quy định của Bộ GD- ĐT, xây dựng chương trình dạy tiết Tự chọn đối với
môn Ngữ văn ở các khối lớp 10, 11, 12. Đối với tiết Tự chọn lớp 12, chúng tôi xây
dựng các chuyên đề bám sát, trong đó dành riêng một chuyên đề Rèn kĩ năng viết
đoạn văn nghị luận xã hội, với thời lượng 5/25 tiết học. Đồng thời, trong các tiết ôn
thi THPT Quốc gia do nhà trường tổ chức, chúng tôi tiếp tục dành thêm 8/50 tiết học
để luyện viết đoạn văn nghị luận xã hội cho các em. Điều này giúp giáo viên có thời
gian để hướng dẫn, rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh. Học sinh có cơ hội học tập,
rèn luyện nhiều hơn về kiến thức cũng như kĩ năng thực hành.
III.2. Định hướng cho học sinh tham khảo Nguồn học liệu mở
Nguồn học liệu mở có vai trò hữu ích đối với cả giáo viên và học sinh. Đây là
nguồn cung cấp tài liệu phong phú, đầy đủ phục vụ công tác giảng dạy cho giáo viên,
hỗ trợ nâng cao chất lượng học tập cho học sinh. Ngoài ra, có một số trang Web còn
cung cấp dịch vụ trao đổi thông tin giúp người học thuận lợi trong quá trình tiếp thu
kiến thức. Qua thực tế tìm hiểu, tôi đã định hướng cho học sinh tham khảo kiến thức
Học văn- Văn học, Trang Văn học và những cảm nhận, những bài viết hay của học
sinh qua các khóa học của trường.
III.3. Về phía học sinh
Các em cần nâng cao ý thức học tập các môn văn hóa nói chung, môn Ngữ văn
nói riêng. Đồng thời, các em phải thay đổi phương pháp học tập, tự trau dồi kiến thức,
tích lũy vốn sống. Sau các bài học lí thuyết, các em phải tăng cường khả năng thực
hành. Xây dựng thói quen phân tích đề, tìm ý trước khi làm bài. Hơn nữa phải cố gắng
suy nghĩ tìm tòi, lựa chọn từ ngữ diễn đạt, hình thức trình bày bài văn sao cho đúng
yêu cầu của đề và đạt hiệu quả tốt nhất.
III.4. Về phía giáo viên
Xuất phát từ thực trạng và phân tích những nguyên nhân trên, tôi đã áp dụng
đồng bộ nhiều giải pháp nhằm khắc phục các hạn chế, góp phần nâng cao hiệu quả của
việc dạy học môn Ngữ văn. Cụ thể như sau:
- Trong quá trình giảng dạy, chúng tôi đã tích cực đổi mới phương pháp, lấy
học sinh làm trung tâm; Lồng ghép hài hòa giữa lí thuyết và thực hành, từ đó hình
thành kĩ năng thực hành cho học sinh.
- Giao bài tập cho học sinh về nhà làm và nộp lại, chấm chữa, lấy điểm kiểm tra
thường xuyên cho học sinh.
- Riêng đối với học sinh lớp 12, khi kì thi THPT Quốc gia đang đến gần, chúng
tôi nỗ lực ôn tập cho học sinh. Trong các tiết ôn tập kiến thức các môn thi do Nhà
trường tổ chức, chúng tôi bám vào cấu trúc đề thi minh họa của Bộ Giáo dục và đào
tạo để cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng cho học sinh.
- Tổ chức cho học sinh thi thử theo đơn vị lớp và theo cấp trường.
Đặc biệt, đối với việc rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội, chúng tôi
có những giải pháp thiết thực riêng.
III.4.1. Ôn tập lý thuyết
a. Các dạng bài nghị luận xã hội thường gặp
Có hai dạng bài nghị luận xã hội thường gặp: Nghị luận về một tư tưởng đạo lý
và nghị luận về một hiện tượng đời sống. Trong phạm vi trường THPT thường yêu cầu
nghị luận về những vấn đề như sau:
- Nghị luận về một tư tưởng đạo lý là dạng nghị luận kết hợp các thao tác lập
luận để làm sáng tỏ vấn đề tư tưởng đạo lý trong đời sống. Cụ thể:
+ Nghị luận về quan điểm đạo đức, lối sống, lí tưởng sống
+ Nghị luận về một quan điểm về văn hóa, giáo dục; về phương pháp tư tưởng
+ Nghị luận về các mối quan hệ trong gia đình, ngoài xã hội: tình mẫu tử, tình
anh em; tình yêu tình bạn, tình thầy trò, tình đồng bào,...
- Nghị luận về một hiện tượng đời sống là bài nghị luận có sử dụng các thao tác
lập luận để bàn luận về các hiện tượng đời sống có ý nghĩa xã hội. Cụ thể:
+ Đất nước đổi mới, hội nhập và giao lưu văn hóa
+ Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội
+ Các vấn đề về sức khỏe, dịch bệnh
+ Sự việc, hiện tượng tích cực đáng biểu dương hoặc tiêu cực đáng lên án, phê
phán.
b.
Những yêu cầu khi viết đoạn văn nghị luận xã hội
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức và nội dung của một đoạn văn nghị luận nói
chung (như đã đề cập ở trên).
- Đảm bảo về kiến thức mang màu sắc chính trị - xã hội: những hiểu biết về
chính trị - pháp luật; những kiến thức cơ bản về truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức,
tâm lý – xã hội; những tin tức thời sự cập nhật…
- Đảm bảo mục đích, tư tưởng đúng đắn: phải xuất phát từ một lập trường tư
tưởng tiến bộ, cao đẹp, vì con người, vì sự tiến bộ chung của toàn xã hội… để bàn bạc,
phân tích, khen chê và đề xuất ý kiến.
- Đảm bảo ngắn gọn, mạch lạc, dung lượng đúng yêu cầu của đề bài (200 chữ
tương đương với 2/3 tờ giấy thi, khoảng 17 – 20 dòng viết).
III.4.2. Hướng dẫn học sinh cách làm bài
a. Hướng dẫn học sinh nắm vững các bước viết đoạn văn nghị luận xã hội
* Bước 1. Đọc kĩ đề bài và xác định yêu cầu của đề.
Đây là bước đầu tiên, rất quan trọng. Ở bước này, giáo viên cần hướng dẫn học
sinh xác định được các yêu cầu sau
- Vấn đề trọng tâm cần nghị luận trong đoạn; vấn đề đó thuộc về tư tưởng đạo lí
hay hiện tượng đời sống.
- Thao tác lập luận cần sử dụng trong đoạn.
* Bước 2. Xây dựng phần mở đoạn
Phần mở đoạn có thể dùng 1-3 câu để mở đoạn (giống như phần mở bài vậy).
Phần này phải có cái nhìn tổng quát, khái quát được vấn đề trọng tâm mà đề bài yêu
cầu.
* Bước 3. Xây dựng phần thân đoạn
Giáo viên hướng dẫn học sinh xây dựng thân đoạn theo mô hình cụ thể, sáng
rõ; phù hợp với từng dạng nghị luận xã hội.
Đối với vấn đề tư tưởng đạo lí
+ Giải thích ngắn gọn tư tưởng đạo lí: giải thích những từ ngữ quan trọng và
khái quát nội dung của ý kiến.
+ Phân tích, bàn luận ý nghĩa của tư tưởng đạo lí
+ Rút ra bài học nhận thức và hành động
Đối với hiện tượng đời sống
+ Giải thích và nêu hiện tượng (đó là hiện tượng gì? biểu hiện? mức độ?).
+ Phân tích, bàn luận về tác dụng/ tác hại, nguyên nhân của hiện tượng trên; đề
xuất giải pháp
+ Rút ra bài học nhận thức và hành động
* Bước 4. Viết phần kết đoạn
- Nêu ý nghĩa, đưa ra lời đề nghị một cách ngắn gọn.
- Viết kết đoạn thường kết lại bằng một danh ngôn hay câu nói nổi tiếng.
III.4.3. Hướng dẫn học sinh luyện tập trên lớp và về nhà
- Giáo viên lựa chọn đề bài thích hợp (chọn đề bài từ đơn giản đến phức tạp,
thuộc nhiều dạng kiểu phong phú, trong những bộ đề thi mà Bộ giáo dục – đào tạo đã
soạn thảo; gần gũi với tư tưởng, nhận thức của học sinh; đồng thời sắp xếp các đề bài
theo từng chủ đề nhất định;...); yêu cầu học sinh lập dàn ý tại lớp; giáo viên nhận xét,
cung cấp dàn ý tham khảo.
- Giáo viên yêu cầu học sinh về nhà viết thành đoạn, nộp lại; giáo viên chấm, có
sửa lỗi.
IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Từ năm học 2017- 2018, 2018- 2019 áp dụng các giải pháp rèn luyện kĩ năng viết đoạn
văn nghị luận xã hội vào thực tế giảng dạy học sinh, kết quả khảo sátnhư sau:
* Trước khi áp dụng SKKN:
Năm học 2017-2018
Lớp
12A6
12B4
Sĩ số HS
Giỏi
27,83%
12,8%
Khá
41,67%
35,9%
Trung bình
30,5%
Yếu
0%
17,9%
36
39
33,4%
Năm học 2018-2019
Lớp
12A3
12B1
Sĩ số HS
Giỏi
20,0%
8,3%
Khá
42,5%
33,3%
Trung bình
25,0%
Yếu
12,5%
22,3%
40
36
36,1%
* Sau khi áp dụng SKKN:
Năm học 2017-2018
Lớp
12A6
12B4
Sĩ số
36
39
Giỏi
44,4%
20,5%
Khá
50,0%
48,7%
Trung bình
5,6%
Yếu
0%
5,1%
25,7%
Năm học 2018-2019
Lớp
12A3
12B1
Sĩ số
40
36
Giỏi
30,0%
19,4%
Khá
52,5%
52,8%
Trung bình
17,5%
Yếu
0%
5,6%
22,2%
Từ bảng so sánh kết quả trước và sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm ở các
lớp tôi giảng dạy qua hai năm học 2017-2018, 2018-2019, tôi thấy học sinh đã biết
cách viết đoạn văn nghị luận xã hội đáp ứng được yêu cầu kiến thức, kĩ năng theo đổi
mới đề thi của Bộ GD- ĐT.
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_ren_ki_nang_viet_doan_van_nghi_luan.doc