SKKN Một số kinh nghiệm nhỏ trong phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi ngữ văn THCS trên địa bàn huyện Nghĩa Đàn
Trong hệ thống chương trình giáo dục, môn Ngữ văn có một vị trí hết sức quan trọng. Trước hết, Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Môn Ngữ văn còn là một môn học công cụ, góp phần hình thành những con người có trình độ học vấn ngày càng cao. Đồng thời góp phần xây dựng nhân cách cho học sinh, những công dân trẻ có lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc sâu sắc, có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương, quí trọng gia đình, bạn bè, biết hướng tới những tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, sự căm ghét cái ác, cái xấu. Môn Ngữ văn cũng giúp cho học sinh biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực thực hành và sử dụng tiếng Việt như một công cụ để tư duy, giao tiếp. Nói như Maxim Gorki: “Văn học là nhân học”.
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM NHỎ TRONG PHÁT HIỆN VÀ BỒI DƯỠNG
HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN THCS TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NGHĨA ĐÀN
PHẦN A: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong hệ thống chương trình giáo dục, môn Ngữ văn có một vị trí hết sức
quan trọng. Trước hết, Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội có
tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh.
Môn Ngữ văn còn là một môn học công cụ, góp phần hình thành những con người
có trình độ học vấn ngày càng cao. Đồng thời góp phần xây dựng nhân cách cho
học sinh, những công dân trẻ có lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc sâu sắc, có ý
thức tự tu dưỡng, biết yêu thương, quí trọng gia đình, bạn bè, biết hướng tới những
tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, sự
căm ghét cái ác, cái xấu. Môn Ngữ văn cũng giúp cho học sinh biết rèn luyện để có
tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực thực hành và sử dụng tiếng
Việt như một công cụ để tư duy, giao tiếp. Nói như Maxim Gorki: “Văn học là
nhân học”.
Qua giờ học Văn được tiếp xúc với các tác phẩm văn chương học sinh cảm
thụ những vẻ đẹp muôn màu của cuộc sống. Hướng các em tới đỉnh cao của chân,
thiện, mĩ. Đối với những học sinh có khả năng cảm thụ tốt các tác phẩm văn
chương. Thì việc phát hiện và giúp các em phát triển về khả năng của mình trong
lĩnh vực văn chương không những là một việc làm cần thiết và đúng đắn mà còn là
một công việc mang tầm quan trọng trong việc đánh giá chất lượng dạy và học của
giáo viên và học sinh trong nhà trường phổ thông. Do đó việc tìm kiếm những giải
pháp để làm tốt công việc này đang là những điều trăn trở của các cấp lao động
ngành giáo dục cũng như của giáo viên đứng lớp hiện nay.
Nhiệm vụ của người giáo viên dạy văn là phải làm cho học sinh hiểu được
cái hay cái đẹp cuả văn học, kích thích sự hứng thú học tập học văn cho học sinh.
Một giờ dạy văn là phải tạo ra được những rung động thẩm mỹ, sâu sắc khiến
người ta say mê. Song nhiệm vụ không kém phần quan trọng của giáo viên dạy văn
ở trường THCS là rèn luyện kỹ năng văn học cho học sinh. Thực ra không phải từ
khi đến trường các em mới có cảm xúc thẩm mỹ, mới có năng lực cảm thụ cái đẹp.
Ngay từ thưở còn nằm trong nôi qua lời ru của bà, của mẹ, lớn lên nghe hát, nghe
ngâm thơ... Qua các nghệ thuật ấy các em đã tiếp xúc với văn chương. Vì thế đến
trường thông qua học tác phẩm văn chương những cảm xúc thẩm mỹ của các em
phải được uốn nắn, sửa chữa và bồi dưỡng, nâng lên thành năng lực cảm thụ thẩm
mỹ đúng đắn. Điều đó muốn khẳng định rằng bồi dưỡng học sinh THCS không
1
những là việc làm đúng đắn mà còn là công việc có tầm quan trọng trong nhà
trường phổ thông. Nó góp phần phát hiện bồi dưỡng để tiến tới đào tạo một phẩm
chất, một lực lượng lao động đặc biệt của xã hội, lao động sáng tạo nghệ thuật. Nó
kích thích cổ vũ mạnh mẽ ý thức tự giác, lòng say mê và ý chí vươn lên trong học
tập, tu dưỡng của học sinh nói chung . Nó còn là một việc làm thiết thực góp phần
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên .
Một lí do để tôi chọn đề tài này là trong những năm liên tục trở về đây. Tôi
đã được BGH trường THCS Nghĩa Hội và phòng Giáo dục Nghĩa Đàn giao cho
nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ Văn. Mặc dù kết quả chưa cao nhưng
dù sao đó cũng là một trong những thành công bước đầu của tôi trong việc tìm tòi
áp dụng những biện pháp hình thức bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ Văn . Chính
vì vậy tôi đưa ra vấn đề này để các đồng nghiệp có thể tham khảo. Hy vọng rằng
những kinh nghiệm nhỏ này giúp anh chị đồng nghiệp tháo gỡ những vướng mắc
trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ Văn bậc THCS.
II. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
1. Mục đích nghiên cứu:
- Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một công tác rất khó khăn và phức tạp.
Vì vậy, tôi nghiên cứu đề tài này với mục đích tìm ra những giải pháp, hình thức
bồi dưỡng nhằm đạt hiệu quả cao. Đồng thời còn nâng cao chất lượng giảng dạy,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên. Làm tốt công tác này, sẽ kích thích
mạnh mẽ ý thức tự giác, lòng say mê và ý chí vươn lên trong học tập, tu dưỡng của
học sinh nói chung.
- Nhận thấy rõ tầm quan trọng của việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi
Ngữ văn, tôi vận dụng một số kinh nghiệm của bản thân trong quá trình giảng dạy
để phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn.
- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả giảng dạy và
rèn luyện thêm kiến thức, kỹ năng cho giáo viên; Cũng như góp phần tạo hướng thú
môn học, khắc sâu kiến thức, phát huy tính tự giác, độc lập và sáng tạo của học sinh.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh giỏi ngữ văn khối THCS
3. Nhiệm vụ nghiên cứu :
Đề tài này có ba nhiệm vụ sau :
- Tìm hiểu ý nghĩa, tầm quan trọng và những nguyên tắc của việc bồi dưỡng
học sinh giỏi .
- Tình hình bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THCS .
- Một số biện pháp và hình thức tổ chức .
2
4. Phạm vi nghiên cứu :
* Bồi dưỡng học sinh giỏi là một việc làm cần thiết đối với tất cả các khối
lớp, các môn học trong nhà trường THCS , ở đây tôi chỉ nghiên cứu trong phạm vi
hẹp. Đó là bàn về một số biện pháp, hình thức bồi dưỡng học sinh giỏi, cụ thể là
bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ Văn trường THCS .
* Đối tượng bồi dưỡng ở đây không phải là học sinh lớp chuyên, trường
chuyên mà là học sinh ở các trường đại trà.
5. Phương pháp nghiên cứu :
Phương pháp chủ yếu khảo sát, nắm bắt tình hình thực tiễn và đúc rút kinh
nghiệm thực tiễn giảng dạy hàng năm để tìm ra giải pháp chung .
3
PHẦN B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
1. Bản chất môn Văn và việc dạy học văn
Trước hết, cần xác định môn Văn là môn học kiến thức đồng thời cũng là
môn học nghệ thuật. Đã là môn học thì môn nào cũng phải cung cấp kiến thức cho
học sinh, nhưng xét về bản chất, môn Văn không đặt mục tiêu cung cấp kiến thức
là chủ yếu như các môn khác (Sử, Địa, Lý, Hóa, Sinh…) mà hướng tới mục tiêu
quan trọng nhất phải đạt được định hướng cho học sinh đến với Cái Đẹp, nhằm bồi
dưỡng năng lực thẩm mỹ, biết rung cảm trước Cái Đẹp cho thế hệ trẻ. Dạy Truyện
Kiều của Nguyễn Du, nếu chỉ cung cấp cho học sinh cốt truyện và cuộc đời của
nàng Kiều thì có khác gì dạy các bộ môn khác, nhưng khi làm cho các em rung
cảm được trước vẻ đẹp của nàng Kiều để cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp của người con
gái Việt Nam thì đó mới đích thực là dạy văn. Vì vậy, kiến thức ở đây sẽ làm nền
để từ đó Cái Đẹp sẽ được lóe sáng lên dưới sự dẫn dắt của giáo viên và sự khám
phá của học sinh. Ta có thể dễ dàng nhận ra sự khác nhau cơ bản giữa môn Văn và
các môn học khác: nếu các môn Sử, Địa, Lý, Hóa, Sinh… được viết ra bằng tư duy
khoa học thì tác phẩm văn chương lại được viết ra bằng tư duy nghệ thuật. Tư duy
khoa học bao giờ cũng cung cấp kiến thức cho người học, còn tư duy nghệ thuật thì
đem đến cho họ Cái Đẹp. Văn học ở ngoài đời thuộc lĩnh vực nghệ thuật thì môn
Văn trong nhà trường cũng là môn học nghệ thuật. Và giảng dạy - học tập môn
nghệ thuật không thể giống với các môn khoa học mà nó phải có con đường đi
riêng. Đó là con đường đi từ tâm hồn, trái tim người học để đến với Cái Đẹp Nghệ
Thuật, cũng chính là Cái Đẹp Của Cuộc Sống, Con Người. Mọi sự áp đặt, rập
khuôn, cảm nhận hộ, suy diễn, duy ý chí… đều xa lạ với con đường này khi nó
chưa làm cho người học mở lòng ra để tiếp nhận Cái Đẹp trong tác phẩm văn
chương. Người giáo viên phải biết cách giúp các em mở lòng ra để đến với Cái
Đẹp ấy: đó là thiên chức cao cả nhất và cũng là mục đích phải đạt được của việc
dạy Văn.
Nhưng Cái Đẹp trong văn học không dễ gì tìm thấy ngay, và càng khó hơn
khi phải dẫn dắt học sinh tìm đến, khám phá để cảm nhận được Cái Đẹp và chiếm
lĩnh nó. Cái Đẹp có khi lộ ra, nhưng nhiều khi lại được ẩn giấu trong hình tượng
bằng lời mà nhà văn đã nhào nặn, khái quát từ hiện thực phong phú, đa dạng của
cuộc sống. Bản thân văn học lại thường có tính đa nghĩa và tính mơ hồ. Vì vậy
phải có “con mắt tinh đời” thì mới phát hiện ra được Cái Đẹp trong tác phẩm văn
chương. Người giáo viên văn học dĩ nhiên là phải có năng lực phát hiện ấy, nhưng
quan trọng hơn là phải biết truyền cái năng lực ấy đến cho học sinh, tức là bồi
dưỡng năng lực thẩm mỹ và kỹ năng tìm đến Cái Đẹp của các em khi đọc tác
phẩm. Chúng ta đang chuyển từ việc dạy học chủ yếu là cung cấp kiến thức sang
4
hình thành và phát triển các năng lực cho học sinh thì ở đây chính là hình thành
năng lực thẩm mỹ, năng lực khám phá Cái Đẹp trong văn học. Như vậy, khi dạy
văn học như một bộ môn nghệ thuật, cùng một lúc, sẽ đạt được một kết quả kép:
vừa đem đến cho học sinh Cái Đẹp trong tác phẩm văn chương, lại bồi dưỡng được
năng lực thẩm mỹ cho các em - vốn là một năng lực cần thiết cho con người hiện
đại ngày nay. Và từ việc cảm nhận Cái Đẹp mà chính các em đã tự tìm đến sẽ kéo
theo nhiều tình cảm tốt đẹp khác một cách tự nhiên như yêu con người, yêu cuộc
sống, yêu nước, yêu các giá trị mà con người đã tạo ra…
Xác định môn Văn là môn học nghệ thuật là điều đặc biệt quan trọng, bởi nó
không chỉ trả lại cái bản chất vốn có của môn Văn mà còn định hướng đúng đắn
cho việc dạy và học Văn trong nhà trường. Từ việc xác định đó, người dạy sẽ tiếp
cận môn Văn bằng góc độ nghệ thuật và dẫn dắt người học đi tìm Cái Đẹp cũng
bằng con đường nghệ thuật để người học tự mở lòng ra đến với Cái Đẹp bằng trái
tim và tâm hồn của mình. Khi đó, giờ Văn sẽ tạo được một sự đồng cảm nghệ thuật
giữa thầy - trò - tác phẩm để có thể tạo ra sự đồng sáng tạo cùng tác giả. Trong
thực tế, nhiều giáo viên đã không làm được điều này, bởi không đi đúng con đường
này, mà nguyên nhân sâu xa là do họ chưa ý thức được rõ ràng để xác định môn
Văn là môn học nghệ thuật.
Thứ hai, môn Văn là môn học thực hành . Bất cứ môn học nào, bên cạnh việc
cung cấp kiến thức cũng đều có yêu cầu thực hành để củng cố và vận dụng kiến
thức đó. Môn Văn cũng vậy. Nhưng thực hành của nó lại có đặc điểm và ý nghĩa
riêng và đây chính là điều khác biệt giữa thực hành môn Văn và các môn khác.
Nếu các môn khác chỉ có yêu cầu thực hành tự thân của nó (nhằm củng cố và vận
dụng kiến thức đã học) thì môn Văn, bên cạnh yêu cầu thực hành tự thân ấy, còn
có thêm yêu cầu hỗ trợ cho các môn khác, nên đã được nâng lên một cấp độ cao
hơn để trở thành môn công cụ (cùng với Toán và Ngoại ngữ). Môn Văn không chỉ
đáp ứng yêu cầu về thực hành tự thân của nó là biết đọc hiểu các loại văn bản và
biết tạo lập các loại văn bản (nói và viết), mà còn là môn công cụ để hỗ trợ việc
diễn đạt được đúng và hay cho các môn khác, kể cả các môn khoa học xã hội như
Sử, Địa, Giáo dục công dân… hay các môn khoa học tự nhiên như Toán, Lý, Hóa,
Sinh (cũng như Toán là môn công cụ để hỗ trợ việc tính toán cho các môn học
khác và Ngoại ngữ là môn công cụ để qua đó có thể mở rộng thêm kiến thức cho
từng môn học). Môn văn sẽ giúp học sinh hình thành kỹ năng giao tiếp một cách
tốt nhất. Xác định môn Văn là môn công cụ là điều cần thiết để người giáo viên
quan tâm chú ý nhiều hơn đến khâu thực hành bởi đây không chỉ thực hành cho
riêng môn Văn mà còn có tác dụng đến các môn khác
Tóm lại, xét về bản chất môn Văn, ta thấy có hai đặc điểm: môn Văn vừa là
môn học nghệ thuật lại vừa là môn công cụ. Môn học nghệ thuật là môn học về Cái
Đẹp, nhằm đem đến Cái Đẹp cho học sinh để giáo dục óc thẩm mỹ và bồi dưỡng
5
năng lực thẩm mỹ cho các em. Nhưng từ Cái Đẹp đó, nó sẽ mang đến cho thế hệ
trẻ nhiều tố chất để làm người, hoàn thiện nhân cách: lòng yêu nước, thương dân,
vị tha, nhân ái, trung thực, dũng cảm… Từ trong Cái Đẹp đã chứa đựng biết bao tư
tưởng và tình cảm mà nhà văn muốn gửi tới người đọc. Cái Đẹp của văn chương
đã trở thành cái đẹp của con người và cuộc sống. Môn công cụ là môn học mang ý
nghĩa thực hành, mà ở đây chính là cách đọc hiểu văn bản, cách tạo lập văn bản,
cách diễn đạt sao cho đúng, cho hay (cả nói và viết). Nó phải trở thành mẫu mực,
phải nâng lên mức kỹ năng thuần thục để có thể hỗ trợ cho các môn khác một cách
dễ dàng, tự nhiên. Chức năng công cụ của môn Văn trong việc hỗ trợ cách diễn đạt
cho các môn khác là không thể thiếu được.
Với hai đặc điểm trên đây, môn Văn giữ một vị trí quan trọng đặc biệt trong
hệ thống các môn học ở trường phổ thông, kể cả về nội dung tiếp nhận cũng như
về thực hành kỹ năng. Môn Văn sẽ phát huy tiềm năng và tác dụng của nó trong
việc giáo dục tư tưởng, tình cảm và hình thành, phát triển năng lực văn học cho thế
hệ trẻ, trong đó đáng chú ý nhất là năng lực thẩm mỹ, biết phát hiện và khám phá
Cái Đẹp và năng lực biết đọc hiểu, biết tạo lập văn bản - những năng lực cần phải
có của con người trong cuộc sống hiện đại ngày nay.
2. Thế nào là học sinh giỏi văn?
HSG văn trước hết phải là những học sinh có niềm say mê yêu thích văn
chương. Sự say mê ấy phải được biểu hiện thường xuyên liên tục bằng sở thích
ham đọc sách báo, ý thức tự giác trong học tập như soạn bài cẩn thận chu đáo, khả
năng ghi nhớ và cảm thụ tốt các tác phẩm văn chương, luôn chủ động tiếp thu kiến
thức trong giờ học, đặc biệt phải thể hiện rõ ý thức trách nhiệm trong các bài làm
văn theo quy định của chương trình và những bài luyện tập thực hành rèn luyện kỹ
năng mà giáo viên hướng dẫn. Sự say mê sẽ giúp các em chịu khó tìm tài liệu để
mở mang kiến thức. Và quan trọng hơn là nó giúp học sinh phát huy được trí tưởng
tượng sự liên tưởng để sống sâu sắc hơn với những cái mình đã đọc đã học.
HSG văn là những học sinh có những tư chất bẩm sinh như tiếp thu nhanh
có tri nhớ bền vững có khả năng phát hiện vấn đề và có khả năng sáng tạo (có ý
tưởng mới trong bài làm).
HSG văn phải có vốn tri thức phong phú và hệ thống thuộc nhiều thơ văn
trong và ngoài chương trình qua sự tìm đọc tích luỹ; phải có sự hiểu biết càng
nhiều càng tốt về con người và xã hội.
Một trong những biểu hiện không thể thiếu và thường khó giấu của HSG
văn là rất giàu cảm xúc và thường nhạy cảm trước mọi vấn đề trước cuộc sống.
Biểu hiện thường thấy ở những học sinh này là dễ vui nhưng cũng rất dễ buồn
trước những vấn đề đặt ra trong tác phẩm và nhất là do sự tác động qua lời giảng
của giáo viên. Thường thì đây là những học sinh sống rất tình cảm thích gần gũi
6
với thầy cô bạn bè và với mọi người hay bộ lộ quan điểm tình cảm và chiều sâu
nội tâm của mình thông qua cách phát biểu trực tiếp hoặc gián tiếp qua các bài
viết. Sự nhạy cảm ở các em luôn gắn liền sự thông minh và theo tôi thì sự thông
minh của HSG văn là sự thông minh của cả khối óc lẫn con tim.
HSG văn còn là những học sinh thường rất ghi chép tất cả những vấn đề liên
quan đến văn học thông qua bài giảng của giáo viên hoặc qua các tài liệu tham
khảo.
HSG văn là những học sinh có vốn từ tiếng Việt khá dồi dào biết sử dụng
chính xác chúng trong những trường hợp khác nhau. Thường những em HSG văn
đều có khả năng diễn đạt mượt mà giàu cảm xúc giàu hình ảnh diễn đạt hàm súc và
có bản sắc riêng. Năng khiếu ở HSG văn thường đi kèm với các biểu hiện bên
ngoài như ánh mắt sáng cách nói lưu loát gãy gọn .
3. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc bồi dưỡng học sinh giỏi
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi sẽ góp phần quan trọng vào việc đổi mới
chương trình giáo dục THCS theo hướng dạy học phân hóa đáp ứng yêu cầu đổi
mới căn bản và toàn diện của nghành giáo dục trong hiện tại và tương lai.
Đối với học sinh bậc phổ thông nói chung và bậc THCS nói riêng, ở vào độ
tuổi này bản thân các em rất giàu cảm xúc và trí tưởng tượng vô cùng phong phú.
Việc cảm thụ và tiếp nhận vẻ đẹp muôn màu của cuộc sống trong đời sống hàng
ngày cũng như trong tác phẩm văn chương đang chuyển dần từ cảm tính sang lí
tính. Đây là giai đoạn để các em bộc lộ năng khiếu nghệ thuật nói chung và năng
khiếu văn chương nói riêng. Khi tiếp xúc với tác phẩm văn chương các em tự đặt
mình trong cảnh ngộ tâm trạng của nhân vật. Cùng vui buồn, sướng khổ với nhân
vật trong tác phẩm. Thế giới hình tượng và tiếng lòng của người nghệ sĩ giúp học
sinh mở rộng tâm hồn mình với thế giới xung quanh. Qua đó khơi dậy, khích lệ các
em phát triển từ năng khiếu cảm thụ văn chương đến năng khiếu sáng tạo nghệ
thuật. Hơn nữa, giúp các em có đời sống tinh thần phong phú hơn, sáng tạo hơn, có
tầm nhìn rộng mở hơn, yêu đời, yêu cuộc sống và tự tin hơn. Vì vậy công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi ở trường phổ thông là một việc làm đúng đắn và có tầm quan
trọng to lớn. Đó là một việc làm mang ý nghĩa xã hội nhằm phát hiện bồi dưỡng
nhân tài cho đất nước. Việc phát hiện và bồi dưỡng kịp thời những học sinh giỏi
có năng lực cảm thụ văn chương vừa thể hiện một cách sâu sắc tinh thần nhân văn
cao đẹp của xã hội vừa kích thích cổ vũ thái độ tinh thần học tập của học sinh
đồng thời trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi với những phát hiện sáng tạo và
sự thông minh của học sinh. Nó góp phần không nhỏ trong việc nâng cao ý thức
học hỏi, tìm tòi, đào sâu suy nghĩ của giáo viên về trình độ chuyên môn nghiệp vụ để
phục vụ tốt hơn cho công tác giảng dạy của mình. trong sáng và có năng khiếu học
văn. HSG văn thường là những học sinh nắm chắc các kỹ năng làm bài nghị luận.
7
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NGHĨA ĐÀN VỀ
VẤN ĐỀ PHÁT HIỆN HỌC SINH GIỎI, BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI
TRONG BỘ MÔN NGỮ VĂN VÀ MỘT SÓ ĐỀ XUẤT, GIẢI PHÁP.
1. Cơ sở thực tiễn trên địa bàn huyện Nghĩa Đàn về vấn đề phát hiện học
sinh giỏi, bồi dưỡng học sinh giỏi trong bộ môn Ngữ Văn và một số đề xuất,
giải pháp.
Dạy học phân hóa là một trong hai định hướng cơ bản của chương trình giáo
dục phổ thông theo hướng đổi mới. Để dạy học phân hóa được thực hiện một cách
có hiệu quả thì việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh năng khiếu là
một đòi hỏi quan trọng và cấp bách.
Trong những năm gần đây, các kì thi tuyển chọn học sinh giỏi huyện và học
sinh giỏi tỉnh chỉ được tổ chức với các khối lớp cuối cấp - Khối lớp 9. Mặc dù vậy
nhưng hầu như ở các trường phổ thông nói chung và cấp THCS nói riêng việc tổ
chức thi chọn học sinh giỏi vẫn được tiến hành ở các khối lớp. Phòng GD&ĐT
Nghĩa Đàn để hình thành cơ sở cho đội tuyển học sinh giỏi Ngữ văn lớp 9 tham gia
kỳ thi chọn học sinh giỏi tỉnh hàng năm đã tổ chức cuộc thi olimpic các môn học
dành cho các em khối 6, 7, 8. Riêng đối với trường THCS Nghĩa Hội công tác
phát hiện bồi dưỡng học sinh giỏi ở các khối lớp đặc biệt được cấp ủy cũng như
lãnh đạo nhà trường và đội ngũ giáo viên hết sức quan tâm. Nhằm phát hiện và tìm
nguồn nhân lực cho đội tuyển để định hướng bồi dưỡng một cách có hệ thống. Thế
nhưng một thực tế của trường THCS Nghĩa Hội nói riêng và các trường THCS
trong huyện Nghĩa Đàn nói chung cho thấy, hiện nay, nguồn lực học sinh giỏi rất
hạn chế về cả số lượng cũng như chất lượng. Bởi vì đối với môn Ngữ Văn hình
như các em ít quan tâm hơn những môn khoa học khác như: Toán, Lí, Hóa... Số
học sinh yêu thích môn Ngữ Văn còn quá ít. Trong quá trình công tác tại trường tôi
nhận thấy rằng học sinh khi học sinh có năng khiếu về môn Văn mà có khả năng
ở các môn học khác thì các em sẽ không chọn môn Văn. Ngược lại có những học
sinh yêu thích môn Văn thì năng lực cảm thụ văn chương lại hạn chế. Trong khi đó
việc nhận thức môn học chưa sâu sắc cho nên một số phụ huynh có con em học
được môn Văn lại không muốn cho con em mình tham gia đội tuyển. Và hơn nữa
việc bồi dưỡng nguồn lực học sinh giỏi ở những lớp dưới 6, 7, 8 không đồng đều ở
các môn học vì lí do các em có quyền tự do chọn môn thi cho nên rất khó khăn
trong việc bồi dưỡng. Một khó khăn nữa của giáo viên khi bồi dưỡng học sinh giỏi
môn Ngữ Văn đó là vấn đề tài liệu và nhất là phương pháp, hình thức bồi dưỡng
còn hạn chế. Kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi chưa có là bao mà những bài
việc về chuyên đề này còn quá ít. Chính từ những lí do này mà các giáo viên làm
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi rất lo lắng khi được phân công bồi dưỡng. Hơn
8
nữa đặc thù bồi dưỡng học sinh giỏi lại đòi hỏi ở giáo viên sự đầu tư về thời gian
và công sức rất nhiều. Giáo viên tự lên chương trình và đầu tư soạn giảng đã là một
việc làm khó khăn đối với giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi. Trong khi đó kinh
phí đầu tư cho công tác này lại không có, không tránh khỏi tình trạng giáo viên
được phân công tìm lí do để từ chối hoặc tham gia bồi dưỡng nhưng không đến nơi
đến chốn... Thực tế này đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng của đội ngũ học
sinh giỏi của trường nói chung và của môn Ngữ Văn nói riêng. Chính vì vậy, hiện
nay các cấp lãnh đạo và đội ngũ giáo viên trong nhà trường đang trăn trở tìm kiếm
những giải pháp tối ưu nhất để nâng cao chất lượng hiệu quả công tác với công tác
bồi dưỡng học sinh giỏi.
Một thực tế nữa mà phần nào đó cũng ảnh hưởng tới công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi, học sinh năng khiếu đó là kinh phí hỗ trợ dạy và chi thưởng cho công tác
này vô cùng hạn chế nên để giáo viên tâm huyết, trách nhiệm với công tác bồi
dưỡng còn gặp nhiều khó khăn.
Không những thế áp lực của việc bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh năng
khiếu còn nặng nề, giáo viên được phân công bồi dưỡng nếu không có học sinh đạt
học sinh giỏi cấp huyện, tỉnh thì sẽ ảnh hưởng tới kết quả thi đua của giáo viên vì
vậy nảy sinh tâm lý “Chọn giải pháp an toàn” tránh bị khiển trách, nhắc nhở.
Công việc bồi dưỡng học sinh giỏi là một công việc như nhiều người nói
“mò kim đáy bể”, nhiều khi cả giáo viên và học sinh đều còn lung túng. Học sinh
giỏi văn phải xác định cho tinh, nhân định cho trúng, lập luận phải chặt chẽ, lý lẽ
phải sắc bén.Thực tế trong quá trình bồi dưỡng tôi thấy nhiều khi các em còn mơ
hồ, làm bài dàn trải, còn mắc phải một số lỗi sơ đẳng như: dùng từ chưa chuẩn xác,
sai cú pháp, từ ngữ thiếu hình ảnh... Điều đó cũng là nguyên nhân khiến bài làm
của học sinh đạt kết quả không được như mong muốn. Vậy làm thế nào để những
giờ học bồi dưỡng học sinh giỏi đạt kết quả cao nhất ? Có lẽ đây là điều băn khoăn,
trăn trở không chỉ của riêng bản thân tôi mà còn là sự quan tâm của các thầy cô
giáo đã từng đảm đương trọng trách này.
2. Đề xuất một số giải pháp cụ thể để giải quyết vấn đề nói trên.
Trước thực trạng đã nêu ở trên-giáo viên làm công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi cần phải nắm được các nguyên tắc cơ bản, có những biện pháp cụ thể và hình
thức bồi dưỡng phù hợp thì việc bồi dưỡng mới có kết quả. Sau đây là những
phương pháp mà tôi đã thực hiện và đúc rút được qua từng năm học về công tác này.
a. Những yêu cầu có tính nguyên tắc đối với bồi dưỡng học sinh giỏi
Bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn phải gắn liền với GD đạo đức tư tưởng học
sinh. Học sinh giỏi văn phải là những học sinh có thái độ học tập nghiêm túc, chăm
chỉ, có tinh thần trách nhiệm, say mê môn học.
9
Bồi dưỡng học sinh giỏi là phải làm cho học sinh ý thức được ý nghĩa ý thức
được ý nghĩa tầm quan trọng của môn học đặt trong mối quan hệ biện chứng với
các môn học khác, đặc biệt việc học giỏi môn Ngữ văn còn góp phần vào việc
nâng cao kết quả kỳ thi tuyển vào lớp 10 hàng năm.
Bồi dưỡng học sinh giỏi phải liên tục và có tính hệ thống. Việc lựa chọn đội
tuyển học sinh giỏi văn phải được hình thành từ lớp 6, sau đó tiếp tục bồi dưỡng ở
lớp 7, 8, 9.
Bồi dưỡng học sinh giỏi là phát huy tối đa khả năng tích cực chủ động sáng
tạo của học sinh. Học sinh phải có ý thức tìm tòi, phát huy khả năng của bản thân
trong học tập học tập có như vậy viêc học mới có kết quả cao.
b. Một số hình thức và biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ Văn
b.1. Phát hiện học sinh giỏi.
Đây là khâu đầu tiên có tính chất quyết định chất lượng đội tuyển nên nó hết
sức quan trọng.Việc phát hiện học sinh giỏi môn Văn đòi hỏi người giáo viên phải
trực tiếp giảng dạy ở các lớp phải lưu tâm ngay từ đầu năm học chứ không phải
chờ đến gần kì thi mới tuyển chọn như chúng ta vẫn thường làm. Rõ ràng việc phát
hiện học sinh giỏi môn Ngữ Văn cũng không đến nỗi quá khó vì khả năng của các
em đối với môn học này được bộc lộ phần nào qua kĩ năng nghe, nói, đọc, việc.
Nói năng rành mạch, diễn đạt lưu loát những ý nghĩ, quan điểm bản thân, Hơn nữa
chỉ qua vài bài viết của các em dù đó là đoạn văn hay cả bài văn giáo viên cũng có
thể nhận ra cách cảm, cách hiểu, cách nghĩ thông qua đó phát hiện ra những học
sinh có năng khiếu để có hướng bồi dưỡng
Việc tiếp theo khi chọn đội tuyển là sau khi đã phát hiện ra được học sinh có
năng khiếu. Giáo viên cần phải kiểm tra kiến thức các em. Vốn kiến thức cũng như
khả năng cảm thụ của các em đến đâu. Sở dĩ phải làm bước này bởi yêu cầu đối
với học sinh giỏi ít nhất là phải có kiến thức cơ bản, cái gọi là phần nền để có cơ
sở bồi dưỡng sau này.
Đối với môn Ngữ Văn việc khơi gợi lòng yêu mến đối với môn học của các
em là không thể thiếu. Bản thân giáo viên phải từ chính tình cảm và lòng say mê
môn Văn của mình phải truyền đến cho học sinh lòng đam mê đối với môn học để
học sinh ý thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của môn học từ đó tạo được niềm
say mê - sự khám phá sáng tạo của học sinh trong lĩnh vực văn chương.
b.2. Tổ chức kiểm tra năng lực, năng khiếu của học sinh:
Đây là công việc đầu tiên của người giáo viên dạy bồi dưỡng. Mỗi giáo
viên phải nắm được năng lực của từng học sinh trong đội tuyển: năng lực diễn đạt,
năng lực cảm nhận, năng lực sáng tạo...Công việc này được tiến hành bằng cách
giáo viên tổ chức cho học sinh làm bài kiểm tra tại lớp. Sau khi đã có bài giáo viên
10
chấm chữa bài cho học sinh lấy kết quả, phân loại chất lượng học sinh để có kế
hoạch bồi dưỡng.
b.3. Kiểm tra khả năng nắm kiến thức cơ bản của học sinh.
Sở dĩ phải có bước này bởi một yêu cầu đối với học sinh giỏi là phải nắm
vững kiến thức cơ bản cái gọi là phần ''Nền, rồi mới khơi gợi và nuôi dưỡng, phát
triển cảm xúc, lòng yêu mến văn chương và nhu cầu sáng tạo nghệ thuật cho các
em. Đây là biện pháp có tính phương pháp, thậm chí gần như một nguyên tắc trong
dạy học văn cho học sinh giỏi.
b.4. Lên kế hoạch bồi dưỡng :
Như đã nói ở trên, việc bồi dưỡng học sinh giỏi giáo viên phải tự lên chương
trình nội dung kiến thức. Do đó người giáo viên trước hết phải có tinh thần trách
nhiệm cao, yêu nghề yêu công việc mà mình đang làm và ý thức được tầm quan
trọng của việcệc mình đang làm. Chính vì vậy giáo viên bồi dưỡng phải mày mò,
tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp để xây dựng được một chương trình
với lượng kiến thức thích hợp với những điều học sinh đã học và đồng thời phải
vừa rộng vừa sâu đáp ứng được tính vượt trội của đối tượng học sinh giỏi. Cần
chú trọng sắp xếp chương trình sao cho có hệ thống và đảm bảo tính khoa học.
Tránh tình trạng thích gì dạy nấy theo cảm tính. Để xây dựng được một chương
trình ôn luyện đạt hiệu quả cao mà không nhàm chán đối với học sinh (vì các kiến
thức đều đã được học) giáo viên cần phải sáng tạo trong việc thể hiện nội dung
kiến thức. Sắp xếp lượng kiến thức giữa phân môn phù hợp với yêu cầu. Vì mục
đích cuối cùng của học sinh là tạo lập được một văn bản đầy đủ về nội dung và
hình thức. Để làm được điều đó, khi lên chương trình bồi dưỡng giáo viên cần phải
chú ý đến tính thống nhất giữa các phân môn. Hơn nữa, đối với từng phân môn cần
phải đảm bảo đúng đặc trưng của từng phần đối với phân môn Tiếng Việt. Khi
giáo viên bồi dưỡng cho học sinh . Ngoài việc củng cố cho các em :cách dùng từ,
đặt câu, dựng đoạn, các biện pháp tu từ ...Thì đối với từng loại đơn vị kiến thức,
giáo viên cần phải chuẩn bị một hệ thống bài tập ứng dụng đối với từng loại.
Hoặc khi lên chương trình Tập làm văn : giáo viên hệ thống lại kiến thức đã
học rồi chia ra từng mảng chuyên đề chủ đề. Để tóm lược nội dung tác phẩm và
khái quát lên vấn đề trọng tâm :
VD:
Chủ đề về người phụ nữ.
Chủ đề về người lính.
Chủ đề về người nông dân.
Chủ đề về người mẹ..
Để từ những kiến thức mang tính khái quát - học sinh có thể khai triển ra
một cách cụ thể hơn, sâu sắc hơn theo cách cảm và cách nghĩ của bản thân một
cách sang tạo hơn.
11
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm nhỏ trong phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi ngữ văn THCS trên địa bàn huyện Nghĩa Đàn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_nho_trong_phat_hien_va_boi_duong_hoc.docx