SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 6 làm tốt văn miêu tả
Trong chương trình Trung học Cơ sở môn Ngữ văn là một trong những môn Khoa học Xã hội có vai trò rất quan trọng. Môn học này tác động rất sâu sắc đến đời sống tình cảm, tâm hồn của mỗi con người. Nó hướng con người đến đỉnh cao của chân, thiện, mỹ; đại thi hào văn Nga Mác xim Gocki từng viết: “Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân và làm nảy nở con người khát vọng hướng đến chân lý”. Văn học “chắp đôi cánh” để các em đến với mọi thời đại văn minh, để vươn tới tương lai với ước mơ, hoài bão, lý tưởng cao đẹp. Nhưng từ lâu môn Ngữ văn khiến học sinh có suy nghĩ đó là môn học không dễ đạt điểm cao, phần tiếng Việt khô khan, phần văn dài dòng nên ngại học, ngại viết. Vì thế đối với mỗi thầy cô giáo dạy môn ngữ văn, THCS nói chung, và môn ngữ văn 6 nói riêng, ngoài việc cung cấp kiến thức nội dung bài học theo SGK, chuẩn kiến thức kỹ năng, tài liệu học…còn phải không ngừng tìm tòi, đổi mới sáng tạo phương pháp giảng dạy để tạo hứng thú cho các em. Song một nhiệm vụ cũng không kém phần quan trọng nữa là giáo viên dạy ngữ văn ở THCS là: làm thế nào giúp học sinh rèn luyện tốt kĩ năng làm văn nhất là văn miêu tả.
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 6
LÀM TỐT VĂN MIÊU TẢ”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Ngữ văn 6
3. Thời gian áp dụng sáng kiến:
Tõ ngµy 20 th¸ng 9 n¨m 2016 ®Õn ngµy 20 th¸ng 3 n¨m 2017.
4. Tác giả:
Họ và tên: Phạm Thị Trâm
Năm sinh:01/01/1979
Nơi thường trú: Giao Thịnh- Giao Thủy- Nam Định
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Sư phạm Văn –Sử
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường THCS Giao Thịnh
Điện thoại: 01634778468
5.Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường THCS Giao Thịnh
Địa chỉ: Trường THCS Giao Thịnh- Giao Thủy – Nam Định
Điện thoại: 02283893146
1
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“MỘT SỐ BIÊN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 6 LÀM TỐT VĂN MIÊU TẢ”
I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:
Trong chương trình Trung học Cơ sở môn Ngữ văn là một trong những môn Khoa học
Xã hội có vai trò rất quan trọng. Môn học này tác động rất sâu sắc đến đời sống tình cảm,
tâm hồn của mỗi con người. Nó hướng con người đến đỉnh cao của chân, thiện, mỹ; đại
thi hào văn Nga Mác xim Gocki từng viết: “Văn học giúp con người hiểu được bản thân
mình, nâng cao niềm tin vào bản thân và làm nảy nở con người khát vọng hướng đến chân
lý”. Văn học “chắp đôi cánh” để các em đến với mọi thời đại văn minh, để vươn tới tương
lai với ước mơ, hoài bão, lý tưởng cao đẹp. Nhưng từ lâu môn Ngữ văn khiến học sinh có
suy nghĩ đó là môn học không dễ đạt điểm cao, phần tiếng Việt khô khan, phần văn dài
dòng nên ngại học, ngại viết. Vì thế đối với mỗi thầy cô giáo dạy môn ngữ văn, THCS nói
chung, và môn ngữ văn 6 nói riêng, ngoài việc cung cấp kiến thức nội dung bài học theo
SGK, chuẩn kiến thức kỹ năng, tài liệu học…còn phải không ngừng tìm tòi, đổi mới sáng
tạo phương pháp giảng dạy để tạo hứng thú cho các em. Song một nhiệm vụ cũng không
kém phần quan trọng nữa là giáo viên dạy ngữ văn ở THCS là: làm thế nào giúp học sinh
rèn luyện tốt kĩ năng làm văn nhất là văn miêu tả.
Qua thực tế nhiều năm giảng dạy môn Ngữ văn 6 và qua thời gian bồi dưỡng học
sinh giỏi tại trường, tôi thấy học sinh giỏi môn ngữ văn là chỉ có thể đếm trên đầu ngón
tay. Khi chấm bài tập làm văn đa số các em biến bài văn miêu tả thành văn kể dài dòng,
khô khan, vốn từ nghèo nàn. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học tập làm văn
nhất là văn miêu tả cho học sinh lớp 6? Để tìm câu trả lời cho câu hỏi này là cả quá trình.
Với vai trò là một người giáo viên đứng lớp trực tiếp giảng dạy các em, tôi đã tìm tòi
phân tích thực trạng và lựa chọn: “Một số phương pháp giúp học sinh lớp 6 làm tốt văn
tả”.
II. Mô tả giải pháp:
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
Đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học đã, đang và sẽ là một trong những yêu cầu
cấp bách của sự nghiệp đổi mới do Đảng, Nhà nước và các cấp ngành Giáo dục đề ra.
Mục tiêu của công cuộc đổi mới phương pháp dạy và học là nhằm đưa ra những yêu cầu
đào tạo con người cho phù hợp với xu hướng chung của thời đại. Mọi vật đều vận động
theo xu hướng thay đổi và không ngừng phát triển. Chính vì vậy, việc đổi mới công tác
giáo dục không chỉ dừng lại ở sự thay đổi cấu trúc nội dung chương trình SGK mà chúng
ta – những người thầy, người cô phải thay đổi cả về hình thức tổ chức, phương pháp giảng
dạy ở tất cả các bộ môn, phân môn nữa. Một trong những thay đổi đó là đòi hỏi mỗi
chúng ta phải thay đổi cả về phương pháp giảng dạy trên lớp, phương pháp ôn tập cho
phù hợp để đạt được hiệu quả giáo dục cao hơn.
Chương trình Ngữ văn THCS nói chung và chương trình phân môn Tập làm văn nói
riêng là một vòng tròn đồng tâm. Trong đó chương trình Ngữ văn 6 là điều kiện, tiền đề
cho các em học sinh hình thành hệ thống các kiến thức cũng như các kĩ năng, để các em
học tốt hơn ở các lớp trên.Nhất là phân môn tập làm văn luôn chiếm vị trí quan trọng
quyết định đến bài làm của các em học sinh có thể đạt từ yếu lên trung bình, từ trung bình
lên khá và từ khá lên giỏi .
Nh×n nhËn vÊn ®Ò mét c¸ch cô thÓ h¬n chóng ta thÊy r»ng, chư¬ng tr×nh Ng÷ v¨n líp 6
là sự tiếp nối phát triển thể loại văn miêu tả mà các em đã học trong chương trình Tiểu
2
học (lớp 4: miêu tả đồ vật, loài vật, cây cối, phong cảnh; lớp 5: tả cảnh sinh hoạt), trong
quan hệ tương ứng với những gì đã được học về tự sự ở kì I và trong quan hệ nối tiếp với
nội dung miêu tả lớp 9 sẽ được học sau này .Tuy nhiên chương trình Ngữ văn lớp 6 đòi
hỏi các em phải có cách viết trau chuốt hơn, sinh động, hấp dẫn hơn. ĐiÒu ®ã kh«ng thÓ ®i
ngay tõ lý thuyÕt sang thùc hµnh được, bëi tư duy cña løa tuæi c¸c em häc sinh líp 6 cßn
lµ tư duy cô thÓ, c¶m nhËn cßn ®¬n gi¶n, vèn tõ, vèn hiÓu biÕt phÇn nhiÒu cßn nghÌo
nµn…do vËy mµ c¸c em cha cã nhiÒu vèn tõ, tÝnh h×nh ¶nh, s¸ng t¹o nghÖ thuËt trong viÕt
v¨n…Vì thế giáo viên dạy môn ngữ văn ở cấp THCS cần hình thành và có biện pháp tích
cực giúp các em làm tốt môn tập làm văn nhất là văn miêu tả
Năm học (2016 – 2017), tôi được phân công giảng dạy môn Ngữ văn lớp 6A với 30
học sinh. Hầu hết 30 học sinh của lớp 6A tôi phụ trách còn rất nhiều nhược điểm khi làm
bài Tập làm văn nhất là văn miêu tả. Bài viết của các em còn mắc nhiều lỗi chính tả, chưa
xác định được trọng tâm đề bài, có những em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn đạt vụng
về, lủng củng. Nhiều em chưa biết dừng lại để tả kĩ một vài chi tiết cụ thể nổi bật.Thậm
chí còn xảy ra tình trạng bịa đặt trong bài làm khiến hình ảnh miêu tả thiếu chân thực và
hết sức vô lí, chẳng hạn như “Đêm cuối tháng cả bầu trời vằng vặc ánh trăng, chi chít
muôn ngàn sao lấp lánh”(“Đêm cuối tháng” thì làm gì có trăng). Thực trạng học sinh còn
nhiều suy nghĩ sai lạc như vậy, đã làm cho tiết Tập làm văn trở thành một gánh nặng, một
thách thức đối với giáo viên THCS.
Tõ nh÷ng c¬ së trªn,t«i thiÕt nghÜ: Qu¸ tr×nh rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho häc sinh
líp 6 lµ mét viÖc lµm thiÕt thùc. Vì vậy với vai trò, nhiệm vụ của một giáo viên đang đứng
trên bục giảng, tôi mạnh dạn đề ra và vận dụng một số biện pháp để giúp học sinh học
tốt văn miêu tả như sau:
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: Xuất phát từ nhận thức vấn đề như trên, trong
quá trình giảng dạy phân môn tập làm văn lớp 6 ở trường THCS tôi đã tiến hành như sau:
Dạy tốt các giờ tập làm văn theo kế hoạch giảng dạy bộ môn dã được ban giám hiệu
kí duyệt.
Khi dạy ôn tập làm văn miêu tả tôi chia theo từng dạng bài, nhóm bài và phân mảng
nội dung kiến thức cụ thể
Rèn các phương pháp, kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh
– Sau dây là một số biện pháp giúp các em học sinh lớp 6 làm tốt văn miêu tả
1.1. Giáo viên phải nắm vững nội dung, chương trình và phương pháp dạy Tập làm
văn:
Dạy như thế nào để học sinh học tốt và nắm vững phương pháp làm văn miêu tả, viết
được những bài văn hay, hấp dẫn sinh động?Đòi hỏi giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn
phải nắm vững nội dung chương trình, đồng thời biết chọn và vận dụng phương pháp phù
hợp để truyền thụ kiến thức cho học sinh. Biết được học sinh cần gì, chưa biết những gì
để xác định đúng mục tiêu bài dạy, xác lập được mối quan hệ giữa kiến thức bài dạy với
kiến thức cũ và kiến thức sẽ cung cấp tiếp theo. Cụ thể, giáo viên cần nắm vững những
vấn đề sau :
-Nội dung chương trình Tập làm văn lớp 6: Các em bắt đầu làm văn miêu tả từ học kì
II với số tiết Tập làm văn miêu tả 16 tiết. Mục tiêu là trang bị kiến thức và rèn luyện kĩ
năng làm văn, góp phần cùng với các môn học khác làm giàu vốn sống, rèn luyện tư duy,
bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh.
3
- Biện pháp dạy học từng kiểu bài: Trong phần dạy bài mới, giáo viên phải nắm vững
trình tự dạy đối với hai loại bài Tập làm văn: loại bài dạy lý thuyết và loại bài dạy thực
hành.
+Với bài dạy lý thuyết: Các bài học về văn miêu tả trong sách giáo khoa đều được tiến
hành theo mô hình chung là: Tìm ngữ liệu mẫu -> rút ra kết luận. ->Khắc sâu kiến thức
luyện tập củng cố
Các ngữ liệu mẫu thường được lấy từ các văn bản miêu tả được học đồng thời ở phần
văn. Vì thế khi dạy từng loại bài, giáo viên cần chú ý đến các đối tượng học sinh của lớp:
có nội dung cho học sinh khá, giỏi; có nội dung cho học sinh trung bình, yếu,…
+Với loại bài thực hành: Phần thực hành về văn miêu tả gồm viết và trả bài văn miêu
tả; luyện nói về quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn miêu tả
Với văn miêu tả tôi hướng dẫn các em thực hành tạo lập ba kiểu bài cơ bản sau:
– Tả cảnh ( Tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh sinh hoạt)
– Tả người (Tả chân dung, tả người trong tư thế hoạt động)
– Miêu tả sáng tạo
Bởi muốn dạy học sinh làm văn miêu tả đạt yêu cầu thì giáo viên cần biết thế nào là văn
miêu tả, đặc điểm thể loại văn miêu tả, biết yếu tố nào là quan trọng và cần thiết để giúp
học sinh làm được bài văn miêu tả sinh động thông qua quan sát đối tượng miêu tả (Nội
dung này nằm trong bước chuẩn bị bài mới của giáo viên).
1.2. Giáo viên cần giúp học sinh biết cách xác định đúng yêu cầu của đề bài để xây
dựng định hướng làm bài
Xác định yêu cầu đề bài trước khi làm là một trong những kĩ năng rất quan trọng.Nó
giúp các em định hướng đúng đối tượng miêu tả,nội dung và phạm vi bài làm để tránh
được hiện tượng lạc đề xảy ra
*Ví dụ Đề bài: “Em hãy tả lại quang cảnh sân trường em trước giờ vào lớp
Gv phải hình thành các bước tìm hiểu đề cho học sinh theo thứ tự lần lượt: Mét lµ thÓ
lo¹i; hai lµ néi dung cÇn lµm lµ g× ?; ba lµ ph¹m vi đề bài.
+Thể loại: Miêu tả
+ Nội dung: Cảnh sân trường em trước giờ vào lớp
+ Phạm vi: Trước giờ vào lớp
Giáo viên phải chỉ cho học sinh thấy được đây là một đề văn tổng hợp: VËy thÕ nµo lµ
c¶nh tæng hîp? – Gi¸o viªn chØ râ cho häc sinh thÊy x¸c ®Þnh c¶nh tæng hîp nhê nh÷ng
tõ ng÷ nµo.
Gv giải thích cho học sinh đề tả cảnh tổng hợp nghĩa là: c¶nh gåm nhiÒu c¶nh nhá, c¶nh
lÎ. Nh÷ng c¶nh nhá, cña quª hư¬ng,miền quê, hay trường học thường lµ c¸nh ®ång, dßng
s«ng, con đường lµng,sân trường…sau ®ã gióp häc sinh h×nh dung được cô thÓ vÒ c¶nh
miªu t¶ ë thêi gian nµo (mïa nµo) ë kh«ng gian nµo ( c¶nh ®ã nh thÕ nµo) … ViÖc x¸c
®Þnh được ®óng yªu cÇu cña ®Ò như ë vÝ dô trªn sÏ gióp c¸c em rÊt nhiÒu trong viÖc ®Þnh
h×nh được ®èi tượng miªu t¶.
1.3. Rèn kĩ năng quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn miêu tả
a. Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh
– Đối tượng của bài văn miêu tả là sự vật, thiên nhiên, là con người, cuộc sống con
người. Có thể coi đó là một thế giới phong phú và đa dạng phức tạp đang diễn rất hay đổi
theo từng ngày từng giờ. Tuy vậy không phải tự nhiên mà ta hiểu ngay và nắm vững đặc
điểm của từng sự vật , sự việc, con người để miêu tả đúng bản chất của nó. Chính vì thế
4
mỗi giáo viên dạy môn Ngữ văn cần phải hình thành ngay từ đầu kĩ năng quan sát và ghi
chép.
– Yêu cầu hàng đầu đối với các em học sinh, khi làm văn miêu tả kĩ năng quan sát và ghi
chép là rất cần thiết,tuy nhiên các em chưa thể có được các kĩ năng đó và sử dung thành
thạo được, tất cả mới chỉ là tập dượt: tập quan sát , tập ghi chép, tập phát hiện ra đặc điểm
nổi bật của các sự vật, hiện tượng. Từ đó có vốn sống phong phú để làm tốt bài văn miêu
tả.
– Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người để giúp người
nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy, tức là lấy câu văn để biểu hiện các đặc
tính, bản chất của sự vật, giúp người đọc như được chứng kiến tận mắt sự vật miêu tả.
Nên khi dạy văn miêu tả, tôi hướng dẫn học sinh quan sát và miêu tả theo các trình tự hợp
lý như sau:
*Tả theo trình tự không gian:
Quan sát toàn bộ trước rồi đến quan sát từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từ ngoài vào
trong, từ trái qua phải,… (hoặc ngược lại).
Ví dụ 1: Trong văn bản“ Sông nước Cà Mau”- Ngữ văn 6 tập II, nhà văn Đoàn Giỏi
miêu tả toàn cảnh Cà Mau theo trình tự từ xa đến gần:
“Càng đổ gần về hướng mũi Cà Mau thì sông ngòi, kênh rạch càng bủa giăng chi chít
như mạng nhện. Trên thì trời xanh dưới thì nước xanh, chung quanh mình cũng chỉ toàn
một sắc xanh cây lá. Tiếng rì rào bất tận của những khu rừng xanh bốn mùa, cùng tiếng
sóng rì rào từ biển Đông và vịnh Thái Lan ngày đêm không ngớt vọng về trong hơi gió
muối -thứ âm thanh đơn điệu triền miên ấy ru ngủ thính giác, càng làm mòn mỏi và đuối
dần đi tác dụng phân biệt của thị giác con người trước cái quang cảnh chỉ lặng lẽ một màu
xanh đơn điệu”.
Ví dụ 2: Cũng trong văn bản “ Sông nước Cà Mau”- Ngữ văn 6 tập II, nhà văn Đoàn
Giỏi đã miêu tả cảnh dòng sông và rừng đước Năm Căn theo trình tự từ xa đến gần, từ
ngoài vào trong, từ khái quát đến cụ thể:
“Thuyền chúng tôi chèo thoát qua kênh Bọ Mắt, đổ ra con sông Cửa Lớn, xuôi về Năm
Căn. Dòng sông Năm Căn mênh mông, nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác, cá
nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng
trắng.Thuyền xuôi giữa dòng con sông rộng hơn ngàn thước, trông hai bên bờ, rừng được
dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận. Cây đước mọc dài theo bãi, theo từng
lứa trái rụng, ngọn bằng tăm tắp, lớp này chồng lên lớp kia ôm lấy dòng sông, đắp từng
bậc màu xanh lá mạ, màu xanh rêu, màu xanh chai lọ… lòa nhòa ẩn hiện trong sương mù
và khói sóng ban mai”.
*Tả theo trình tự thời gian
Ví dụ : “Biển đẹp”- Vũ Tú Nam
“Buổi sớm nắng sáng. Những cánh buồm nâu trên biển được nắng chiếu vào hồng rực
lên như đàn bướm múa lượn giữa trời xanh. Lại đến một buổi chiều gió mùa đông bắc vừa
dừng. Biển lặng, đỏ, đầy như mâm bánh đúc, loáng thoáng những con thuyền như những
hạt lạc ai đem rắc lên trên.Rồi một ngày mưa rào. Mưa dăng dăng bốn phía. Có quãng
nắng xuyên xuống biển óng ánh đủ màu:xanh lá mạ,tím phớt,hồng xanh biếc…Có quãng
thâm sì, nặng trịch. Những cánh buồm ra khỏi cơn mưa, ướt đẫm, thẫm lại, khỏe nhẹ bồi
hồi, như ngực áo bác nông dân cày xong ruộng về bị ướt”
* Tả theo trình tự tâm lí:
5
Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây cảm xúc mạnh
nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tả sau. Khi miêu tả đồ vật,
loài vật, tả người nên vận dụng trình tự này nhưng chỉ nên tả những điểm đặc trưng nhất,
không cần phải tả đầy đủ chi tiết như nhau của đối tượng.
Ví dụ : Nhà văn Đoàn Giỏi miêu tả chợ Năm Căn theo mạch cảm xúc riêng của mình,
qua đó thể hiện niềm tự hào của tác giả về vùng đất trù phú, giàu có nơi tận cùng phía
Nam Tổ quốc:
“Nhưng Năm Căn còn có cái bề thế của một trấn “anh chị rừng xanh” đứng kiêu
hãnh phô phang sự trù phú của nó trên vùng đất cuối cùng của Tổ quốc. Những bến vận
hà nhộn nhịp dọc dài theo sông; những lò than hầm gỗ đước sản xuất loại than củi nổi
tiếng nhất của miền Nam; những ngôi nhà bè ban đêm ánh đèn măng-sông chiếu rực trên
mặt nước như những khu phố nổi, và nơi đây người ta có thể cập thuyền lại, bước sang
gọi một món xào, món nấu Trung Quốc hoặc một đĩa thịt rừng nướng ướp kiểu địa
phương kèm theo vài cút rượu, ngoài ra còn có thể mua từ cây kim cuộn chỉ, những vật
dụng cần thiết, một bộ quần áo may sẵn hay một món nữ trang đắt giá chẳng hạn, mà
không cần phải bước ra khỏi thuyền. Những người con gái Hoa kiều bán hàng xởi lởi,
những người Chà Châu Giang bán vải, những bà cụ già người Miên bán rượu, với đủ các
giọng nói líu lô, đủ kiểu ăn vận sặc sỡ, đã điểm tô cho Năm Căn một màu sắc độc đáo,
hơn tất cả các xóm chợ vùng rừng Cà Mau”
* Ngoài các trình tự miêu tả trên, giáo viên cần hướng dẫn và rèn luyện cho học sinh kĩ
năng sử dụng các giác quan (thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác,…) để quan sát, cảm
nhận sự vật, hiện tượng miêu tả.
b.Kĩ năng tưởng tượng
Tưởng tượng có vai trò rất lớn trong văn miêu tả.Nó không chỉ là yếu tố tạo nên sự
phong phú trong cho các hình ảnh trong bức tranh miêu tả mà con giúp cho người làm văn
tả tìm được những từ ngữ và các biện pháp nghệ thuật phù hợp để bài văn hay hơn, sinh
động hơn. Tưởng tượng trong văn miêu tả là người viết vận dụng trí tưởng tượng sáng tạo
của mình khi miêu tả sự vật. Có hai mức độ tưởng tượng trong văn miêu tả. Mức thứ nhất
là hình dung thêm chi tiết trong khi miêu tả đối tượng có thật làm cho đối tượng hiện lên
rõ nét.
*Ví dụ: Bầu trời màu trắng sữa, dần dần, chân mây ửng lên sắc hoa đào phớt hồng.
Phương đông, những tia sáng hình rẻ quạt xuất hiện báo một ngày mới bắt đầu.Mặt trời
đột ngột từ lòng biển nhô lên, chói lọi như một quả cầu lửa khổng lồ. Chưa bao giờ tôi
được chiêm ngưỡng vầng mặt trời nào uy nghi và vĩ đại đến thế. Đây là phút giây tráng lệ
nhất ở biển vào lúc bình minh. Mặt biển chợt bừng sáng như nụ cười rạng rỡ của một
nàng công chúa sau giấc ngủ say. Biển Nha Trang tỉnh thức, mỗi lúc một thêm biếc xanh
sâu thẳm. Ngoài khơi xa, những con sóng chơi trò ú tim tinh nghịch. Khi gặp nhau chúng
tung mình cười xòa trên bãi cát tạo thành từng chùm hoa sóng thủy tinh.
c.Kĩ năng tạo hình ảnh cho lời văn bằng miêu tả chi tiết về sự vật và sử dụng biện
pháp so sánh
Thông thường , các em có thể tạo hình ảnh trong bài văn miêu tả theo hai cách: một là
tạo chi tiết cho lời văn, hai là thường xuyên sử dụng biện pháp so sánh trong khi miêu tả
đối tượng. Bởi mọi sự vật đều có hình khối, đường nét, màu sắc, âm thanh. Do đó, người
viết để sự vật hiện lên trong bài văn, em cần tả tỉ mỉ từng hình khối,đường nét, màu sắc,
âm thanh.....của sự vật đó làm cho từng bộ phận nổi lên. Đó là chi tiết trong văn miêu tả.
6
Ví dụ: Đã hơn hai mươi năm trôi qua, cô gái ngày ấy đã trở thành một người phụ nữ
đảm đang với bộn bề công việc. Khuôn mặt mẹ tôi bây giờ đã có sự thay đổi ít nhiều theo
năm tháng. Mặt mẹ gầy hơn với xương cằm, gò má hơi nhô lên nhưng vẫn toát lên vẻ
phúc hậu, hiền dịu. Mỗi khi mẹ cười hàm răng trắng như ngà với chiếc răng khểnh như
bừng sáng trên khuôn mặt khiến mọi người trong nhà đều thấy vui. Những sợi tóc mai ở
hai bên thái dương của mẹ cũng lốm đốm trắng nên những lúc rảnh rỗi tôi thường nhổ
tóc bạc cho mẹ. trên má mẹ đã nổi lên mấy vết nám sẫm mờ mờ. Mắt mẹ phải nheo lại
mỗi khi nhìn xa, những vết chân chim ở khóe mắt cũng xuất hiện ngày càng nhiều, và khi
đọc sách báo mẹ phải đeo kính vì mắt đã kém đi nhiều. Vầng trán và cả ở khóe miệng của
mẹ xuất hiện những nếp nhăn nhỏ. Mẹ thường bảo tôi: " Mỗi lần các con làm mẹ phiền
lòng thì trên mặt mẹ sẽ có thêm một nếp nhăn nữa". Nghe thế tôi càng thấy thương mẹ, và
mong ước trên khuôn mặt mẹ không còn những nếp nhăn nữa. Khi tôi được điểm cao hay
làm được một việc tốt, mẹ khen tôi, ánh mắt mẹ lấp lánh niềm vui, nụ cười tươi tắn của
mẹ thường trực nở trên môi, đôi má mẹ ửng hồng, những vết nhăn trên khuôn mặt dường
như cũng giảm bớt. Khi tôi mắc lỗi, mẹ dạy bảo tôi với một vẻ mặt nghiêm nghị, ánh mắt
đượm buồn, những nếp nhăn trên trán mẹ như hằn sâu thêm khiến tôi vô cùng ân hận và
thương mẹ. Những ngày tôi đau ốm, mẹ thức cả đêm chăm sóc tôi, khuôn mặt mẹ hốc hác,
nhợt nhạt hẳn đi, lộ rõ vẻ mệt mỏi, đôi mắt thâm quầng, trũng sâu xuống, ánh mắt lo lắng
nhưng tràn đầy vẻ âu yếm, trìu mến và nụ cười của mẹ cũng trở nên gượng gạo.
So sánh là biện pháp thường được sử dụng trong văn miêu tả. So sánh là hệ quả của
quá trình liên tưởng và tưởng tượng. Khi quan sát một đối tượng nào đó, hình ảnh của đối
tượng ấy (từ màu sắc tới hình dáng, từ kích thước tới trạng thái) thường gợi cho người
quan sát nghĩ đến hình ảnh tương đồng nào đó. Chính sự so sánh liên tưởng này giúp cho
trang văn miêu tả của các em hay hơn, đẹp hơn, hấp dẫn hơn.
Ví dụ: Đầu làng, cây gạo già đứng trầm tư trong gió rét trút chiếc lá vàng cuối cùng,
cành trơ khấc, khô gầy, sẫm lại như đang cố gắng chống lại cái lạnh của đất trời. Mùa
đông cây bàng rụng lá, những chiếc lá bàng đỏ như màu đồng hun rơi xuống đất, trơ lại
những cành khẳng khiu như những cánh tay cố vươn lên đón ánh sáng mặt trời như đang
ấp ủ một sức sống mới để xuân về đâm chồi nảy lộc. Bên này đường là cánh đồng đang
mùa vào ải, màu đất bạc phếch, mùi đất nồng nồng, ngai ngái. Xa xa, cánh đồng trồng
màu tươi tốt với những vạt ngô xanh bạt ngàn, hoa ngô phất phơ tung phấn trong gió,
từng kẽ lá đang trổ những bắp ngô non mũm mĩm. Những ruộng hoa cải vàng tươi, lộng
lẫy, rung rinh trong gió làm bừng sáng cả không gian. Đây dòng sông mềm như một dải
lụa, nước sông dâng cao, sóng vỗ oàm oạp, trên sông vài ba chiếc thuyền chài thu mình,
lướt chầm chậm trên dòng nước lạnh giá, hơi nước bốc lên tạo cảm giác lạnh lẽo, nước
buốt cắt da, cắt thịt.
Có một số cách so sánh như sau:
– Có thể so sánh người với người: “Với ngương mặt phúc hậu và mái tóc bạc trắng, trông
bà hệt như bà tiên trong truyện cổ tích”; “Nhìn nó chăm chỉ làm việc giúp bà, ai cũng tấm
tắc: Hệt như cô Tấm trong chuyện cổ tích xưa”…
– Có thể so sánh người với các con vật (hình dáng, tính cách): “Lão ta quá ranh mãnh, xảo
quyệt, y như một con cáo già”; “Trông anh ta như một con gấu”; “cậu ấy nhanh như một
con sóc”…
– Có thể so sánh người với cây cối: “Chấm cứ như một cây xương rồng” (cái sân gạch –
Đào Vũ); “Cô bé cứ như một cây lúa non, lặng lẽ lớn lên từ bùn đất”…
7
– Có thể so sánh người với các hiện tượng thiên nhiên: “Giọng lão ta lúc nào cũng gầm
vang như sấm” “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào”…
– Có thể so sánh vật với vật, cảnh với cảnh: “cây gạo như treo rung rinh hàng ngàn nồi
cơm gạo mới”( Vũ Tú Nam); “Vầng trăng non giữa bầu trời đầy sao hệt như một cái liềm
vào ai bỏ quên giưa cánh đồng lúa chín” (Theo Vích – to Huy gô); “ Măng chồi lên nhon
hoắt như một mũi gai khổng lồ xuyên qua đất lũy mà trỗi dậy” (Ngô Văn Phú)…
– Có thể so sánh vật với con người: Cây bàng già sừng sững, uy nghi như một người lính
gác canh giữ cho khu vườn được bình yên”; “ cây bưởi như một người mẹ đang cần mẫn
cõng trên mình lũ con đầu tròn trọc lóc”; “Chim già đãy, đầu hói như những ông thầy tu
mặc áo xám” (Đoàn Giỏi)
Nếu xét về cách thức so sánh thì có những hiện tượng so sánh sau:
– So sánh theo hướng thu nhỏ lại: “ Trái đất như một giọt nước màu xanh lơ lửng giữa
không trung” ; “xa xa, những cánh buồm nâu như những cánh bướm rập rờn trên mặt
biển”…
– So sánh theo hướng phóng đại lên: “Rệp bò lổm ngổm hư xe cóc – muỗi lượn nghênh
ngang tụa máy bay” (Hồ chí Minh) ; “chiếc lá tre thả xuống dòng nước, chòng chành,
xoay xoay, rồi trôi đi như một con thuyền, chở theo ước mơ của chúng tôi”…
– So sánh theo hướng cụ thể hóa: “ Từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi”
(truyền thuyết Thánh Gióng); “Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh
phúc hậu như long đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn” (Nguyễn Tuân)
– So sánh theo hướng trừu tượng hóa: “ Nước biển chiều nay xanh như một trang sử của
loài người, lúc con người phải viết vào than tre” (Nguyễn Tuân)…
Tuy nhiên khi sử dụng kĩ năng so sánh, cần lưu lưu ý là phải biết sáng tạo, biết tìm
điểm mới, điểm riêng. Không nên lặp đi lặp lại những hình ảnh so sánh đã quá cũ, quá sáo
mòn theo kiểu: “Miệng cười tươi như hoa”, “Những hạt sương long lanh như những hạt
ngọc đính trên cành hoa hồng” ; “ Cánh đồng lúa chín trông như tấm thảm vàng trải rộng
đến chân trời”
d.Kĩ năng nhận xét trong văn miêu tả
Viết văn miêu tả, bao giờ người viết cũng để lại dấu ấn chủ quan của mình. Dấu ấn chủ
quan ấy chính là sự cảm nhận riêng của mỗi người, là cách biều lộ thái độ, tình cảm riêng
của mỗi người đối với đối tượng được miêu tả. Một nhà văn Pháp viết: “ Một trăm cây
bạch dương giống nhau cả trăm, một trăm ánh lửa giống nhau cả trăm. Mới nhìn tưởng
thế, nhưng nhìn kĩ thì chân cây bạch dương nào cũng khác nhau, ngọn lửa nào cũng khác
nhau. Trong đời ta gặp bao nhiêu người, phải thấy ra mỗi người mỗi khác nhau, không ai
giống ai” (Dẫn theo Tô Hoài – Một số kinh nghiệm viết văn miêu tả).
Không phải chỉ các nhà văn, mà ngay cả học sinh khi làm văn miêu tả cũng nên ý thức
rõ điều này. Giáo viên còn phải mở rộng thêm nữa, rằng thiên nhiên con người xung
quanh chúng ta luôn trong trạng thái vận động và thay đổi không ngừng- thật vô cùng thú
vị và hấp dẫn. Đâu phải chỉ có ngọn lửa này ngọn lửa khác ngọn lửa kia, thân cây bạch
dương này khác thân cây bạch dương kia mà ngay cùng một sự vật, hiện tượng ấy cũng
từng phút, từng giờ thay đổi liên tục. Cũng một con đường từ nhà đến trường , nhưng
sáng hôm nay ta thấy nó như thế này, sáng mai đã có thể đổi khác . Cũng một cây bàng ,
chiều hôm trước còn trơ trụi lá cành, mà chỉ sau mấy hôm đã đâm trồi nảy lộc, tràn đầy
sức sống. Cũng một môt bãi biển , nhưng khi ta buồn sẽ ta sẽ cảm nhậc nó khác khi ta
đang vui… Có thể nói rằng , đối tượng miêu tả sẽ xuất hiện và đi vào bài văn tùy thuộc
8
vào điểm nhìn, thái độ, tâm trạng tình huống giao tiếp của người viết. Đây chính là cơ sở
tạo nên dấu ấn chủ quan của người viết.Nó đòi hỏi người viết trong bài viết của mình có
những lời nhận xét, những suy nghĩ, những cảm nhận riêng về đối tượng. Vần đề là phải
dùng cách nhận xét như thế nào để tạo sự hấp dẫn cho bài văn miêu tả ? Trước hết có thể
nhận xét trực tiếp bằng những lời bình, những câu cảm thán, những hình ảnh so sánh:
“Chà! chà !Béo ơi là béo !”, “Gớm !Béo đâu có béo lạ béo lùng thế !”( Nguyễn Công
Hoan ); “ Những bông hoa rơi từ trên cao , đài hoa nặng chúi xuống những cánh hoa đỏ
rực quay tít như chong chóng , nom thật đẹp (Vũ Tú Nam ); “ A cháng đẹp người thật …
Nhưng phải nhìn Hạng A Cháng cày mới thấy vẻ đẹp của anh “ (Ma Văn Kháng)…
Và cũng có thể bộc lộ một cách kín đáo qua việc lựa chọn hình ảnh miêu tả. Đây là
thái độ mỉa mai, giễu cợt của nhà văn Nguyễn Công Hoan khi miêu tả hình ảnh một “bà
chủ “ :” Vậy thì bà nằm đó . Như thoạt trông , đố ai dám bảo là một người. Nếu người ta
chư nom rõ cái măt phị , cái cổ rụt , cái nung núc và bốn chân tay ngắn chùn chùn , thì
phải bảo là một đống hai ba cái chăn bông cuôn lại với nhau , sắp đem cất đi “. Còn đây
là thái độ ngạc nhiên thích thú của nhà văn Vũ Tú Nam khi quan sát và miêu tả hình ảnh
những trái mướp lớn nhanh như thổi : “ Rồi quả thi nhau chòi ra… bằng ngón tay … bằng
con chuột .Rồi bằng con cá chuối to”…
* Ví dụ : Trong văn bản “Cô Tô” –SGK ngữ văn 6 ,nhà văn Nguyễn Tuân khi miêu tả vẻ
đẹp trong sáng,tràn đầy sức sống toàn cảnh Cô Tô một ngày sau bão,đã thể hiện được
cảm nhận riêng của mình về một vùng đất ông từng qua:
“Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô là một ngày trong trẻo, sáng sủa .Từ khi có vịnh Bắc
Bộ và từ khi quần đảo Cô Tô mang lấy dấu hiệu sự sống con người thì , sau mỗi lần dông
bão , bao giờ bầu trời Cô Tô cũng trong sáng như vậy . Cây trên núi đảo lại thêm xanh
mượt , nước biển lại lam biếc đặm đà hơn hết cả mọi khi ,và cát lại vàng giòn hơn nữa
.Và nếu cá có vắng tăm biệt tích trong ngày động bão thì nay lưới càng thêm nặng mẻ cá
giã đôi .Chúng tôi leo dốc lên đồn Cô Tô hỏi thăm sức khỏe anh em bộ binh và hải quân
cùng đóng sát nhau trong cái đồn khố xanh cũ ấy. Trèo lên nóc đồn, nhìn ra bao la Thái
Bình Dương bốn phương tám hướng , quay gót 180 độ mà ngắm cả toàn cảnh Cô Tô.
Nhìn rõ cả Tô Bắc, Tô Trung, Tô Nam, mà càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người
chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây”.
1.4. Giúp học sinh nắm đặc điểm của từng kiểu bài miêu tả:
Giáo viên giúp học sinh biết dùng lời văn cùng trí tưởng tượng phong phú hợp với yêu
cầu về nội dung và thể loại cho trước, khi luyện tập. Giáo viên cũng cần lưu ý nhắc nhở
các em nắm vững các đặc điểm của mỗi thể loại, mỗi dạng bài và xác định đối tượng miêu
tả. Trong mỗi bài văn phải thể hiện cái mới cái hay, cái riêng và cảm xúc của mình.
a.Kiểu văn tả đồ vật, loài vật, cây cối.
Đối tượng ở kiểu bài này rất cụ thể và thường là những vật quen thuộc trong cuộc sống
hàng ngày của chúng ta. Nhưng kiểu bài này lại khó ở chỗ đối tượng miêu tả , nhiều khi
cấu tạo lại đơn giản nên khó phát triển ý, bài viết ngắn cụt lủn, hời hợt. Vì thế ,mỗi giáo
viên khi dạy dạng bài này cần lưu ý cho các em học sinh những yêu cầu sau để bài làm tốt
hơn
– Thứ nhất: Khi làm kiểu bài này cần miêu tả từ bao quát đến cụ thể, từ giới thiệu chung
đến miêu tả chi tiết. Riêng tả loài vật cây cối có thể theo quá trình trưởng thành của đối
tượng với các giai đoạn cụ thể
9
– Thứ hai: Đối tượng miêu tả của bài này là những đồ dùng, vật dụng, những hình ảnh
quen thuộc trong đời sống hàng ngày. Do đó khi miêu tả phải chú ý đến ý nghĩa công
dụng của chúng với con người. Đặc biệt trong quá trình miêu tả có thể xen kẽ một vài kỉ
niệm thể hiện sự gắn bó giữa người tả với đối tượng được tả.
– Thứ ba: Cần biết điều chỉnh một cách hợp lý giữa các hình ảnh tả thực với liên tưởng
.Nếu tả thực quá nhiều thì hình ảnh miêu tả trở nên trần trụi. Còn nếu liên tưởng quá
nhiều thì tính chân thực sẽ giảm đi . Riêng với đồ dùng vật dụng không phải lúc nào cũng
tả cái mới.Có thể tả những đồ dùng cũ đan xen các kỉ niệm thì bài viết sẽ sâu sắc hơn.
Ví dụ: Tả lại một loài cây mà em yêu quý nhất trong sân trường.
+Thể loại: Miêu tả
+ Nội dung: Tả lại một loài cây mà em yêu quý nhất
+ Phạm vi: Trong sân trường
Ví dụ:
Ngôi trường thân yêu của tôi có rất nhiều loại cây cho bóng mát. Nhưng có lẽ không
cây nào có bóng che rợp mát bằng cây bàng. Nó đứng sừng sững giữa sân trường này
không biết từ bao giờ chỉ biết từ khi tôi đặt chân đến trường đã thấy bàng rồi.
Cây bàng đứng sừng sững giữa sân trường này không biết từ bao giờ chỉ biết từ khi tôi
đặt chân đến trường đã thấy bàng rồi.Nhìn từ xa, cây bàng như một chiếc ô khổng lồ
nhiều tầng xoè tán chùm bóng mát cả một khoảng sân trường rộng cho chúng tôi vui chơi
giải trí sau mỗi giờ học căng thẳng. Lại gần cây bàng tròn, thẳng mầu nâu sẫm như dãi
mùa thu, khi tiết trời se lạnh những chiếc lá bàng to như hai bàn tay người lớn vốn mầu
xanh đâm chuyển sang mầu vàng gạch quăn dần mép lá rồi vồng lên như hình mo cau.
Lúc này nó đó biến sang mầu đỏ tía và khi những chị gió thu tinh nghịch thổi đến nó vội
vã bứt ra khỏi cành chao liệng giữa không trung y hệt những cánh tay vẫy chào tạm biệt
nơi đã sinh ra mình. Nhìn những chiếc lá bàng nằm trải dài trên sân trường trông mới
tuyệt làm sao!Cứ thế, những chiếc lá bàng chuyển dần mầu sắc cho đến khi những cơn
gió lạnh buốt từ phương Bắc tràn về thì cây bàng không còn một chiếc lá nào nữa. Còn
lại những cành trơ trụi trông có vẻ khẳng khiu gồng mình chịu đựng cái rét lạnh buốt của
mùa đông nhưng trong những cành khẳng khiu ấy vẫn tràn trề nhựa sống.Rồi tiết trời như
ấm lại, xuân đã về. Chỉ một tuần thôi thì những chồi non xanh li ti đã điểm hết những
cành to, cành nhỏ. Thoáng cái đã thấy màu xanh non bao phủ lấy toàn thân cây và
chuyển dần sang màu xanh đậm. Những chiếc lá của tầng thấp, tầng cao phát triển nhanh
đến kì lạ. Từ bé bằng bàn tay trẻ nhỏ mà nay đã phè phè như cái quạt mo.Cho đến khi
mùa hạ về, lá vàng rợp mát cả một khoảng sân và đây là thời điểm mà tụi nhỏ chúng tôi
tụm năm tụm bẩy vui đùa nhảy nhót hết sức thỏai mái vào những giờ chơi dưới gốc bàng
mát rượi thân yêu này. Bàng còn là nơi gọi chim về tụ hội ca hát nhảy múa trong vòm lá.
Càng tô điểm cho cây vẻ đẹp mĩ miều.Tụi nhỏ chúng tôi yêu cây bàng này lắm bởi nó đã
gắn bó với ngôi trường tôi. Nó còn là nơi chứng kiến bao kỉ niệm vui buồn của chúng tôi.
Dù mai này có phải xa mái trường, xa cây bàng yêu dấu này thì hình ảnh về cây bàng
mãi mãi in đậm trong tâm trí tôi.
a.Kiểu văn tả cảnh
Đối tượng miêu tả bao gồm cảnh thiên nhiên và cảnh sing hoạt. Có thể coi đây là
những bức tranh bằng ngôn ngữ, dừng lại một khung cảnh nào đó, một hoạt động nào đó,
10
một hoạt động nào đó của thiên nhiên của con người (Một phiên chợ tết, một bến đò hoặc
ga tàu đông khách, một cuộc thi thả diều, một cánh rừng,một dòng sông, một làng
quê,yên tĩnh,…). Nội dung của kiểu bài này không nghèo nàn, thậm chí rất phong phú
nhưng do kinh nghiệm quan sát của học sinh còn yếu, kiến thức nghèo nàn, trình độ sắp
xếp ý còn hạn chế nên bài làm thường có bố cục lộn xộn, thiếu cân đối.
Khi làm kiểu bài này giáo viên cần lưu ý một số vấn đề sau:
– Đối với văn tả cảnh thiên nhiên, người viết có thể chọn một trong số các trình tự tả :
theo trình tự thời gian, không gian, số lượng cảnh,…Bức tranh thiên nhiên không bao giờ
ở dạng tĩnh mà luôn có sự thay đổi, vì vậy khi tả phải làm nổi bật được sự thay đổi này
(Mùa này khác mùa kia, buổi này khác buổi kia, thời điểm này khác thời điểm kia…)
– Ngoài việc tả bao quát toàn cảnh, người tả cần tìm được một số hình ảnh tiêu biểu để
tập trung tả chi tiết, cụ thể. Đặc biệt là khi tả cảnh thiên thiên nào thì cũng phải đặt nó
trong một không gian, thời gian cụ thể, và phải có mối quan hệ mật thiết với các hiện
tượng tự nhiên,như gió, nắng… Các biện pháp nghệ thuật, so sánh, nhân hóa nên được
vận dụng nhiều để góp phần làm cho bài văn tả sinh động hơn.
– Đối với văn tả cảnh sinh hoạt thì cần chú trọng chọn tả theo trình tự thời gian và
trình tự hoạt động của các đối tượng. Ngoài việc tả chung, nhìn bao quát toàn cảnh và liệt
kê các hoạt động, người viết phải tập trung vào một số cảnh chính, tiêu biểu. ưu tiên dùng
nhiều những từ láy tượng hình,tượng thanh, nghệ thuật so dài, câu đặc biệt hay câu bình
thường, câu đảo ngữ hay câu đảo lược… Đặc biệt cần chú ý làm nổi bật mối quan hệ tình
cảm giữa các đối tượng xuất hiện trong bức tranh này. Nếu cần thiết vẫn có thể đưa một
số mẩu đối thoại, một số câu văn tự sự, một số câu văn nêu nhận xét cảm nghĩ vào văn tả
cảnh sinh hoạt
Ví dụ : Một số câu trong bài văn tả cảnh: “Chiều tối” của Phạm Đức:
“Nắng bắt đầu rút lên những chòm cây cao, rồi nhạt dần và như hoà lẫn với ánh sáng
trắng nhợt cuối cùng.”
=>Ta thấy câu văn miêu tả sự chuyển hoá của ánh sáng từ “nhạt dần” rồi “hoà lẫn” với
“ánh sáng trắng nhợt”.
Tác giả cũng đã dùng thị giác để quan sát sự biến đổi của ánh sáng và bóng tối, đã dùng
thính giác để nghe tiếng dế và dùng khứu giác để cảm nhận hương vườn và cũng đã sử
dụng nghệ thuật nhân hoá làm cho câu văn sinh động một cách rất tinh tế, khi viết:
“Bóng tối như bức màn mỏng, như thứ bụi xốp, mờ đen phủ dần lên mọi vật.”
“Một vài tiếng dế gáy sớm, vẻ thăm dò, chờ đợi.”
“ Trong im ắng, hương vườn thơm thoảng bắt đầu rón rén bước ra và tung tăng trong
ngọn gió nhẹ, nhảy trên cỏ, trườn theo những thân cành.”
b. Kiểu văn tả người
Khi miêu tả người, yếu tố quan sát lại càng quan trọng. Nhìn chung, mọi người đều có
những đặc điểm giống nhau nhưng lại hoàn toàn khác nhau ở những đặc điểm riêng, chỉ
người đó mới có. Nhiệm vụ của giáo viên khi hướng dẫn học sinh “miêu tả người” là giúp
cho các em thấy rằng phải miêu tả ngắn gọn mà chân thực, sinh động về hình ảnh và hoạt
động của người mình tả.
Ví dụ: Trong bài “Vượt thác” (sách giáo khoa ngữ văn 6 tập II) nhà văn Võ Quảng đã
miêu tả về Dượng Hương Thư như sau:
“ Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn, hai hàm răng
cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào như một hiệp sĩ của Trường
11
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 6 làm tốt văn miêu tả", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_6_lam_tot_van_mieu_t.doc