SKKN Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THPT Nam Đàn 2
Trong hơn 30 năm đổi mới đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế – xã hội và văn hóa – giáo dục. Tuy nhiên, kết quả đổi mới về giáo dục vẫn chậm hơn nhiều so với kinh tế, chất lượng giáo dục phổ thông nói chung và phổ thông trung học nói riêng còn thấp, quản lý giáo dục còn lỏng lẻo, thiếu khoa học, nhiều giáo viên vẫn chưa theo kịp bước tiến của công cuộc đổi mới, chưa vận dụng tốt các phương pháp dạy học mới, còn có lỗ hổng về kiến thức, chất lượng học tập của học sinh chưa thực chất, điểm số còn chạy theo thành tích, số học sinh chây lười trong học tập, không trung thực trong học tập còn nhiều, việc sử dụng cơ sở vật chất của nhà trường chưa hiệu quả, cơ sở vật chất cũng chưa đáp ứng được yêu cầu dạy – học của giáo viên và học sinh, vệ sinh môi trường chưa đảm bảo, tính xã hội hóa của trường học chưa cao, phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến trường học…
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Chất lượng giáo dục là vấn đề luôn được xã hội quan tâm vì tầm quan
trọng của nó đối với sự nghiệp phát triển đất nước nói chung và sự nghiệp giáo
dục nói riêng. Chất lượng giáo dục cao mới đáp ứng được mục tiêu, nhiệm vụ
đào tạo, góp phần đảm bảo nguồn nhân lực tốt cho công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO) nhấn
mạnh: chất lượng giáo dục được thể hiện trong bốn trụ cột “Học để biết; học để
làm; học để chung sống và học để tồn tại”. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng
giáo dục vừa là danh dự, vừa là lẽ sống của nhà trường các cấp trong xu thế
quốc tế hội nhập hiện nay.
Nâng cao chất lượng giáo dục là nhiệm vụ chính trị được Đảng, Nhà nước
ta đặc biệt quan tâm và luôn là nội dung quan trọng trong văn kiện của các kỳ Đại
hội Đảng. Đặc biệt, trong các Nghị quyết của Đảng từ khi Việt Nam bước vào
công cuộc đổi mới đến nay, quan điểm giáo dục của Đảng luôn thể hiện rõ tính
nhất quán, phát triển, xem giáo dục là “quốc sách hàng đầu” nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước.
Trong hơn 30 năm đổi mới đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã
đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế – xã hội và văn hóa – giáo dục. Tuy
nhiên, kết quả đổi mới về giáo dục vẫn chậm hơn nhiều so với kinh tế, chất
lượng giáo dục phổ thông nói chung và phổ thông trung học nói riêng còn thấp,
quản lý giáo dục còn lỏng lẻo, thiếu khoa học, nhiều giáo viên vẫn chưa theo kịp
bước tiến của công cuộc đổi mới, chưa vận dụng tốt các phương pháp dạy học
mới, còn có lỗ hổng về kiến thức, chất lượng học tập của học sinh chưa thực
chất, điểm số còn chạy theo thành tích, số học sinh chây lười trong học tập,
không trung thực trong học tập còn nhiều, việc sử dụng cơ sở vật chất của nhà
trường chưa hiệu quả, cơ sở vật chất cũng chưa đáp ứng được yêu cầu dạy – học
của giáo viên và học sinh, vệ sinh môi trường chưa đảm bảo, tính xã hội hóa của
trường học chưa cao, phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến trường học…
Trường THPT Nam Đàn 2 cũng nằm trong bối cảnh chung đó, kể từ khi
thành lập đến năm 2015, nhà trường đã đạt được những thành tựu đáng kể trong
việc nâng cao chất lượng giáo dục mà trọng tâm là chất lượng dạy và học. Bên
cạnh đó nhà trường vẫn còn nhiều tồn tại cần khắc phục về công tác quản lý, về
chất lượng đội ngũ giáo viên, về chất lượng học sinh giỏi, chất lượng học sinh
đại trà, về cơ sở vật chất, về việc thực hiện xã hội hóa giáo dục, công tác an ninh
trường học và bảo vệ môi trường… Trong những năm gần đây, trên cơ sở đúc
rút những việc làm được và chưa làm được của nhà trường và học tập kinh
1
nghiệm từ các trường bạn, Ban giám hiệu Trường THPT Nam Đàn 2 đã mạnh
dạn đề ra và thực hiện một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạt
được những kết quả đáng mừng, đem lại niềm phấn khởi cho giáo viên, học sinh
và phụ huynh, làm tăng uy tín của nhà trường trong nhân dân cũng như trong hệ
thống các trường THPT trên địa bàn Nghệ An.
Xuất phát từ những lý do trên, với tinh thần, trách nhiệm của một cán bộ
quản lý, từ những thành quả mà nhà trường đạt được trong những năm qua, tôi
quyết định viết đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở
trường THPT Nam Đàn 2”, qua đó chia sẻ kinh nghiệm của nhà trường với
đồng nghiệp và các trường bạn, đồng thời tiếp tục hoàn chỉnh các giải pháp đó,
góp phần đẩy mạnh hơn nữa chất lượng giáo dục để Trường THPT Nam Đàn 2
xứng đáng là địa chỉ tin cậy của học sinh và phụ huynh tỉnh nhà.
Các giải pháp trong đề tài được thực hiện tại trường THPT Nam Đàn 2 từ
năm học 2015-2016 đến nay. Tôi rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của
đồng nghiệp và các nhà quản lí để đề tài được hoàn thiện hơn và có thể được áp
dụng rộng rãi trong nhà trường phổ thông các cấp.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong
Trường THPT Nam Đàn 2 nói riêng và các trường phổ thông nói chung.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xác định cơ sở lí luận và thực tiễn của mục tiêu, nhiệm vụ “nâng cao
chất lượng giáo dục trong trường THPT”.
Phân tích thực trạng chất lượng giáo dục trước và sau khi thực hiện các
giải pháp để thấy được tính khả thi và hiệu quả của những giải pháp đề ra.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lí luận: Căn cứ vào chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo về mục tiêu,
nhiệm vụ “nâng cao chất lượng giáo dục trong trường THPT”.
- Phương pháp thực tiễn: Quan sát, điều tra, thực nghiệm, tổng hợp kinh
nghiệm nhằm “nâng cao chất lượng giáo dục trong trường THPT”.
5. Điểm mới của đề tài
- Giải pháp cũ thường thực hiện một cách máy móc, rập khuôn chung theo
chủ trương của Bộ, của Sở Giáo dục – Đào tạo nên hiệu quả chưa cao. Giải pháp
mới thể hiện rõ tính khoa học và thực tiễn, vận dụng sáng tạo chủ trương, biện
pháp của cấp trên vào hoàn cảnh, đặc điểm riêng của nhà trường nhờ đó đã đạt
được những kết quả đáng kể trong việc nâng cao chất lượng giáo dục ở Trường
THPT Nam Đàn 2 trong những năm qua.
2
- Giải pháp cũ tập trung chủ yếu ở nhiệm vụ dạy và học trên lớp, chưa coi
trọng giáo dục toàn diện. Giải pháp mới mang tính toàn diện, đồng bộ gồm đổi mới
về lãnh đạo, quản lí, bồi dưỡng đội ngũ, đổi mới phương pháp dạy và học, giáo dục
đạo đức, lối sống, nâng cao ý thức, trách nhiệm của cán bộ, giáo viên, học sinh, xây
dựng cơ sở vật chất, đảm bảo về môi trường, an ninh, xây dựng khối đoàn kết nhất trí
trong nhà trường, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng xã hội.
- Những giải pháp đưa ra trong đề tài được thực hiện và điều chỉnh qua
từng năm học đã hình thành nề nếp giảng dạy, học tập, sinh hoạt tích cực trong
Trường THPT Nam Đàn 2, giúp giáo viên, học sinh ngày càng gắn bó, tin yêu
nhà trường và nhận được sự ủng hộ của các lực lượng xã hội nhất là phụ huynh,
cựu học sinh.
- Giải pháp trong đề tài có thể áp dụng dễ dàng ở các trường phổ thông và
đem lại hiệu quả cao trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.
6. Cấu trúc của đề tài
Phần một: Đặt vấn đề
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Điểm mới của đề tài
Phần hai: Nội dung
1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn.
2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục ở Trường THPT Nam
Đàn 2 và kết quả đạt được
Phần ba: Kết luận
1. Hiệu quả của đề tài.
2. Nhận định về áp dụng sáng kiến kinh nghiệm và khả năng mở rộng đề tài.
3. Bài học kinh nghiệm và đề xuất.
3
PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. 1. Cơ sở lý luận
1.1.1 . Xuất phát từ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
nâng cao chất lượng giáo dục trong giai đoạn hiện nay
Đại hội XI của Đảng (2011) chỉ rõ: “Giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ có sức mạnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền
văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát
triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và
đào tạo là đầu tư phát triển”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám (2013), Ban Chấp hành Trung ương
khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) với nội dung “Đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo nhằm tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng,
hiệu quả giáo dục, đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc và nhu cầu học tập của nhân dân; giáo dục con người Việt Nam phát triển
toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân,
yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả; xây
dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ
cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm
các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã
hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt
Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”.
Đại hội Đảng lần thứ XII (2016) tiếp tục khẳng định: “Giáo dục là quốc
sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang
bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi
đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn
với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội”.
Luật giáo dục Việt Nam (6/2019) cũng ghi rõ: “Giáo dục phổ thông nhằm
phát triển toàn diện cho người học về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, kỹ
năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo; hình
thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa và trách nhiệm công
dân; chuẩn bị cho người học tiếp tục học chương trình giáo dục đại học, giáo
dục nghề nghiệp hoặc tham gia lao động, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Chỉ thị số 2919/CT–BGDDT của Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ rõ phương
hướng, nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục trung học trong năm học 2018 – 2019
như sau: “Nâng cao chất lượng giáo dục và các điều kiện đảm bảo chất lượng
4
giáo dục; thực hiện nghiêm kỷ cương, nền nếp, dân chủ trong trường học, xây
dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện, phòng chống bạo lực
học đường và thực hiện tốt vệ sinh trường học; tăng cường giáo dục chính trị tư
tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, ứng xử văn hóa cho học sinh, sinh viên
trong các cơ sở giáo dục”.
Quyết định số 06/2013/ QĐUBND của Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An về
việc phê duyệt Quy hoạch phát triển giáo dục và đào tạo Nghệ An giai đoạn 2012 –
2020 đã xác định rõ mục tiêu chung là: “Phát triển giáo dục và đào tạo một cách
mạnh mẽ và toàn diện. Xây dựng Nghệ An trở thành Trung tâm giáo dục và đào
tạo của vùng Bắc Trung bộ và cả nước. Gắn giáo dục – đào tạo với phát triển kinh
tế – xã hội của tỉnh, khu vực và cả nước; chủ động hội nhập quốc tế”.
1.1.2. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về “chất lượng giáo dục” và
mục tiêu, nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường phổ thông
Từ trước đến nay có nhiều cách hiểu về “chất lượng giáo dục” nhưng còn
mang tính phiến diện, chủ yếu đồng nghĩa “chất lượng giáo dục” với kết quả
học tập của học sinh qua điểm số, qua xếp loại học lực, tỷ lệ lên lớp hay lưu ban,
xem “chất lượng giáo dục” là chất lượng con người được đào tạo từ hoạt động
dạy học là chủ yếu.
Theo quan niệm khoa học và hiện đại, chất lượng giáo dục phải bảo đảm
giáo dục là sự đáp ứng mục tiêu của cơ sở giáo dục hoặc chương trình giáo dục,
đáp ứng các yêu cầu của Luật giáo dục, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật giáo dục, Luật giáo dục đại học, phù hợp với nhu cầu sử dụng nhân lực
cho sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương và cả nước”. Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho
giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế
hoạch phát triển kinh tế – xã hội”.
Xuất phát từ quan điểm trên chúng ta có thể khẳng định “chất lượng giáo
dục” không chỉ biểu hiện qua điểm số của học sinh, mà là kết quả tổng hợp của
mọi hoạt động trong trường học, từ cách thức tổ chức và quản lí, chất lượng đội
ngũ giáo viên, thái độ và kết quả học tập, nghiên cứu khoa học, rèn luyện của
học sinh đến cơ sở vật chất, cảnh quan, môi trường, an ninh, quan hệ giữa nhà
trường với phụ huynh, nhà trường với xã hội…
Mọi hoạt động giáo dục đều hướng tới mục đích nâng cao chất lượng giáo
dục, xây dựng một nền giáo dục toàn diện, hiện đại. “Nâng cao chất lượng giáo
dục” là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu của trường học, là danh dự và uy
tín của mỗi nhà trường nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục con người Việt Nam
phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp,
5
trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1. 2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Xuất phát từ thực trạng chất lượng giáo dục ở trường THPT
trong những năm đất nước đổi mới
Sau hơn 30 năm đất nước đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội, công tác giáo
dục, nhất là giáo dục phổ thông đã đạt được những thành tựu đáng kể, chất
lượng giáo dục không ngừng được nâng cao, công tác quản lý giáo dục chặt chẽ
và khoa học hơn trước, phần lớn giáo viên có năng lực chuyên môn và kỹ năng
sư phạm, nhiều giáo viên tận tụy với nghề, tự giác học tập và trau dồi trình độ
chuyên môn, thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học, có trách nhiệm và
thương yêu học sinh; đa số học sinh có ý thức trong học tập và rèn luyện, một
số học sinh đạt thành tích cao trong học tập, chất lượng học sinh đại trà có sự
tiến bộ; cơ sở vật chất của các nhà trường từng bước được nâng cao, trang bị
thêm các phương tiện phục vụ công tác giảng dạy và học tập như máy tính, máy
chiếu, dụng cụ thí nghiệm, sách và tài liệu…; các hoạt động văn nghệ, thể dục,
thể thao, tham quan học tập đạt hiệu quả thực chất, hỗ trợ tích cực cho học tập;
xây dựng nhà trường xanh- sạch- đẹp, đảm bảo công tác an ninh trường học,
các vụ việc bạo lực học đường giảm bớt; mối quan hệ giữa phụ huynh và nhà
trường, nhà trường và địa phương có sự gắn kết, hỗ trợ nhau; công tác thi đua,
khen thưởng, kiểm tra, đánh giá có sự chuyển biến tích cực…
Bên cạnh thành tựu đạt được, giáo dục THPT vẫn có một số hạn chế, yếu
kém, chất lượng giáo dục còn thấp chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội như: công tác quản lý giáo dục còn nhiều bất cập, lỏng lẻo, mang tính rập
khuôn, chưa xuất phát từ tình hình thực tế của nhà trường và địa phương; một bộ
phận trong giáo viên chưa coi trọng nghề, chưa chịu khó trau dồi chuyên môn,
chưa tận tụy với học sinh, kỹ năng sư phạm còn hạn chế, đổi mới dạy học còn
mang tính đối phó khi có thanh tra, kiểm tra, còn chạy theo thành tích, số ít giáo
viên còn vi phạm tác phong, lối sống nhà giáo, làm mất uy tín trước học sinh và
phụ huynh; các phong trào thi đua còn mang tính hình thức; một bộ phận học
sinh chây lười trong học tập, trốn học, bỏ giờ, chơi điện tử, không học bài và
làm bài, gây gổ, đánh nhau; mối quan hệ giữa phụ huynh và nhà trường chưa
chặt chẽ, nhiều phụ huynh chưa quan tâm đến con em, phó mặc cho giáo viên
chủ nhiệm và nhà trường; cơ sở vật chất nhiều trường còn thiếu thốn, môi
trường vệ sinh và an ninh chưa đảm bảo; công tác kiểm tra, đánh giá còn thiếu
khách quan, thiếu thực chất và chưa công bằng,…
6
1.2.2. Xuất phát từ thực trạng chất lượng giáo dục ở Trường THPT
Nam Đàn 2 trong những năm qua
- Thuận lợi cơ bản
Trường cấp 3 Nam Đàn 2, nay là trường THPT Nam Đàn 2 được thành lập
tháng 8-1965 trên vùng đất giàu truyền thống cách mạng, hiếu học, khoa bảng,
nhiều nhân tài. Việc ra đời của ngôi trường ngày đó đã mang lại một luồng sinh
khí mới, sự phát triển mới trên nhiều lĩnh vực cho 9 xã thuộc vùng khó khăn của
huyện Nam Đàn và một số xã của huyện Đức Thọ- Hà Tĩnh.
Hiện nay, trường THPT Nam Đàn 2 có quy mô 30 lớp, với 1200 học sinh.
Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên có 79 người, trong đó 73 cán bộ, giáo viên,
33 người có trình độ thạc sỹ, chi bộ có 50 đảng viên, 01 đ/c có trình độ cao cấp
chính trị, 06 đ/c có trình độ trung cấp chính trị.
Chi bộ và Ban giám hiệu nhà trường hàng năm đã đề ra phương hướng, kế
hoạch nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, khuyến khích giáo viên nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu dạy và học. Nhiều giáo viên có
ý thức trong việc trau dồi kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, bước đầu đổi mới
phương pháp dạy học, quan tâm và thương yêu học sinh, xứng đáng là tấm
gương sáng cho học sinh noi theo.
Học sinh của nhà trường chủ yếu xuất thân từ các gia đình thuần nông, đa
số các em chăm ngoan, hiền lành, có ý thức trong học tập và rèn luyện. Một số
học sinh đã cố gắng vươn lên trong học tập đạt danh hiệu học sinh giỏi toàn
diện, học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp trường.
Trải qua hơn nửa thế kỉ xây dựng và phát triển, nhà trường đã đạt được
những thành tích đáng kể trong công tác dạy và học, giáo dục, rèn luyện đạo đức
lối sống cho học sinh, các phong trào thi đua ngày càng thực chất và hiệu quả
hơn, cơ sở vật chất được tăng cường.
- Khó khăn, yếu kém
Trường đóng trên địa bàn xã Nam Trung, huyện Nam Đàn, một vùng quê
thuần nông bên hữu ngạn sông Lam thường xuyên bị lũ lụt, giao thông cách trở,
đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, nhiều
cha mẹ phải đi làm ăn xa nhà nên việc giáo dục, nhắc nhở con cái học hành rất
hạn chế.
Công tác quản lý còn lỏng lẻo, sự phân công, phân nhiệm trong Ban giám
hiệu chưa rõ ràng, công tác kiểm tra giám sát chưa cụ thể, chưa thường xuyên.
Đội ngũ giáo viên chất lượng chưa cao và chưa đồng đều, giáo viên đa
phần còn trẻ ( dưới 40 tuổi), chưa có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy, số giáo
viên giỏi tỉnh, giáo viên cốt cán còn ít, nhiều môn chưa có giáo viên giỏi cấp
7
tỉnh (có 7/73 giáo viên giỏi cấp tỉnh, trong đó có 2 giáo viên Toán, 2 giáo viên
Hóa, 2 giáo viên Văn, 1 giáo viên Sử). Nhiều giáo viên còn hay xin nghỉ dạy,
nghỉ họp vì việc riêng, sinh hoạt chuyên môn còn mang tính hình thức, chưa có
chiều sâu. Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, đổi mới phương
pháp dạy học chỉ mang tính chất đối phó.
Chất lượng học sinh đại trà thấp, điểm đầu vào của học sinh lớp 10
luôn thấp hơn nhiều so với các trường trong huyện, trong tỉnh, điều kiện học
tập của học sinh ở nhà còn rất khó khăn, đa số các em vừa đi học, vừa phải
phụ giúp gia đình làm công việc đồng áng, nhiều em thiếu hụt kiến thức cơ bản
ở các bậc học dưới.
Cơ sở vật chất nhà trường còn thiếu thốn, năm 2015 phòng học bộ môn
diện tích chưa đảm bảo, phòng truyền thống chưa có nhiều tư liệu, phòng y tế
chật hẹp, nhà vệ sinh của giáo viên và học sinh còn tạm bợ, xuống cấp; sân chơi
bãi tập còn lồi lõm, sân trường nhiều chỗ chưa được lát gạch, bàn ghế học sinh
và giáo viên đã cũ kỹ, hệ thống đường điện chắp nối nên thường xuyên chập,
cháy và nguồn điện cung cấp cho các hoạt động không đảm bảo. Công tác vệ
sinh trường lớp ít được quan tâm. An ninh trường học còn nhiều hạn chế, học
sinh hay gây gỗ đánh nhau, trốn tiết, bỏ học chơi game, nợ quán lên đến cả tiền
triệu, một số em vì bị xiết nợ nên phải bỏ học giữa chừng.
- Nguyên nhân dẫn đến hạn chế, yếu kém trên
Ban giám hiệu nhà trường chưa cụ thể hóa và làm cho cán bộ giáo viên
nhận thức sâu sắc và hiểu rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ nâng cao chất lượng
giáo dục ở trường THPT; việc đề ra kế hoạch phát triển của nhà trường trong
từng giai đoạn, từng năm học còn chung chung; kế hoạch phát triển nhà trường
chưa có sự gắn kết chặt chẽ với kế hoạch phát triển của địa phương.
Nhà trường và cán bộ, giáo viên chưa nhận thức đầy đủ mục tiêu giáo dục
toàn diện, chủ yếu chỉ tập trung vào công tác dạy và học, chưa coi trọng việc rèn
luyện, giáo dục đạo đức, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, nhà trường, giáo
viên và phụ huynh, học sinh còn chạy theo bệnh thành tích.
Công tác kiểm tra, đánh giá cả trong giáo viên và học sinh còn mang tính
hình thức, thiếu khách quan, chưa sâu sát nên không có tác dụng thúc đẩy phong
trào thi đua giảng dạy và học tập theo hướng thực chất.
Đời sống của nhân dân trong vùng phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp,
phụ huynh học sinh không có nhiều điều kiện để quan tâm đến sự phát triển của
trường học, do đó việc huy động các nguồn lực xã hội, nhất là từ phụ huynh học
sinh để đầu tư cho giáo dục gặp nhiều khó khăn.
8
- Một số kết quả trong những năm học 2013 – 2014; 2014 – 2015 của
Trường THPT Nam Đàn 2:
+ Về đội ngũ giáo viên:
Năm học
Năm học
2013-2014
2014-2015
Tổng số GV
77
77
Tổng số GV dạy giỏi cấp trường
21
25
Tổng số GVDG cấp tỉnh
7
7
GV có trình độ thạc sỹ
+ Vê học sinh:
29
30
Năm học
Năm học
2013-2014
2014-2015
Tổng số
1285
2
1241
9
Lưu ban
Bỏ học
25
19
Số học sinh tốt nghiệp
Tổng số học sinh giỏi cấp tỉnh
Tỷ lệ thi đỗ vào các trường ĐH, CĐ
453/458= 98,90% 356/413= 86,19 %
35/56=62,5%
51,02%
18/28=64,28%
47,35%
Học lực
Hạnh kiểm
Loại
giỏi
(%)
Loại
khá
(%)
Loại
Tốt
(%)
Loại
khá
(%)
Năm học
TB,
(%)
Yếu
( %)
TB,
(%) ( %)
Yếu
2013 -
2014
(1285 hs)
1019
106
656
503
20
11
207
48
( 8,25) (51,05) (39,14) (1,55)
( 16,11) (3,74) ( 0,86)
( 79,3)
2014 -
2015
110
635
481
15
1013
179
40
9
( 8,86) (51,17) (38,75) (1,22) (81,62) (14,42 )
(0,74)
(3,22)
(1241hs)
9
Nhìn vào bảng số liệu có thể thấy giai đoạn trước năm 2015 chất
lượng giáo dục ở Trường THPT Nam Đàn 2 còn thấp, chưa đáp ứng được
nhu cầu đổi mới giáo dục, chưa nâng cao được vị thế Trường THPT Nam
Đàn 2 trong toàn Tỉnh.
Xuất phát từ những thuận lợi, thành tích đạt được, những hạn chế, yếu
kém trong những năm học trước 2015. Kể từ khi được phân công làm nhiệm vụ
quản lí ở trường, bản thân tôi cùng với các đồng chí trong cấp ủy, Ban giám
hiệu, Công đoàn và Đoàn thanh niên đã từng bước phân tích đánh giá tình hình,
tìm ra nguyên nhân của sự yếu kém, từng bước đề xuất và triển khai thực hiện
các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
10
CHƯƠNG 2.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG THPT NAM ĐÀN 2
2. 1. Một số giải pháp thực hiện
2.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, vai trò quản lý của
Ban giám hiệu và các tổ chuyên môn trong nhà trường
- Tăng cường sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng trong trường học là giải pháp
mang tính quyết định giúp nhà trường hoàn thành nhiệm vụ chính trị, nâng cao
chất lượng giáo dục, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới căn bản và toàn
diện giáo dục, đào tạo hiện nay:
+ Vào đầu năm học, căn cứ kết quả đạt được của năm học trước và tình
hình của năm học mới Chi bộ họp, thảo luận và đề ra nghị quyết, chỉ đạo nhà
trường thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu, kế hoạch đề ra.
+ Sau đó, Ban giám hiệu dự thảo báo cáo tổng kết thực hiện nhiệm vụ của
năm học trước, phương hướng nhiệm vụ, chỉ tiêu, giải pháp của năm học mới và
gửi bản dự thảo cho các tổ chuyên môn, Công đoàn, Đoàn thanh niên để thảo
luận, góp ý và kiến nghị, đề xuất những vướng mắc liên quan đến chỉ tiêu, chuyên
môn, chế độ chính sách,... Tiếp theo, Ban giám hiệu tập hợp ý kiến thảo luận và
Họp lãnh đạo mở rộng để xem xét các ý kiến đóng góp của các bộ phận, khi đã cơ
bản đi đến thống nhất thì lãnh đạo trường phối hợp với Công đoàn nhà trường tiến
hành tổ chức hội nghị Cán bộ, viên chức một cách dân chủ, tập trung để ra Quyết
nghị về mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng cho năm học mới. Nhờ vậy, Quyết
nghị của Hội nghị vừa đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn, vừa gắn liền với
nhiệm vụ chung của toàn ngành và phù hợp với đặc điểm của nhà trường.
- Để nâng cao vai trò quản lý, Ban giám hiệu đã có sự phân công nhiệm
vụ cụ thể cho từng đồng chí, các lĩnh vực công tác được phân công rõ ràng nên
việc điều hành, chỉ đạo được thuận lợi:
+ Ông: Hồ Quốc Việt - Hiệu trưởng:
Phụ trách chung mọi công việc của nhà trường: xây dựng kế hoạch, tổ chức,
chỉ đạo, kiểm tra việc triển khai thực hiện nhiệm vụ của Phó hiệu trưởng, các tổ
trưởng và các bộ phận trong toàn trường.
Trực tiếp phụ trách: Công tác tư tưởng; tổ chức cán bộ; tuyển sinh; tài chính,
đối ngoại; thi đua khen thưởng; chế độ chính sách đối với viên chức, học sinh; quản
lý hồ sơ Cán bộ, viên chức; giải quyết khiếu nại tố cáo; xây dựng kế hoạch năm
học, kế hoạch tháng, kế hoạch tuần và làm trưởng ban một số ban trong nhà trường.
Sinh hoạt chuyên môn ở tổ Văn- Ngoại ngữ.
+ Ông: Lê Văn Quyền - Phó hiệu trưởng:
Quản lý các hoạt động của nhà trường khi được Hiệu trưởng ủy quyền.
11
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THPT Nam Đàn 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_mot_so_giai_phap_nham_nang_cao_chat_luong_giao_duc_o_tr.doc