SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Toán cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học Vạn Khánh 2
Như chúng ta đã biết, Toán học có vai trò rất quan trọng đối với đời sống và các ngành khoa học. Đồng thời môn Toán là một môn học có tính liên tục (giáo dục đồng tâm), nếu chúng ta không khéo trong phương pháp giảng dạy thì rất khó tạo được hứng thú cho các em học tốt và say mê học Toán.
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VẠN NINH
TRƯỜNG TIỂU HỌC VẠN KHÁNH 2
SÁNG KIẾN
Tên đề tài: Một số biện pháp nâng cao chất lượng
dạy học môn Toán cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học
Vạn Khánh 2.
TÁC GIẢ : LƯU QUỐC THỊNH
Năm học: 2018 - 2019
1
MỤC LỤC
Trang
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1
1
1
1
1
2
2
2
2
3
4
4
5
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử của đề tài
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
5. Giới hạn (phạm vi) nghiên cứu
6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận của vấn đề
2. Thực trạng của vấn đề
3. Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề
3.1. Xác định đặc điểm và trình độ học sinh
3.2. Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa hoặc các tài
liệu dạy học
3.2.1. Số thập phân và các phép tính với số thập phân
3.2.2. Đại lượng và đo đại lượng
3.2.3. Bài toán có yếu tố hình học
3.2.4. Giải toán có lời văn
6
7
10
10
11
11
12
3.2.5. Bài toán về thống kê
3.2.6. Hình thành kĩ năng tư duy ngôn ngữ
3.3. Lựa chọn phương pháp và chuẩn bị câu hỏi mang tính
hệ thống
3.4. Chuẩn bị đồ dùng dạy học, phương tiện và hình thức
12
chức dạy học
3.5. Phân phối thời gian dự kiến cho từng hoạt động
4. Hiệu quả của đề tài
13
14
14
14
15
15
15
III. KẾT LUẬN
1. Đúc kết lại những nội dung chính đã trình bày
2. Đề ra biện pháp triển khai, áp dụng đề tài vào thực tiễn
3. Nêu kiến nghị, đề xuất (nếu có)
4. Hướng phát triển của đề tài
2
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Lý do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, Toán học có vai trò rất quan trọng đối với đời sống và
các ngành khoa học. Đồng thời môn Toán là một môn học có tính liên tục (giáo dục
đồng tâm), nếu chúng ta không khéo trong phương pháp giảng dạy thì rất khó tạo
được hứng thú cho các em học tốt và say mê học Toán.
Trong chương trình môn học ở bậc Tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng,
môn Toán chiếm số giờ rất lớn. Việc nâng cao hiệu quả của dạy và học môn Toán
là yêu cầu bức thiết hiện nay, là giáo viên đang giảng dạy tôi luôn suy nghĩ, tìm tòi
và học hỏi phải làm như thế nào để các em thích thú với môn học vừa khó vừa khô
như thế.
Mặt khác đặc điểm nhận thức của học sinh là năng lực phân tích, tổng hợp
chưa cao, tri giác thường dựa vào hình dạng bên ngoài, nhận thức chủ yếu dựa vào
cái quan sát được…Đến lớp 5 trí tưởng tượng của học sinh đã phát triển nhưng vẫn
phụ thuộc vào mô hình mẫu vật thật, suy luận của học sinh đã phát triển song vẫn
còn là một dãy phán đoán, nhiều khi còn cảm tính.
Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn đưa ra sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao
chất lượng dạy học môn Toán cho học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Vạn Khánh 2.
2. Lịch sử của đề tài:
Đề tài được bắt đầu vào tháng 8/2018 và kết thúc vào tháng 12/2018.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Mục đích của nghiên cứu là đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng dạy học môn Toán ở lớp 5.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu:
4.1. Nhiệm vụ:
Chỉ ra những cơ sở lí luận thực tiễn của việc hướng dẫn học sinh lớp 5 học
tập môn Toán thông qua việc thực nghiệm bản thân nhằm giúp cho việc dạy học có
hiệu quả hơn.
Thực nghiệm dạy học theo hướng tích cực các hoạt động học tập của học
sinh bằng phiếu bài tập, đồ dùng trực quan, vật mẫu (thu nhỏ).
Tìm ra những nguyên nhân, giải pháp, ý kiến nhằm khắc phục khó khăn nâng
cao chất lượng dạy học môn Toán.
Tổng kết, đánh giá và rút ra bài học kinh nghiệm, nêu ý kiến đề xuất của bản
thân.
4.2. Phương pháp:
Phương pháp sư phạm.
3
Nhóm phương pháp điều tra: Quan sát điều tra từ kết quả thực hiện của học
sinh, phỏng vấn, kiểm tra đánh giá.
Nhóm phương pháp phân tích, tổng hợp, xử lý tình huống trong giảng dạy.
Phương pháp quan sát.
Phương pháp trao đổi
Phương pháp thực nghiệm.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
5. Giới hạn (phạm vi) nghiên cứu:
Đề tài được thực nghiệm trên học sinh lớp 5 mà tôi chủ nhiệm trong năm học
2017-2018, kết quả cuối năm được so sánh với năm học 2016-2017, khi chưa áp
dụng đề tài.
6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu:
Giải pháp tôi đưa ra là góp phần hoàn thiện cho học sinh các kĩ năng Toán
học ở Tiểu học. Qua đó phát huy niềm vui khi học Toán cho các em. Đồng thời
cũng góp phần phát triển tư duy ngôn ngữ, rèn luyện các đức tính tốt cho học sinh.
Để việc tổ chức học Toán có hiệu quả, tôi đã tiến hành các bước sau:
- Xác định đặc điểm và trình độ học sinh.
- Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa và các tài liệu dạy học.
- Lựa chọn phương pháp và chuẩn bị câu hỏi mang tính hệ thống.
- Chuẩn bị đồ dùng dạy học, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học.
- Phân phối thời gian dự kiến cho từng hoạt động.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Cơ sở lý luận của vấn đề:
Môn Toán 5 là một môn học luyện tập, thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất
của nó là hình thành năng lực học Toán cho học sinh thông qua 6 yêu cầu về kiến
thức, kĩ năng như sau:
1.1. Về số và phép tính:
Bổ sung những hiểu biết về cần thiết về phân số thập phân, hỗn số để chuẩn
bị học số thập phân.
Ôn tập củng cố, hệ thống hoá những kiến thức và kĩ năng cơ bản về số và
phép tính với số tự nhiên, phân số và số thập phân.
1.2. Về đo lường:
4
Biết tên gọi, kí hiệu, quan hệ giữa các đơn vị đo diện tích, thể tích thông
Biết viết các số đo độ dài, khối lượng, diện tích, thể tích, thời gian dưới dạng
dụng.
số thập phân.
1.3. Về hình học:
Nhận biết được hình thang, hình hộp chữ nhật, hình lập phương, hình trụ,
hình cầu và một số dạng của hình tam giác.
Biết tính chu vi, diện tích hình tam giác, hình thang, hình tròn.
Biết tính diện tích xung quanh, diện tích toàn phần, thể tích hình hộp chữ
nhật, hình lập phương.
1.4. Về giải toán có lời văn:
Biết giải và trình bày bài toán theo 4 bước.
Một số dạng toán về quan hệ tỉ lệ.
Các bài toán về tỉ số phần trăm.
Các bài toán có nội dung hình học liên quan đến các hình đã học.
1.5. Về các yếu tố thống kê:
Biết đọc các số liệu trên biểu đồ hình quạt.
Bước đầu biết nhận xét về một số thông tin đơn giản thu thập trên biểu đồ.
1.6. Về phát triển ngôn ngữ, tư duy và góp phần hình thành nhân cách
của học sinh:
Biết diễn đạt một số nhận xét, quy tắc, tính chất…bằng ngôn ngữ (nói, viết)
ở dạng khái quát.
Tiếp tục phát triển năng lực phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, cụ thể hóa;
bước đầu hình thành và phát triển tư duy phê phán, sáng tạo; phát triển trí tưởng
tượng không gian…
Tiếp tục rèn luyện các đức tính: chăm học, cẩn thận, tự tin, trung thực, có
tinh thần trách nhiệm. . .góp phần hình thành nhân cách.
2. Thực trạng của vấn đề:
Ở trường Tiểu học hiện nay, việc dạy Toán bên cạnh những thành công vẫn
còn nhiều hạn chế. Học sinh tính toán còn chậm, chưa thành thạo như mong muốn,
kết quả tính toán của các em chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kĩ
năng tính toán. Các em chưa nắm được công cụ hữu hiệu để lĩnh hội tri thức, nội
dung, kiến thức trong bài học và mối liên quan chặt chẽ với các bài học khác.
Giáo viên tiểu học còn lúng túng khi dạy Toán, chưa thực sự nắm bắt xuyên
suốt nội dung chương trình. Nhất là việc đổi mới chương trình đòi hỏi sự đổi mới
trong phương pháp dạy của giáo viên và học của học sinh. Việc đởi mới phương
pháp cần đảm bảo các yếu tố sau: Cần truyền thụ nội dung, kiến thức sao cho hiệu
5
quả nhất ? Biện pháp gì để phát triển năng lực học tập Toán phù hợp với từng năng
lực học sinh ? Bằng những phương pháp tích cực nào để học sinh lĩnh hội tri thức
một cách chủ động, sáng tạo nhất ? Để từ đó các em vận dụng vào đời sống và các
ngành khoa học.
Đó là những trăn trở của giáo viên nói chung và bản thân tôi nói riêng.
Từ những mục đích, yêu cầu và nhiệm vụ môn Toán, để học sinh học tốt
môn Toán 5, tôi xin đề ra một số biện pháp sau:
3. Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề:
Quyển sách giáo khoa đầu tiên người giáo viên cần nghiên cứu chính là học
sinh của mình đang trực tiếp giảng dạy.
3.1. Xác định đặc điểm và trình độ học sinh:
Để tiến hành dạy học Toán, chúng ta phải hiểu rõ học sinh của mình, đặc
điểm trình độ từng đối tượng học sinh, cụ thể các em đã có kĩ năng, kĩ xảo tính toán
gì và chưa hệ thống tốt ở nhóm kiến thức nào, dạng toán giải có lời văn nào. . . Từ
đó, giáo viên phát huy điểm mạnh và sửa chữa sai lầm của các em. Sự hiểu biết này
giúp chúng ta xác định tính vừa sức, tính mức độ của nội dung kiến thức. Và từ đó
nâng dần kĩ năng tính toán cho từng đối tượng học sinh. Chẳng hạn các em đặt tính
cộng trừ số thập phân như số tự nhiên nên dấu phẩy chưa thẳng hàng, dẫn đến sai
kết quả tính.
Bằng những ví dụ cụ thể, giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện cộng trừ số
thập phân qua nhận biết sự tương tác giữa các phép cộng trừ số thập phân (lớp 5)
với các phép cộng trừ số tự nhiên (các lớp dưới). Giáo viên lưu ý cho học sinh
thêm chữ số 0 vào bên phải phần thập phân để các số tham gia vào phép tính có
cùng số chữ số ở phần thập phân.
Ví dụ: Thực hiện các phép tính sau:
4,3 + 0,65 = . . .
35,25 - 8,774 = . . .
35,250
4,30
+0,65
4,95
-
8,774
26,476
Đồng thời nắm trình độ của cả lớp, giáo viên phải biết rằng mỗi em là một cá
thể nên cần cá thể hoá trong dạy học Toán. Không gian lớp học cũng được khai
thác triệt để để dạy học Toán.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Hình hộp chữ nhật”, “Thể tích hình hộp chữ nhật”, căn
phòng các em ngồi học là hình hộp chữ nhât (trần có đóng la –phông hoặc bê-tông)
và các em đang ngồi trong thể tích của hình hộp chữ nhật. Hay đến các dạng bài ôn
tập, luyện tập – Ví dụ bài 1/168 cho học sinh phát hiện diện tích cần sơn hoặc quét
vôi không phải là diện tích cửa sổ, cửa đi và nền nhà mà chỉ là diện tích xung
quanh và diện tích trần nhà (diện tích một mặt đáy).
6
Quyển sách tiếp theo mà ngươì giáo viên cần nghiên cứu là chương trình
sách giáo khoa, các tài liệu liên quan khác.
3.2. Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa hoặc các tài liệu dạy học:
Tôi xem lại chương trình cả cấp học và lớp học mà tôi được phân công, bắt
đầu từ mục tiêu môn học. Đồng thời tìm hiểu trước để nắm toàn bộ nội dung sách
giáo khoa, từng chương, từng nhóm kiến thức . .. khối lớp mà tôi sẽ dạy.
Học xong Toán lớp 5, học sinh phải đạt chuẩn kiến thức và kĩ năng về:
- Khái niệm ban đầu về số thập phân, cộng trừ, nhân chia số thâp phân và tỉ
số phần trăm.
- Nhận biết về biểu đồ hình quạt và ý nghĩa thực tế của nó, biết thu thập và
xử lí thông tin đơn giản trừ một biêủ đồ hình quạt.
- Chuyển đổi thành thạo các đơn vị đo từ lớn đến bé, từ bé đến lớn của các
bảng đơn vị đo độ dài, khối lượng, diện tích, thể tích, thời gian và vận tốc.
- Nhận biết đặc điểm, từ đó tính được diện tích các hình tam giác, hình
thang. Nhận biết được đường tròn, hình tròn, bán kính, đường kính. Từ đó có kĩ
năng tính chu vi, diện tích của hình tròn và một tổ hợp hình. Biết một số đặc điểm
của hình hộp chữ nhật, hình lập phương, hình trụ, hình cầu và có kĩ năng tính SXQ
,STP, thể tích của hình hộp chữ nhật, hình lập phương.
- Biết giải và trình bày các bài toán đến bốn bước tính về: Quan hệ tỉ lệ, tỉ số
phần trăm, toán chuyển động đều và bài toán có nội dung hình học.
Trước tiên giáo viên cần phân tích kĩ nội dung, kiến thức bài dạy. Đối với
những bài học có liên quan và vận dụng vào thực tế, giáo viên cho học sinh tự liên
hệ từ ví dụ và trực tiếp cân, đo, đếm. . .để thấy được vai trò quan trọng của môn
Toán trong đời sống con người.
Đối với học sinh chưa hoàn thành cần cho lượng bài tập vừa đủ để học sinh
luyện tập và củng cố kiến thức, không nên cho một lượng bài tập quá tải, quá khó
để các em nản mà nghĩ mình làm không được.
Những bài tập nâng dần từ bài dễ đến bài khó, giáo viên chỉ cho học sinh
chưa hoàn thành thực hành bài các em tính toán được. Những bài khác cho thảo
luận dưới sự hướng dẫn của giáo viên nếu còn thời gian, cho các em làm tại lớp
hoặc về nhà làm lại, tiết sau giáo viên kiểm tra.
Việc dạy học phải phù hợp theo từng đối tượng học sinh. Ở lớp, tôi chia học
sinh theo 3 nhóm đối tượng: học sinh hoàn thành tốt, học sinh hoàn thành và học
sinh chưa hoàn thành. Tôi đặc biệt quan tâm đến nhóm đối tượng học sinh chưa
hoàn thành. Tôi cho các em thảo luận đi đến thống nhất những dữ liệu cho biết dễ
phát hiện và tìm những dữ liệu cần tìm cùng với sự hướng dẫn của giáo viên; cho
các em xác lập mối liên trong các dữ liệu; cho học sinh nhắc lại công thức áp dụng
và đi đến thống nhất lời giải, trình bày bài toán cùng với việc động viên, khuyến
kích kịp thời. Đối với học sinh hoàn thành tốt, giáo viên khéo léo đặt tình huống có
vấn đề để cho các em khỏi so bì mình được giao việc khó hơn, tự phát huy năng lực
7
phát hiện, sáng tạo và tìm cách giải khác. Đối với nhóm đối tượng học sinh hoàn
thành tốt nên có lời khen cho các em sau khi các em đã phát hiện một cách sáng tạo
có hệ thống.
3.2.1. Số thập phân và các phép tính với số thập phân:
Theo mục tiêu dạy và học về số và phép tính cũng giống như mục tiêu dạy
và học số tự nhiên và phân số, ngoài ra do tính chất đặc thù của khái niệm số thập
phân, giáo viên cần lưu ý số thập phân không dùng để ghi các số đo đại lượng khi
đúng một số nguyên lần đơn vị đo.
Chẳng hạn: Cho học sinh dùng thước đo 1m có vạch ghi rõ đề-xi-mét, xăng-
ti-mét, mi-li-mét thực hành đo chiều dài cạnh bàn mà các em ngồi học hằng ngày.
Lần thứ nhất đo được 1m nhưng chưa đủ 2m. Lần thứ hai đo phần dư còn lại bằng
đơn vị đề-xi-mét và đo được 4dm, phần dư còn lại không đủ 1 dm, đo phần dư này
được 5cm là vừa hết.
Giáo viên cho học sinh ghi kết quả 1m4dm5mm. Sau đó cho học sinh chuyển
đổi về kết quả đo theo cùng một đơn vị đo:
4
5
145
100
1m4dm5cm=1m+ m+
m=
m=1,45m
10
100
5
145
1m4dm5cm=10dm+4dm+ dm=
dm=14,5dm
10
10
1m4dm5cm=100cm+40cm+5cm=145cm
Cách chuyển đổi này mà các em đã thường luyện tập sau phần lí thuyết, giáo
viên cần khuyến khích học sinh về áp dụng trong thực tế gắn học với hành, nhà
trường với đời sống.
Bằng các ví dụ cụ thể, giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện các phép
cộng, trừ các số thập phân, cho học sinh nhận biết sự tương tác giữa phép cộng, trừ
các số thập phân với phép cộng, trừ các số tự nhiên. Giáo viên cần khắc sâu cho
học sinh cấu tạo số thập phân gồm hai phần: phần nguyên và phần thập phân.
Chẳng hạn:
26,82
9,37
2682
937
+
+
36,19
3619
Khi thực hiện tính cộng, trừ số thập phân, giáo viên nên lưu ý cho học sinh
thêm số 0 vào bên phải phần thập phân để các số tham gia vào phép tính có cùng
một chữ số thập phân.
Ví dụ: Thực hiện các phép tính sau đây: 5,3+0,62
0,72-0,644
5,50
+ 0,62
6,12
0,720
-0,644
0,076
8
Khi thực hiện nhân, chia các số thập phân, giáo viên cho học sinh nhắc lại
nhân, chia số tự nhiên cho một số khác không của các số tự nhiên, sau đó hình
thành nhân, chia số thập phân. Đối với phép nhân, giáo viên rèn kĩ năng theo ba
bước: “Nhân Đếm Tách”. Trong chương trình dạy và học, ngoài nhân, chia
nhẩm với 10;100;100. .. hay nhân chia nhẩm với 0,1;0,01;0,001. . .còn có chia một
số thập phân cho một số tự nhiên, chia một số tự nhiên cho một số tự nhiên mà
thương tìm được là một số thập phân, chia một số tự nhiên cho một số thập phân,
chia một số thập phân cho một số thập phân. Các phép chia này có cách gọi khác
nhau như vậy nhưng khi thực hiện qua bước một (chuyển và bỏ dấu phẩy) thì chỉ là
phép chia một số tự nhiên cho một số tự nhiên mà thương tìm được là một số tự
nhiên hay một số thập phân mà thôi.
Ví dụ: 24,12:12
hay
2412:1200
Khi dạy phép chia số thập phân, GV cần giải thích rõ cho học sinh bản chất
của gạch bỏ dấu phẩy của số chia là nhân số chia với 10;100;1000…Và khi gấp số
chia lên bao nhiêu lần thì cũng phải gấp số bị chia lên bấy nhiêu lần để thương
không thay đổi.
Đối với phép chia số thập phân có dư, giáo viên cần khắc sâu cho học sinh
phép chia dư trong phép chia có thương là các số tự nhiên thì số dư là duy nhất,
nhưng phép chia có thương là số thập phân thì thương không phải là duy nhất.
Ví dụ:
16 3
16
3
16
10
10
3
1 5(dư 1)
10 5,3(dư 0,1)
5,33(dư 0,01)
1
1
Giáo viên cần lưu ý cho học sinh đánh dấu phẩy chính xác ở thương và xác
định số dư thuộc hàng phần nào của số thập phân: Vì thương là 5,3 có hàng phần
1
mười nên số dư là ; thương là 5,33 hàng phần cuối cùng là hàng phần trăm nên số
10
1
dư là
. Nếu học sinh chưa hoàn thành còn lúng túng thì giáo viên phải đặt thước
100
sau hàng đơn vị giúp các em xác định số dư chính xác.
3.2.2. Đại lượng và đo đại lượng:
Dạy và học đo lường là hình thành kĩ năng thực hành, năng lực tư duy của
học sinh. Giáo viên hình thành cho các em những đại lượng thường gặp trong đời
sống, thực hành đo trực tiếp hay gián tiếp phép đo đại lượng, sử dụng cụ đo, biểu
diễn kết quả đo diện tích, thể tích, thời gian, vận tốc và tổng kết, hệ thống hoá kiến
thức về đo lường.
Giáo viên nên chọn một đơn vị để dạy mẫu tỉ mĩ cho học sinh nắm chắc mối
quan hệ giữa đơn vị đo độ dài với đơn vị đo diện tích, thể tích. Giáo viên hướng
dẫn cho học sinh phát hiện cm2, dm2, m2, dm3, cm3 . . . chỉ là kí hiệu dễ nhớ và có
9
thể suy ra được từ đơn vị đo độ dài. Từ đó học sinh suy ra bảng hệ thống đơn vị
diện tích, thể tích nhờ bảng đơn vị đo độ dài.
Về đo diện tích, thể tích: Đại lượng diện tích và đại lượng thể tích đều là
những đại lượng dẫn xuất. Diện tích hình vuông, hình chữ nhật được đưa vào lớp 3,
diện tích hình thoi, hình bình hành được đưa vào lớp 4, ở lớp 5 học sinh tiếp tục
làm quen với tính diện tích hình tam giác, hình thang, hình tròn và tính SXQ , STP,
thể tích hình hộp chữ nhật, hình lập phương. Nhờ đã học đại lượng đo độ dài và
phép đo độ dài nên học sinh đã có hiểu biết nhất định về đại lượng và phép đo đại
lượng. Vì thế, nên cho học sinh làm quen ngay với tính chất đo được, cộng được và
so sánh thông qua so sánh trực tiếp hoặc gián tiếp giá trị diện tích của đồ vật cụ thể
hoặc các hình học.
Ví dụ: Giáo viên cho học sinh nhận xét 4 nửa hình tròn nằm trong gọn trong
hình vuông nên diện tính hình tròn nhỏ hơn diện tích hình vuông.
Hoặc: Cho học sinh xếp đầy những khối hình lập phương một hình hộp chữ
nhật, sau đó cho học sinh xếp toàn bộ khối hình lập phương trên đây thành một
khối hình hộp chữ nhật khác, từ đó so sánh hai thể tích bằng nhau.
Trong phép đo thể tích chỉ cần xây dựng công thức tính thể tích hình hộp chữ
nhật một cách trực tiếp rồi suy ra công thức tính thể tích hình lập phương.
Về thời gian: Giáo viên hình thành kĩ năng luyện tập thành thạo 4 phép tính
cộng trừ, nhân chia trên tập hợp số tự nhiên và nắm chắc quy tắc chuyển đổi các
đơn vị đo thời gian theo từng nhóm.
Ví dụ: 3ngày7giờ
+2giờ 55phút
8giờ30phút
-6giờ40phút
1giờ90phút
2giờ40phút
x
5
12giờ00phút
Cách đặt tính này sai, vì các số đo trong mỗi cột dọc không cùng một loại
đơn vị đo và học sinh còn lẫn lộn với cộng, trừ, nhân, chia số tự nhiên và số thập
phân.
Để khắc phục sai lầm, giáo viên cần giúp học sinh biết đặt tính đúng cột dọc
phải cùng loại đơn vị và lưu ý khắc sâu cho học sinh: Phép cộng, trừ đơn vị đo thời
gian chỉ thực hiện được đối với hai đại lượng cùng loại và số đo cùng một đơn vị
và số bị trừ phải chuyển đổi 1 đơn vị lớn hơn tiếp liền để số bị trừ lớn hơn số trừ ở
cùng loại đơn vị đo.
8giờ30phút
-6giờ40phút
Đổi thành:7giờ 90phút
2giờ40phút
-
x
6giờ 40phút
5
1giờ 50phút
10giờ200phút
=
13giờ 20phút
Về vận tốc: Giáo viên hình thành kĩ năng cho học sinh về biểu tượng vận tốc,
đơn vị vận tốc là vận tốc trung bình hay nói vắn tắt là vận tốc. Kĩ năng nhận biết và
10
tính vận tốc của chuyển động đều trên đường bộ, đường sắt, đường hàng không và
đường thủy.
Khi dạy toán chuyển động đều, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hướng giải
theo các hướng sau:
- Nhắc lại công thức tính hoặc những kiến thức cần thiết có liên quan.
- Liệt kê những dữ kiện đã cho và phải tìm.
- Quan sát các dữ kiện nào thay thế được vào công thức, còn dữ kiện nào
phải tìm.
- Lập mối quan hệ giữa các yếu tố đã cho và các yếu tố nào phải tìm, có thể
lập mối quan hệ giữa các yếu tố đã cho để tìm các yếu tố cần cho công thức hoặc
cần cho những yếu tố cần phải tìm (có thể sử dụng phương pháp giải toán).
- Thay các yếu tố đã cho và các yếu tố tìm được vào công thức để tính theo
yêu cầu.
- Giáo viên nên cho học sinh đọc đề và phát hiện dạng toán chuyển động đều
có một hay hai động tử đang chuyển động và chúng chuyển động như thế nào với
nhau.
+ Khi có hai động tử chuyển động ngược chiều, cùng chiều với nhau (với
chuyển động thực tế trên đường bộ, đường sắt và đường hàng không), giáo viên
nên cho học sinh liên hệ thực tế trong cùng một giờ vận tốc ở A và ở B đều cùng
chuyển động trên cùng một quãng đường, hay hai vận tốc xuất phát cùng chiều
khác thời gian trên cùng một quãng đường cần phải đuổi kịp. Để học sinh phát hiện
tìm ra công thức có hai động tử đang chuyển động.
Scùng chiều= T x ( V1-V2) T = S:(V1-V2) (Hiệu hai vận tốc)
Sngược chiều =T x ( V1 +V2) T = S:(V1+V2) (Tổng hai vận tốc)
+ Khi hai động tử chuyển động ngược dòng, xuôi dòng (chuyển động trên
đường thuỷ), giáo viên cho học sinh liên hệ thực tế, nhận biết do sức đẩy của dòng
nước chảy và đưa ra hướng giải.
Vxuôi dòng = Vthực + Vdòng nước
Vngược dòng = Vthực - Vdòng nước
Và từ đó biết tìm ra vận tốc thực : Vthực = Vxuôi dòng -Vngược dòng
- Ngoài ra trong chương trình toán chuyển động đều có bài dạng toán hai vòi
nước chảy cùng đày bể, hai người thợ cùng làm xong một công việc nào đó . . .
Giáo viên nên hướng cho học sinh nhận biết nước chảy đầy bể hay làm xong công
việc chính là quãng đường, mỗi giờ chảy được hay mỗi giờ làm được chính là vận
tốc. Từ đó các em dựa vào công thức và tìm dữ liệu để giải toán.
11
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Toán cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học Vạn Khánh 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_day_hoc_mon_toan_c.doc