SKKN Một số biện pháp giúp học sinh phát huy tính tích cực khi học phân môn Địa lí ở lớp 4
Đổi mới phương pháp dạy học Tiểu học nói chung và ở phân môn Địa lí nói riêng là hoạt động thiết thực, cần thực hiện thường xuyên góp phần nâng cao chất lượng dạy học, tạo mọi điều kiện để học sinh có thể tiếp thu và lĩnh hội kiến thức một cách tích cực, tự lực và biết vận dụng sáng tạo tri thức để giải quyết các vấn đề trong học tập và cuộc sống.
UBND QUẬN THANH XUÂN
TRƯỜNG TIỂU HỌC HẠ ĐÌNH
--------------*--------------
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC
KHI HỌC PHÂN MÔN ĐỊA LÍ
Ở LỚP 4
Tên tác giả
: Vũ Thu Trang
Lĩnh vực/ Môn : Địa lí
Cấp học
: Tiểu học
NĂM HỌC 2019 - 2020
1/17
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
Phần thứ nhất: Đặt vấn đề
I. Lí do chọn đề tài
3
3
4
4
5
5
5
5
5
6
II. Cơ sở lí luận
III. Cơ sở thực tiễn
IV. Đối tượng nghiên cứu
V. Khách thể nghiên cứu
VI. Mục đích nghiên cứu
Phần thứ hai: Giải quyết vấn đề
I. Những biểu hiện cơ bản của phương pháp dạy học tích cực
II. Các phương pháp, kĩ thuật trong dạy học tích cực
III. Áp dụng các kĩ thuật, phương pháp dạy học vào một số bài
10
cụ thể
IV. Kết quả
10
11
12
12
13
14
Phần thứ ba: Kết luận và khuyến nghị
I. Kết luận
II. Khuyến nghị
Danh mục viết tắt
Tài liệu tham khảo
2/17
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài
Trong bối cảnh toàn ngành giáo dục đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực chủ động học tập của học sinh thì phương pháp
dạy học thực sự rất hữu hiệu giúp GV chỉ đạo, tổ chức các hoạt động học tập
nhằm giúp HS chủ động, tích cực trong học tập và đạt các mục tiêu dạy học ở
tất cả các môn học nói chung và phân môn Địa lí trong chương trình lớp 4 nói
riêng.
Phân môn Địa lí là một môn học mới trong chương trình Tiểu học lớp 4, có
phạm trù rộng lớn và có tính thực nghiệm. Nó không chỉ dừng lại ở việc mô tả
các sự vật hiện tượng địa lí trên bề mặt Trái đất mà còn giải thích, phân tích, so
sánh tổng hợp các yếu tố địa lý cũng như giúp HS thấy được mối quan hệ giữa
chúng với nhau. Đồng thời nó còn giáo dục các em việc phát hiện, khai thác,
sử dụng, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường một cách hợp lí nhằm góp
phần tích cực vào việc xây dựng kinh tế - xã hội, góp phần bảo vệ an ninh của
Tổ quốc.
Qua thực tế nhiều năm giảng dạy chương trình lớp 4, trong đó có phân môn
Địa lí, tôi nhận thấy nhiều giáo viên và HS còn cho rằng phân môn Địa lí là
môn phụ, môn học thuộc lòng, chỉ cần cho các em tìm hiểu kiến thức thông
qua các câu hỏi trong SGK và cho HS đọc nhiều lần để rút ra kết luận của bài
học. Với phương pháp dạy học như vậy dẫn đến các em có thói quen ghi nhớ
kiến thức máy móc. Chính vì thế việc ghi nhớ các kiến thức của các em không
lâu bền, các em dễ nhầm lẫn các kiến thức với nhau.Quan trọng hơn là phương
pháp học như vậy không phát huy tính tích cực học tập của từng học sinh, giáo
viên không phân hóa được đối tượng trong quá trình dạy học. Bên cạnh đó Địa
lí cũng là phân môn mới mẻ có nhiều kiến thức trừu tượng với HS lớp 4 nên
các em cũng gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận môn học.
Đổi mới phương pháp dạy học Tiểu học nói chung và ở phân môn Địa lí
nói riêng là hoạt động thiết thực, cần thực hiện thường xuyên góp phần nâng
cao chất lượng dạy học, tạo mọi điều kiện để học sinh có thể tiếp thu và lĩnh
hội kiến thức một cách tích cực, tự lực và biết vận dụng sáng tạo tri thức để
giải quyết các vấn đề trong học tập và cuộc sống. Vì vậy, việc rèn luyện kĩ
năng cho học sinh là một trong những mục đích và nhiệm vụ quan trọng. Cùng
với các môn học khác, môn Địa lí góp phần bồi dưỡng cho học sinh ý thức
trách nhiệm, lòng ham hiểu biết khoa học, tình yêu thiên nhiên, con người và
đất nước. Theo đó, mục tiêu của môn Địa lí chú trọng đến việc hình thành và
rèn luyện cho học sinh các năng lực cần thiết của người lao động mới. Để đạt
được mục tiêu này thì cần thiết phải có sự đổi mới sách giáo khoa và phương
pháp dạy học một cách phù hợp và tương xứng. Để góp phần vào đổi mới
phương pháp dạy học, tôi mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp
giúp học sinh phát huy tính tích cực khi học phân môn Địa lí ở lớp 4”.
3/17
II. Cơ sở lí luận
Môn Địa lí là môn học mới đối với HS mới chuyển từ lớp 3 lên do vậy HS
chưa quen với phương pháp học tập của môn học này.
Học sinh lần đầu tiên được làm việc nhiều với bản đồ, lược đồ, tranh ảnh để
tìm hiểu nội dung của bài.
Việc quan sát các sự vật, hiện tượng địa lí, tìm tòi tư liệu, cách trình bày kết
quả bằng lời nói, cách diễn đạt còn hạn chế và sơ sài .
Việc quan sát, phân tích số liệu trên bản đồ, lược đồ, kỉ năng chỉ bản đồ còn
rất lúng túng .
Chất lượng của mỗi lớp không đồng đều, một số học sinh nhận thức chưa
cao nên việc tiếp thu bài còn chậm.
III. Cơ sở thực tiễn
Qua một thời gian giảng dạy, chúng tôi nhận thấy rằng chất lượng học sinh
không đồng đều. Một số học sinh ít được tiếp xúc về thế giới bên ngoài nên
các em phân tích bảng số liệu, đọc và chỉ bản đồ, lược đồ còn lúng túng, thậm
chí có học sinh chưa biết chỉ đúng bản đồ, lược đồ ..
HS còn chưa mạnh dạn tự tin khi giao tiếp, các kỹ năng sống chưa được tích
lũy và hoàn thiện tích cực.
Khả năng tự học còn hạn chế, việc tìm hiểu khám phá kiến thức còn ít nên
việc lĩnh hội kiến thức đạt kết quả chưa cao.
HS chưa có niềm yêu thích với môn học nên hầu như không có nhu cầu tìm
hiểu các kiến thức địa lí.
Do vậy, hiểu biết thực tế cuộc sống của HS chưa cao, HS chưa ứng dụng
được các kiến thức đã học để giải quyết các tình huống thực tiễn. Vì vậy, tôi
đã nghiên cứu và vận dụng các phương pháp dạy học mới để cải tiến quá trình
dạy học giúp HS có thể biến kiến thức thành hành động cụ thể trong thực tiễn
có như vậy mới đạt được mục tiêu của bài học.
Một số giáo viên chưa thật mặn mà và yêu thích môn học, việc đổi mới các
phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh còn hạn chế và chưa
mạnh dạn, chưa tuyên truyền sâu rộng đến tận các bậc phụ huynh và các em
học sinh nên chưa làm cho các em thật sự yêu thích môn Địa lí
4/17
Giáo viên dạy theo phương pháp truyền thống. Học sinh tiếp thu kiến thức
thụ động. Giờ học còn mang nặng lý thuyết, chưa nhẹ nhàng và phong phú, sôi
nổi.
IV. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng dạy Địa lí và một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh.
V. Khách thể nghiên cứu
- Học sinh lớp 4A2
VI. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng việc dạy và học Địa lí , trên cơ sở đó đề xuất một vài
biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Địa lí 4.
VII. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Lí luận
- Thực trạng
- Đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Địa lí lớp 4.
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Để dạy học phát huy được tính tích cực chủ động của HS trong học tập thì
trước hết người GV phải có kiến thức cần thiết cho việc đổi mới thì mới sử
dụng được chúng trong dạy học đáp ứng “Đổi mới căn bản – toàn diện giáo
dục”. GV cần phân biệt được sự khác nhau giữa dạy học tích cực với dạy học
thụ động: “ Phương pháp dạy học tích cực là phương pháp hướng tới việc hoạt
động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học. Cho nên người học
phải tích cực nhận thức, luôn có khát vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị
lực trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức.” Người dạy và người học cũng cần
nắm được những biểu hiện cơ bản của phương pháp dạy học tích cực để việc
dạy học có thể phát huy năng lực của học sinh.
I. Những biểu hiện cơ bản của phương pháp dạy học tích cực?
Đối với GV: Cho thấy sự chuẩn bị, chọn lọc các phương pháp phù hợp; biết
gợi mở, dẫn dắt HS khám phá kiến thức; thời gian hoạt động ít nhưng thời gian
quan sát theo dõi nhiều.
Đối với HS: Đóng vai trò chủ động, là trung tâm trong việc tìm hiểu tri
thức mới, tự quyết định phong cách, nhịp độ của việc học, đồng thời biết vận
dụng tốt kiến thức vào công việc thực tiễn, có thể tìm ra cách giải quyết mới
5/17
hữu hiệu, độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, làm theo mẫu hướng dẫn,… ở các
cấp độ như sau:
“Bắt chước - Tìm tòi - Sáng tạo - Nhận thức - Hành động”
PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận
thức của người học, tức là tập trung phát huy tính tích cực của người học, lấy
HS làm trung tâm của quá trình dạy học.Khi ấy giáo viên chỉ đóng vai trò định
hướng, tổ chức, giúp đỡ quá trình học của HS. Tuy nhiên để dạy học theo
phương pháp tích cực thì thầy giáo phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương
pháp thụ động. Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ
đạo cách học, nhưng trái lại cách học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy
của thầy. Chẳng hạn: Có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt
động nhưng thầy giáo chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp thầy giáo tích
cực vận dụng PPDH tích cực nhưng không thành công vì học sinh chưa thích
nghi, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì thế, thầy giáo phải bền chí dùng
cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập
chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Bên cạnh đó sự hỗ trợ từ phụ
huynh học sinh cũng vô cùng quan trọng. GV cần lôi kéo phụ huynh tham gia
vào quá trình học của con bằng nhiều cách: phụ huynh hỗ trợ con tìm tư liệu,
giải đáp một số thắc mắc của con, đưa ra một số vấn đề liên quan đến bài học
cho con suy nghĩ, đưa ra một số tình huống thực tiễn để con vận dụng bài học
giải quyết... Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác của cả
thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì mới
thành công.
Trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu, tôi đã sử dụng một số phương
pháp, kĩ thuật dạy học tích cực và đã thu được kết quả khá tôt .
II. Các phương pháp, kĩ thuật trong dạy học tích cực
1/ Sơ đồ tư duy
Sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy, là phương pháp dễ nhất để
chuyển tải thông tin vào bộ não rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não, là một
phương tiện ghi chép sáng tạo và hiệu quả:
+ Mở rộng, khắc sâu và kết nối các ý tưởng.
+ Bao quát được các ý tưởng trên một phạm vi sâu rộng.
Sơ đồ tư duy là một sơ đồ nhằm trình bày một cách rõ ràng những ý tưởng
hay kết quả làm việc của cá nhân/ nhóm về một chủ đề.
• Viết tên chủ đề/ ý tưởng chính ở trung tâm.
• Từ chủ đề/ ý tưởng chính ở trung tâm, vẽ các nhánh chính, trên mỗi nhánh
chính viết một nội dung lớn của chủ đề hoặc các ý tưởng có liên quan xoay
quanh ý tưởng trung tâm nói trên.
• Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung thuộc
nhánh chính đó.
• Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo.
6/17
Đối với môn Địa lí sơ đồ tư duy có thể ứng dụng trong nhiều nội dung giảng
dạy: Tóm tắt nội dung; ôn tập một chủ đề; trình bày tổng quan một chủ đề
bằng sơ đồ; ghi chép khi nghe bài giảng...
2/ Giải quyết vấn đề
Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề, hay dạy học dựa trên vấn đề, hoặc
dạy học đặt và giải quyết vấn đề. Đây là phương pháp mà giáo viên đặt ra
trước học sinh một vấn đề nhận thức, chuyển học sinh vào tình huống có vấn
đề. Sau đó giáo viên phối hợp cùng học sinh giải quyết vấn đề, đi đến những
kết luận cần thiết của nội dung học tập.
Trình tự tiến hành
+ Đặt vấn đề và chuyển học sinh vào tình huống có vấn đề
Đặt vấn đề là đặt ra trước học sinh một câu hỏi. Tuy nhiên, đó không phải
là câu hỏi thông thường như trong đàm thoại, mà phải là câu hỏi có vấn đề.
Nghĩa là, câu hỏi phải chứa đựng: Một mâu thuẫn giữa kiến thức cũ và kiến
thức mới, giữa cái đã biết và cái chưa biết cần phải khám phá, nhận thức, giữa
vốn kiến thức khoa học đã có và vốn kiến thức thực tiễn đa dạng.
Ví dụ: “Thường ở nơi đông dân, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn trong phát
triển, thế nhưng tại sao Thủ đô Hà Nội là vùng đông dân nhưng vẫn là vùng có
trình độ phát triển cao so với trung bình của cả nước?”
Tình huống có vấn đề là một trạng thái tâm lý: Trong đó học sinh tiếp nhận
mâu thuẫn khách quan như là mâu thuẫn chủ quan bị day dứt bởi chính mâu
thuẫn đó và có ham muốn giải quyết. Để vấn đề trở thành tình huống đối với
học sinh, câu hỏi đặt vấn đề phải lưu ý các điểm sau: Trong thành phần câu
hỏi, phải có phần học sinh đã biết (phần kiến thức cũ) và phần học sinh chưa
biết (phần kiến thức mới). Hai phần này phải có mối quan hệ với nhau,trong
đó phần học sinh chưa biết là phần chính của câu hỏi, học sinh phải có nhiệm
vụ tìm tòi, khám phá.
Ví dụ: “Thường những nơi có hệ thống sông ngòi chằng chịt thì phải đắp
đê phòng lũ vậy tại sao ở đồng bằng Nam Bộ người dân lại không đắp đê
phòng lũ?”
Nội dung câu hỏi phải thật sự kích thích, gây hứng thú nhận thức đối với
học sinh.Trong rất nhiều trường hợp, câu hỏi gắn với các vấn đề thực tế gần
gũi, thường lôi cuốn hứng thú học sinh nhiều hơn. Câu hỏi phải vừa sức học
sinh. Các em có thể giải quyết được, hoặc hiểu được cách giải quyết dựa vào
việc huy động vốn tri thức sẵn có của mình bằng hoạt động tư duy.
+ Giải quyết vấn đề:
Đề xuất các giả thuyết cho vấn đề đặt ra
Thu thập và xử lí thông tin theo hướng các giả thuyết đã đề xuất
3/ Kĩ thuật “khăn trải bàn”
Thế nào là kĩ thuật “Khăn trải bàn”?
7/17
Là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá
nhân và hoạt động nhóm nhằm:
- Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực.
- Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS.
- Phát triển mô hình có sự tương tác giữa HS với HS.
Cách tiến hành kĩ thuật “Khăn trải bàn”
- Hoạt động theo nhóm (4 người/ nhóm) (có thể nhiều người hơn).
- Mỗi người ngồi vào vị trí như hình vẽ minh họa.
- Tập trung vào câu hỏi (hoặc chủ đề,...).
- Viết vào ô mang số của bạn câu trả lời hoặc ý kiến của bạn (về chủ đề...).
Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút.
- Kết thúc thời gian làm việc cá nhân, các thành viên chia sẻ, thảo luận và
thống nhất các câu trả lời.
- Viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ô giữa tấm khăn trải bàn (giấy
A0).
Một vài ý kiến cá nhân với kĩ thuật “Khăn trải bàn”
- Kĩ thuật này giúp cho hoạt động nhóm có hiệu quả hơn, mỗi học sinh đều
phải đưa ra ý kiến của mình về chủ đề đang thảo luận, không ỷ lại vào các bạn
học khá, giỏi.
- Kĩ thuật này áp dụng cho hoạt động nhóm với một chủ đề nhỏ trong tiết học,
toàn thể học sinh cùng nghiên cứu một chủ đề.
- Sau khi các nhóm hoàn tất công việc giáo viên có thể gắn các mẫu giấy
“khăn trải bàn” lên bảng để cả lớp cùng nhận xét. Có thể dùng giấy nhỏ hơn,
dùng máy chiếu phóng lớn.
- Có thể thay số bằng tên của học sinh để sau đó giáo viên có thể đánh giá
được khả năng nhận thức của từng học sinh về chủ đề được nêu.
- Trong khi dạy học giáo viên có thể linh hoạt thay hình khăn trải bàn trên
bằng bông hoa nhiều cánh, mỗi học sinh ghi ý kiến ra một cánh, nhụy hoa là ý
kiến chung…và nhiều hình khác nữa: ngôi nhà, cái cây… để tạo hứng thú cho
học sinh.
4/ Kĩ thuật phòng tranh:
Kĩ thuật này có thể sử dụng cho hoạt động cá nhân hoặc hoạt động nhóm.
8/17
- GV nêu câu hỏi/ vấn đề cho cả lớp hoặc cho các nhóm.
- Mỗi thành viên (hoạt động cá nhân) hoặc các nhóm (hoạt động nhóm) phác
hoạ những ý tưởng về cách giải quyết vấn đề trên một tờ bìa và dán lên tường
xung quanh lớp học như một triển lãm tranh.
- HS cả lớp đi xem “ triển lãm’’ và có thể có ý kiến bình luận hoặc bổ sung.
- Cuối cùng, tất cả các phương án giải quyết được tập hợp lại và tìm phương
án tối ưu.
5/ Kĩ thuật “ Trình bày một phút”
Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho HS tổng kết lại kiến thức đã học và đặt những
câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc bằng các bài trình bày ngắn
gọn và cô đọng với các bạn cùng lớp.
6/ Dạy học theo góc
Là một hình thức tổ chức hoạt động học tập theo đó học sinh thực hiện
các nhiệm vụ khác nhau tại các vị trí cụ thể trong không gian lớp học. Là một
môi trường học tập với cấu trúc được xác định cụ thể. Kích thích HS tích cực
học thông qua hoạt động. Đa dạng về nội dung và hình thức hoạt động. Mục
đích là để học sinh được thực hành, khám phá và trải nghiệm qua mỗi hoạt
động.
Ví dụ: 3 góc cùng thực hiện một nội dung và mục tiêu học tập nhưng theo
các phong cách học khác nhau và sử dụng các phương tiện/ đồ dùng học tập
khác nhau. Đọc tài liệu, xem băng, làm thí nghiệm, áp dụng (trải nghiệm),
(quan sát), (phân tích), (áp dụng).
Các bước dạy học theo góc
Bước 1: Lựa chọn nội dung bài học phù hợp.
Bước 2: Xác định nhiệm vụ cụ thể cho từng góc.
Bước 3: Thiết kế các hoạt động để thực hiện nhiệm vụ ở từng góc bao gồm
phương tiện / tài liệu (tư liệu nguồn, văn bản hướng dẫn làm việc theo góc; bản
hướng dẫn theo mức độ hỗ trợ, bản hướng dẫn tự đánh giá,…)
Bước 4: Tổ chức thực hiện học theo góc – HS được lựa chọn góc theo sở
thích – HS được học luân phiên tại các góc theo thời gian quy định (ví dụ 10’
15’ tại mỗi góc) để đảm bảo học sâu.
Bước 5: Tổ chức trao đổi/ chia sẻ (thực hiện linh hoạt).
Một số lưu ý của dạy học theo góc: Chọn nội dung bài học phù hợp với đặc
trưng của học theo góc. Chuẩn bị đầy đủ các thiết bị, tư liệu phù hợp với
nhiệm vụ học tập mỗi góc. Đảm bảo cho HS thực hiện nhiệm vụ luân phiên
qua các góc (Học sâu và học thoải mái).
7/ Kĩ thuật “Chúng em biết 3”:
- GV nêu chủ đề cần thảo luận.
- Chia HS thành các nhóm 3 người và yêu cầu HS thảo luận trong vòng 10
phút về những gì mà các em biết về chủ đề này.
9/17
- HS thảo luận nhóm và chọn ra 3 điểm quan trọng nhất để trình bày với cả
lớp.
- Mỗi nhóm sẽ cử một đại diện lên trình bày về cả 3 điểm nói trên.
8/ Kĩ thuật “Hoàn tất một nhiệm vụ”
- GV đưa ra một câu chuyện/ một vấn đề/ một bức tranh/ một thông điệp/…
mới chỉ được giải quyết một phần và yêu cầu HS/ nhóm HS hoàn tất nốt phần
còn lại.
- HS/ nhóm HS thực hiện nhiệm vụ được giao.
- HS/ nhóm HS trình bày kết quả.
- GV hướng dẫn cả lớp cùng bình luận, đánh giá.
- GV nhận xét, chốt các ý chính.
III. Áp dụng các kĩ thuật, phương pháp dạy học tích cực vào bài cụ thể
Trên cơ sở GV nắm được các kĩ thuật và phương pháp dạy học tích cực
người GV còn phải biết tổ chức các hình thức dạy học cho phù hợp mới phát
huy được tính tính cực chủ động sáng tạo của học sinh. Sau đây, tôi xin nêu
một tiết học tiêu biểu:
Bài 9. Thành phố Đà Lạt
CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHỦ YẾU
1. Khởi động:
- HS nghe bài hát : Đà Lạt tôi yêu.
- HS kể những cảnh đẹp của Đà Lạt.
2. Trải nghiệm – Khám phá:
- HS kể những điêu em biết về Đà Lạt?
- Tìm hiểu về Đà Lạt qua chuyến du lịch qua màn ảnh nhỏ.
3. Các hoạt động cơ bản :
Hoạt động1: Hoạt động nhóm 4 – Sử dụng kĩ thuật “Khăn trải bàn”
- HS nhận câu hỏi và hoàn thành nhiệm vụ vào vị trí của mình.
- Đà Lạt nằm ở cao nguyên nào?
- Đà Lạt ở độ cao bao nhiêu?
- Mô tả một cảnh đẹp của Đà Lạt?
Hoạt động 2 :Thảo luận nhóm – Sử dụng kĩ thuật” Mảnh ghép”
- Tại sao Đà Lạt lại được chọn làm nơi du lịch, nghỉ mát? 8 phút
- Đà Lạt có những công trình kiến trúc nào phục vụ cho việc nghỉ mát, du lịch?
- Kể tên một số khách sạn ở Đà Lạt?
- Tại sao Đà Lạt được gọi là thành phố của hoa, trái?
Hoạt động 3 : Trưng bày sản phẩm – Sử dụng kĩ thuật “Phòng tranh”
- Giáo viên chia nhóm, khu vực trưng bày các sản phẩm tranh ảnh sưu tầm
được về Đà Lạt.
- Các nhóm cùng chia sẻ sản phẩm của nhóm.
10/17
Lưu ý: Tùy theo đặc trưng môn học, nội dung dạy học, đặc điểm và trình độ
HS, điều kiện cơ sở vật chất… GV có thể vận dụng các bước thực hiện một
giờ dạy học như trên một cách linh hoạt và sáng tạo, tránh đơn điệu, cứng
nhắc. Sự thành công của một giờ dạy theo định hướng đổi mới PPDH phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất là sự chủ động, linh hoạt,
sáng tạo của cả người dạy và cả người học. Dù ở điều kiện và hoàn cảnh nào,
sự chuẩn bị chu đáo – sử dụng tốt các phương pháp dạy học tích cực đem lại
những giờ học có hiệu quả, bổ ích và hứng thú đối với cả người dạy, người
học.
IV. Kết quả
Sau một thời gian vận dụng các biện pháp trên, tôi đã thu được các kết quả :
- Chất lượng giáo dục về các mặt được nâng cao: HS tích cực, tự giác trong
học tập, HS tự điều khiển các nhóm học tập sôi nổi, tự tổ chức được các hoạt
động tập thể như : Giao lưu PTNLHS, hoạt động ngoài giờ lên lớp ….
- Giáo viên tích cực nghiên cứu bài dạy, tổ chức linh hoạt sáng tạo các tiết dạy,
các tiết dạy tổ chức nhẹ nhàng sôi nổi và mang lại hiệu quả cao.
- HS mạnh dạn hơn trong giao tiếp, các kỹ năng sống được rèn luyện tạo cho
HS tác phong nhanh nhẹn, tự tin hơn trong học tập. HS hăng hái, chủ động, tự
giác tham gia các hoạt động HT, thích tìm tòi khám phá những điều chưa biết
dựa trên những cái đã biết. Sáng tạo vận dụng kiến thức đã học vào thực tế
cuộc sống.
- HS ham thích học môn Địa lí vì các em thấy được nhiều điều cần khám phá
cuộc sống và thế giới xung quanh.
- Chất lượng giảng dạy đã được nâng cao, kết quả kiểm tra định kì cuối kì I
vừa qua đạt kết quả cao.
Cụ thể : 100% học sinh biết làm quen với những dạng bài.
Với sĩ số lớp 4A2 (năm học 2019 – 2020) là 42 em, kết quả kiềm tra cuối kì
I thu được như sau:
Điểm 9 - 10
Điểm 7 - 8
Điểm 5 - 6
Điểm dưới 5
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
25
59,5
13
31
4
9,5
0
0
11/17
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp học sinh phát huy tính tích cực khi học phân môn Địa lí ở lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_phat_huy_tinh_tich_cuc_k.docx