SKKN Một số biện pháp rèn kỹ năng giải bài tập hình học cho học sinh lớp 6

Trong các hoạt động học tập môn Toán ở trường phổ thông, hoạt động giải bài tập là một hoạt động rất quan trọng, ảnh hưởng đến hiệu quả học tập môn Toán của học sinh.
Một số biện pháp rèn kỹ năng giải bài tập hình học cho học sinh lớp 6  
MỤC LỤC  
Trang  
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ  
4
5
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ  
1. Cơ sở luận  
5
2. Thực trạng của vấn đề  
6
3. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề  
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm  
PHẦN III: KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ  
1. Kết luận  
6
16  
17  
18  
19  
2. Kiến nghị, đề xuất  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
20  
2/20  
Một số biện pháp rèn kỹ năng giải bài tập hình học cho học sinh lớp 6  
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT  
TT  
1
Chữ viết tắt  
Nghĩa của chữ viết tắt  
Trung học cơ sở  
THCS  
(m)  
2
(mét)  
3
SGK  
NXB  
Sách giáo khoa  
Nhà xuất bản  
4
3/20  
Một số biện pháp rèn kỹ năng giải bài tập hình học cho học sinh lớp 6  
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ  
Trong các hoạt động học tập môn Toán ở trường phổ thông, hoạt động  
giải bài tập một hoạt động rất quan trọng, ảnh hưởng đến hiệu quả học tập  
môn Toán của học sinh.  
vậy để phát triển năng lực học toán cho học sinh thì người thầy giáo  
không thể không quan tâm tới vấn đề hướng dẫn giải, khai thác và rèn kỹ năng  
giải bài tập hình học trong sách giáo khoa để giúp học sinh tránh những sai lầm  
vận dụng tốt thuyết để giải bài tập hình học nhằm nâng cao chất lượng bộ  
môn ngay từ đầu cấp học.  
Việc quan tâm thường xuyên, hướng dẫn, khai thác và rèn kỹ năng giải  
bài tập trong sách giáo khoa là khuyến khích các em luôn có ý thức, hứng thú  
trong giải bài tập hình học chắc chắn sẽ góp phần bồi dưỡng năng lực tư duy chủ  
động tìm tòi kiến thức mới cho học sinh, cũng thông qua đó rèn luyện tư duy  
mềm dẻo tích cực sáng tạo cho học sinh.  
Qua thời gian trực tiếp giảng dạy và nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa  
Toán 6 đặc biệt chương I “Đoạn thẳng” Hình học lớp 6 tập một ; căn cứ vào  
tình hình học tập của học sinh ở cấp trung học cơ sở khác hẳn ở tiểu học, việc  
tiếp nhận các kiến thức toán học nói chung và môn hình học nói riêng còn gặp  
khó khăn, tôi đã thực hiện sáng kiến: Một số biện pháp rèn kỹ năng giải bài  
tập hình học cho học sinh lớp 6”  
4/20  
Một số biện pháp rèn kỹ năng giải bài tập hình học cho học sinh lớp 6  
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ  
1. Cơ sở luận:  
Truyn thkiến thc và rèn luyn knăng cho hc sinh là hai mt ca quá  
trình dy hc, nó không thtách ri trong quá trình ging dy ca giáo viên, truyn  
thkiến thc cơ bn vng chc là cơ scho vic rèn luyn các knăng nhm cng  
c, bsung và mrng kiến thc đã hc. Cho nên trong mi bài ging giáo viên  
phi đồng thi làm hai nhim vụ đó mt cách nghiêm túc và có kế hoch cth.  
Vic rèn knăng cho mi bài phi thhin dưới nhiu khía cnh khác nhau.  
Hướng dn hc sinh biết suy nghĩ đúng đắn, biết din đạt vn đề mình hiu mt  
cách ngn gn, rõ ràng, biết vn dng kiến thc để gii bài tp mt cách linh hot,  
sáng to. Nhng vn đề đó không thtruyn thcho hc sinh trong mt vài tiết hc  
mà trong sut quá trình ging dy qua các lp và được lp đi lp li nhiu ln mi  
biến thành knăng, thói quen cho hc sinh.  
Trong chương trình toán Tiu hc các em chưa được định hình rõ phân  
môn hình hc, chbước đầu được làm quen mt shình hc đơn gin như hình  
vuông, hình tam giác … Nhưng lên lp 6 - lp đầu cp Trung hc cơ scác em sẽ  
được tiếp cn vi bmôn hình hc ngay từ đầu năm mc dù mi tun chcó mt  
tiết và bước đầu kiến thc còn rt đơn gin, chdng li mc độ nhn biết và  
hiu được các khái nim mở đầu ca hình hc phng, nhưng nó là cơ svng chc  
cho vic chng minh suy din nhng lp sau, chính vì vy ngay từ đầu năm, các  
em phi nm vng các khái nim mc dù là đơn gin. Sau khi hc, các em phi biết  
vn dng các kiến thc đã hc vào thc tế đời sng, biết vn dng thc hành gn  
lin vi thc tế. Tính cht ni bt ca hình hc 6 là trc quan, đây là giai đon xây  
dng cơ sban đầu ca hình hc phng, chun bcho vic chng minh suy din  
trong các chương trình sau.  
Cái đích đạt được ở đây học sinh học tập thông qua các hoạt động hình  
học, kết hợp hoạt động trực quan (quan sát, phát hiện, gấp hình, đo, vẽ, kiểm tra,  
thực hành …) với hoạt động suy luận (quy nạp, suy diễn). Các tính chất (tiền đề,  
định lý) được rút ra từ trực quan bằng các nhận xét, chưa dùng các tiền đề "định  
nghĩa, định lý". Các em được rèn luyện kỹ năng sử dụng các dụng c đo, vẽ, vẽ  
hình đúng kích thước (độ dài, độ lớn của góc cho trước), gấp hình, ước lượng …  
từ những điều đó giúp giáo viên hiểu rõ ý đồ của sách giáo khoa hình học 6 đổi  
mới, nhằm thúc đẩy tốt việc vận dụng thuyết giải bài tập, đáp ứng tốt hơn mục  
đích môn học, do đó cần có cách nhìn mới (nhận thức mới, quan điểm mới) về  
5/20  
Một số biện pháp rèn kỹ năng giải bài tập hình học cho học sinh lớp 6  
nội dung và phương pháp, từ đó những phương pháp rèn kỹ năng giải bài tập  
thuần thục cho học sinh.  
2. Thực trạng của vấn đề:  
Môn hình học nói chung rất đa dạng phong phú, riêng đối với phân môn  
hình học của lớp 6 được trình bày theo kiểu tiếp cận, quy nạp, từ quan sát, thử  
nghiệm, đo, vẽ, nêu nhận xét, đi dần đến kiến thức mới. Học sinh được nhận  
thức các hình và mối liên hệ giữa chúng bằng tả trực quan với sự hỗ trợ của  
trực giác, của tưởng tượng chủ yếu.  
Trong chương I của Hình học 6: Học sinh nhận biết các khái niệm "điểm,  
đường thẳng, tia, đoạn thẳng, độ dài đoạn thẳng…" Giáo viên phải làm thế nào  
để định hướng cho học sinh nhiều sáng tạo hơn, cố gắng đầu tư nhiều hơn.  
Từ thực tế giảng dạy và qua khảo sát chất lượng đầu năm cho thấy, mặc kiến  
thức đơn giản song kết quả các em đạt được chưa cao, còn một số em chưa  
biết cách ký hiệu, nhầm lẫn đoạn thẳng với tia, đoạn thẳng với đường thẳng,  
nhiều em còn thiếu đồ dùng học tập, sách giáo khoa, chưa chịu khó làm bài tập ở  
nhà, việc vận dụng thuyết vào giải bài tập còn lúng túng do đó đa phần các  
em ngại học môn Hình.  
Chính vì vậy bản thân giáo viên phải tìm tòi, nghiên cứu phải tham  
khảo tài liệu giúp các em có kỹ năng quan sát, thử nghiệm, đo vẽ, nêu nhận xét,  
nhận biết và phân biệt điểm, đường thẳng, tia, đoạn thẳng, độ dài đoạn thẳng,  
trung điểm của đoạn thẳng, kỹ năng vẽ đường thẳng đi qua hai điểm, vẽ ba điểm  
thẳng hàng, ba điểm không thẳng hàng, biết đo độ dài đoạn thẳng cho trước và  
vẽ trung điểm của đoạn thẳng, tìm ra được những sai lầm của học sinh để kịp  
thời uốn nắn, khắc sâu, sửa ngay những lỗi lầm học sinh mắc phải, làm thế  
nào đó để nâng cao kỹ năng giải bài tập của Chương I - Hình học 6.  
3. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề:  
a) Lập kế hoạch nghiên cứu nội dung viết sáng kiến kinh nghiệm.  
b) Trao đổi thảo luận cùng đồng nghiệp.  
c) Đăng ký sáng kiến, làm đề cương.  
d) Thu thập, tập hợp số liệu nội dung phục vụ cho việc viết sáng kiến.  
Qua khảo sát, các bài kiểm tra, các giờ luyện tập, ôn tập.  
e) Phân loại các sai lầm của học sinh trong khi giải các bài toán hình  
chương I thành từng nhóm.  
f) Đưa ra định hướng, các phương pháp tránh các sai lầm đó. Vận dụng  
vào các ví dụ cụ thể.  
g) Tổng kết, rút ra bài học kinh nghiệm.  
Cụ thể:  
6/20  
Một số biện pháp rèn kỹ năng giải bài tập hình học cho học sinh lớp 6  
- Đầu tháng 9: Kiểm tra sách vở học sinh (Sách giáo khoa, Sách bài tập, vở ghi  
thuyết, vở ghi bài tập…), đồ dùng học tập (Thước, Com pa, Thước đo góc,  
eke,…).  
- Giữa tháng 9: Kiểm tra khảo sát chất lượng bộ môn đầu năm.  
- Cuối tháng 9: Trên cơ sở kiểm tra đánh giá, đánh giá kiến thức kỹ năng của  
học sinh tôi đã tiến hành hướng dẫn các em kết hợp các hoạt động trực quan  
(Quan sát, phát hiện, gấp hình, đo, vẽ, kiểm tra, thực hành…) với hoạt động suy  
luận, kỹ năng sử dụng các dụng cụ đo, vẽ, vẽ hình đúng kích thước (Đdài đoạn  
thẳng…) ước lượng, kỹ năng chuyển đổi ngôn ngữ hình học (Ngôn ngữ nói,  
viết,ngôn ngữ hình vẽ, sơ đồ, ngôn ngữ hiệu,…..).  
- Tháng 10: Triển khai sáng kiến trong các tiết học, áp dụng với từng đối tượng  
học sinh, đánh giá kết quả bước đầu.  
- Tháng 11, 12: Triển khai sáng kiến, đánh giá kết quả thông qua từng đối tượng  
học sinh về mặt nhận thức kỹ năng.  
Thông qua việc kiểm tra đánh giá kết quả nhận thức kỹ năng làm bài  
của học sinh, tôi đã nhận ra một số vấn đề khi rèn kỹ năng giải bài tập chương I  
Hình học 6, đó là:  
3.1. Những sai lầm học sinh thường mắc phải trong việc sử dụng ngôn ngữ  
nói, viết, hiệu.  
Hình học lớp 6 là phần chuyển tiếp từ giai đoạn học hình học bằng quan  
sát, thực nghiệm ở bậc tiểu học sang giai đoạn tiếp thu kiến thức bằng suy diễn  
ở cấp Trung học cơ sở, ở Tiểu học mỗi hình là một chỉnh thể, bây giờ mỗi hình  
một số "bộ phận" có liên hệ với nhau và ngay giữa các hình cũng mối  
quan hệ nào đó.  
Trước hết "Hình" được hiểu theo nghĩa khái quát và thống nhất "Hình là  
một tập hợp điểm" từ đó suy ra "điểm một hình" và "Toàn bộ mặt phẳng cũng  
một hình", đường thẳng một hình, nó là một "bộ phận" của mặt phẳng,  
đường thẳng một tập hợp hạn điểm. Một cách tổng quát, mỗi hình phẳng là  
một tập hợp con của mặt phẳng mặt phẳng một tập hợp điểm cho trước,  
nên khi nói đến các khái niệm điểm, đường thẳng, đoạn thẳng, tia …. Học sinh  
thường không cho nó là một hình do đó khi định nghĩa nêu khái niệm giáo viên  
cũng cần phải nhấn mạnh cho các em, trước hết nó là "một hình được tạo bởi  
…". Hơn thế cách hiểu "Mỗi hình học một tập hợp điểm" là cách hiểu hiện  
đại về hình học. Từ đó quan hệ "thuộc", hiệu giữa phần tử tập hợp, đã  
biết trong lý thuyết tập hợp trở thành quan hệ được thừa nhận trong hình học.  
Mệnh đề thông thường "điểm A là một phần tử của tập hợp a", ký hiệu A a và  
đọc "Điểm A thuộc đường thẳng a", từ các điểm ta xây dựng các hình, từ các  
7/20  
Một số biện pháp rèn kỹ năng giải bài tập hình học cho học sinh lớp 6  
hình này ta xây dựng nên các hình khác, đó là lôgic phát triển của hình học  
phẳng. Chẳng hạn: "đoạn thẳng AB là hình gồm điểm A, điểm B và các điểm  
nằm giữa A và B". Tuy nhiên cũng thể không ít học sinh coi thường cách ký  
hiệu, lẽ đây chỗ học sinh hay mắc phải nhất, trong sách giáo khoa khi nêu  
khái niệm đoạn thẳng AB thì các em nhầm viết đoạn thẳng ab nhưng nếu giáo  
viên yêu cầu học sinh vẽ đoạn thẳng MN thì có thể học sinh viết nhầm đoạn  
mn. Khi đó giáo viên cần chú ý nhấn mạnh chỉ rõ cho học sinh khi viết, nói  
cần phải hiểu: Điểm thì ký hiệu bằng chữ cái in hoa, đoạn thẳng thì ký hiệu bằng  
hai chữ cái in hoa viết liền nhau. Nhưng cũng phải phân biệt được giữa đường  
thẳng với đoạn thẳng. Chẳng hạn đường thẳng ta thường hiệu bằng chữ cái  
in thường nhưng cũng có khi đường thẳng đi qua hai điểm A, B ta nói là đường  
thẳng AB hoặc nếu đường thẳng chứa ba điểm A, B, C thì được gọi tên như thế  
nào?  
A
B
C
Từ các cách gọi tên khác nhau của đường thẳng trên (có sáu cách: Đường thẳng  
AB, đường thẳng AC, …). Khi cho học sinh học về đường thẳng giáo viên phải  
chú ý cho học sinh đọc tên đường thẳng, nói cách viết tên đường thẳng, diễn đạt  
quan hệ giữa các điểm A, B với đường thẳng d bằng cách khác nhau; viết ký  
hiệu Ad, B d. Đối với bài "Ba điểm thẳng hàng" học sinh đã biểu tượng  
"Nhiều điểm thuộc đường thẳng" thì dễ cho học sinh thấy nhiều điểm cùng  
thuộc một đường thẳng thì thẳng hàng, nhiều điểm không thuộc bất kỳ đường  
thẳng nào thì không thẳng hàng. Nhưng khi xét ba điểm thẳng hàng giáo viên có  
thể tả vị trí tương đối của chúng nhờ các thuật ngữ "nằm cùng phía", "nằm  
khác phía", "nằm giữa" để học sinh dễ tiếp nhận vì chúng gần gũi với ngôn ngữ  
thông thường trong cuộc sống hằng ngày.  
Tóm lại: Để giúp học sinh học tốt môn hình học thì trước hết phải hướng  
dẫn học sinh để học sinh có kỹ năng nói, viết, hiệu một cách chính xác,  
không được nhầm lẫn giữa các khái niệm này với các khái niệm khác, giữa hình  
này với hình khác, đối với mỗi bài của chương giáo viên cần chú trọng cách viết  
hiệu, cách sử dụng ngôn ngữ hiệu.  
3.2. Kỹ năng vẽ hình, đọc tên phân biệt các hình và một số chú ý khi dạy:  
Nói đến hình học phải nói đến hình vẽ vậy khâu vẽ hình là vô cùng  
quan trọng, nó là đặc trưng của bộ môn hình học và có vị trí vô cùng quan trọng  
trong việc dạy học môn hình học. Muốn học tốt hình học trước hết phải biết  
vẽ hình. Câu nói này không chỉ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng  
8/20  
Một số biện pháp rèn kỹ năng giải bài tập hình học cho học sinh lớp 6  
công cụ vẽ hình và thao tác vẽ hình, mà còn yêu cầu phân biệt hình học với hình  
vẽ của nó.  
Các khái niệm hình học như điểm, đường thẳng sản phẩm của sự trừu  
tượng hoá các đối tượng hiện thực, các hình học chỉ có trong ý thức của con  
người. Chấm chì để lại trên giấy là hình ảnh của điểm, vết chì vạch theo cạnh  
thước là hình ảnh của đường thẳng. Chấm chì, vạch đường thẳng là hình vẽ cho  
ta hình ảnh trực quan của điểm, đường thẳng … có thể nói mỗi khái niệm, mỗi  
định nghĩa, mỗi nhận xét muốn đúng phải vẽ hình chính xác, nếu vẽ không  
chính xác sẽ dẫn đến việc hiểu sai và rất khó cho việc học tập sau này.  
dụ 1: Vẽ ba điểm A, B, C thẳng hàng.  
Muốn vẽ ba điểm A, B, C thẳng hàng thì phải thoả mãn điều kiện ba  
điểm A, B, C cùng thuộc đường thẳng (hình a) còn nếu ba điểm A, B, C không  
cùng thuộc đường thẳng thì ba điểm A, B, C không thẳng hàng (hình b).  
A
B
C
(hình a)  
(hình b)  
A
C
B
dụ 2: Vẽ hai tia đối nhau Ox, Oy  
Hai tia đối nhau thoả mãn đồng thời hai điều kiện:  
- Chung gốc.  
- Cùng tạo thành một đường thẳng.  
Nếu vi phạm một trong hai điều kiện trên thì không phải là hai tia đối nhau:  
y
x
O
(hình a)  
A
y
x
O
(hình b)  
x
B
y
(hình c)  
hình (a) vẽ hai tia Ox, Oy là hai tia đối nhau là chính xác.  
hình (b) vẽ hai tia Ox, Oy không tạo thành một đường thẳng.  
hình (c) vẽ hai tia Ax, By là hai tia không chung gốc.  
9/20  
Một số biện pháp rèn kỹ năng giải bài tập hình học cho học sinh lớp 6  
Như vậy ở hình (b), (c) không có hai tia đối nhau được.  
dụ 3: Vẽ hai tia trùng nhau OA và Ox  
x
O
A
B
C
x
O
A
(b)  
(a)  
hình (a) vẽ hai tia Ox, Ax tuy có nhiều điểm chung chúng không trùng nhau,  
chúng là hai tia phân biệt. thể hiểu các tia trùng nhau theo phương diện khác,  
đó là các khả năng đặt tên khác nhau cho cùng một tia (ở hình b) tia Ox còn  
được gọi là tia OA, tia OB, OC.  
Về việc giải bài tập, học sinh cần vẽ hình, quan sát, nhận xét quan trọng  
nhất là khâu vẽ hình, thầy phải thường xuyên nhắc nhở những kỹ năng vẽ hình  
cần thiết, yêu cầu học sinh phải vẽ chính xác, có thể dùng bút màu để phân biệt  
hình cần phân biệt. Khi học sinh đã được học đến hai đoạn thẳng bằng nhau,  
phải lưu ý cho học sinh đánh hiệu trên hình vẽ giống nhau. Khi học sinh đã  
bước đầu kỹ năng vẽ hình rồi, thì việc làm bài tập của các em sẽ đỡ vất vả,  
sau này các em còn có thể chứng minh một bài toán hình học mà nhìn vào hình  
vẽ ta có thể tận dụng được triệt để các yếu tố của đầu bài đã cho.  
dụ : Để vẽ ba điểm thẳng hàng, trước hết ta dùng thước vẽ một đường thẳng  
rồi lấy ba điểm thuộc đường thẳng ấy, để vẽ ba điểm không thẳng hàng ta chỉ  
cần vẽ một đường thẳng rồi lấy hai điểm thuộc đường thẳng một điểm không  
thuộc đường thẳng ấy.  
A
B
C
A
C
B
Khi phát biểu điểm C nằm giữa hai điểm A, B. Giáo viên dùng phấn màu  
đậm điểm C để học sinh nhận biết hơn.  
Khi dạy hình học, giáo viên cần lưu ý cho học sinh từng thao tác vẽ hình  
sao cho chính xác, cẩn thận, tránh những thao tác vẽ ẩu, vsai hình.  
Một điều quan trọng hơn hết đó là trong mỗi tiết hình học, mỗi bài cụ thể,  
giáo viên phải cân nhắc kỹ càng, tìm hiểu sâu và rút ra những điểm chú ý nhất,  
từ đó khơi dậy cho các em trí tưởng tượng, cách sử dụng ngôn ngữ diễn đạt,  
cách vẽ hình, cách suy luận logic để sau mỗi bài học các em hiểu sâu và nắm  
chắc kiến thức cơ bản hơn:  
10/20  
Một số biện pháp rèn kỹ năng giải bài tập hình học cho học sinh lớp 6  
Khi dạy ba điểm thẳng hàng, xét đến điểm nằm giữa hai điểm, ta có thể  
tả vị trí tương đối của chúng nhờ các thuật ngữ "nằm cùng phía", "nằm khác  
phía", "nằm giữa" để học sinh tiếp nhận một cách dễ dàng và khi nhận xét ba  
điểm thẳng hàng, cần chú ý nhận xét tính chất ba điểm thẳng hàng: một và  
chỉ một điểm nằm giữa hai điểm còn lại, không có khái niệm " điểm nằm  
giữa" khi “ba điểm không thẳng hàng". Để khắc sâu điểm "điểm nằm giữa"  
giáo viên cần bảng phụ thể hiện các hình vẽ khác nhau sau, không thể nói  
điểm nào nằm giữa hai điểm còn lại.  
Khi dạy bài đường thẳng đi qua hai điểm giáo viên cần chú ý cho học sinh  
cách vẽ đường thẳng, cách đặt tên cho đường thẳng.  
Khi học về tia, học sinh đã được học đường thẳng điểm thuộc đường  
thẳng, một cách tự nhiên là từ nhận xét: "Điểm O trên đường thẳng chia đường  
thẳng thành hai phần đường thẳng riêng biệt" từ đó giới thiệu khái niệm tia bằng  
tả trực quan "Một phần đường thẳng bị chia ra bởi điểm O và tất cả các điểm  
cùng phía với điểm O được gọi một tia gốc O". Nhấn mạnh nhóm từ "Tia gốc  
O" để khêu gợi trí tưởng tượng là tia được giới hạn về phía gốc và không giới  
hạn về phía kia.  
x
O
Việc diễn tả "phần đường thẳng riêng biệt" bằng ngôn ngữ toán học làm rõ dần  
về sau qua bài tập.  
x
A
B
y
Sau khi giới thiệu cho học sinh khái niệm "hai tia đối nhau", cần cho học sinh  
củng cố, đưa ra tình huống: Có hai điểm A, B trên đường thẳng xy, xét xem có  
mấy tia được thành lập, hãy đọc tên các tia đối nhau. Đây hoạt động nhận  
dạng khái niệm, nhằm khắc sâu kiến thức về tia và hai tia đối nhau, hai tia đối  
nhau phải thoả mãn hai điều kiện:  
+ Chung gốc.  
+ Cùng tạo thành một đường thẳng.  
Nhấn mạnh: Nếu vi phạm một trong hai điều kiện trên thì không phải là hai tia  
đối nhau.  
Khi học về đoạn thẳng, sau khi học sinh nắm được khái niệm đoạn thẳng,  
cách vẽ đoạn thẳng, giáo viên cần khắc sâu cho học sinh về đoạn thẳng cắt đoạn  
thẳng, cắt tia, cắt đường thẳng, để cuối cùng học sinh vẽ nhận dạng được.  
Khi dạy về độ dài đoạn thẳng, giáo viên cần lưu ý phân biệt đoạn thẳng với độ  
dài đoạn thẳng: Đoạn thẳng một hình, còn độ dài đoạn thẳng một số, tuy  
nhiên đoạn thẳng AB và độ dài đoạn thẳng AB đều được hiệu là AB. Hai  
11/20  
Một số biện pháp rèn kỹ năng giải bài tập hình học cho học sinh lớp 6  
cách nói "độ dài đoạn thẳng AB" và "khoảng cách giữa hai điểm A và B" cũng  
sự phân biệt tế nhị: Đoạn thẳng AB có độ dài lớn hơn 0, nhưng khoảng cách  
giữa hai điểm A và B bằng 0 khi điểm A trùng với điểm B.  
Sau khi học sinh học xong bài 8: Khi nào AM + MB = AB ? Thì giáo viên  
cần mở rộng cho việc cộng nhiều đoạn thẳng ở hình bên ta có:  
A
B
M
N
P
AM + MN + NP + PB = AB.  
Thật vậy vì N là một điểm của đoạn thẳng AB nên:  
AN + NB = AB.  
Vì M nằm giữa A, N nên: AM + MN = AN.  
Vì P nằm giữa N, B nên: NP + PB = NB.  
Từ đó suy ra: AM + MN + NP + PB = AB.  
Khi dạy về "Trung điểm của đoạn thẳng" bằng quan sát trực quan về trung  
điểm của đoạn thẳng, ta có thể diễn tả trung điểm của đoạn thẳng AB bằng các  
cách khác nhau:  
A
M
B
Cách 1: M là trung điểm của đoạn thẳng AB.  
Cách 2: Nếu MA+ MB = AB và MA = MB thì M là trung điểm của đoạn thẳng  
AB.  
AB  
Cách 3: Nếu MA MB   
thì M là trung điểm của đoạn thẳng AB.  
2
3.3. Kỹ năng thực hành:  
Đối với hình học lớp 6, về kỹ năng thực hành của học sinh cũng rất là  
quan trọng, qua lý thuyết, giáo viên có thể lồng ghép yêu cầu học sinh thực hành  
để một lần nữa khẳng định kiến thức vừa lĩnh hội một cách chắc chắn. Chẳng  
hạn sau khi học về đường thẳng, giáo viên có thể yêu cầu học sinh thực hành  
ngay tại lớp thông qua bài tập: (Sách giáo khoa – trang 105). Yêu cầu mỗi học  
sinh gấp giấy để có hình ảnh đường thẳng hoặc là khi dạy "Trung điểm của đoạn  
thẳng", giáo viên yêu cầu học sinh dùng sợi dây, hai mút của đoạn thẳng là hai  
đầu sợi dây. Yêu cầu học sinh xác định trung điểm của đoạn thẳng sợi dây đó  
như thế nào? Hoặc cách vẽ trung điểm M của đoạn thẳng AB được nêu dưới  
dạng bài tập, yêu cầu học sinh giải bằng hai cách:  
AB  
Cách 1: Vẽ điểm M trên tia AB sao cho AM   
2
Cách 2: Gấp giấy.  
12/20  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 19 trang minhvan 25/07/2025 180
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp rèn kỹ năng giải bài tập hình học cho học sinh lớp 6", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_ren_ky_nang_giai_bai_tap_hinh_hoc_cho.doc