SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải bài toán bằng hai phép tính

Trong tình hình hiện nay, giáo dục là một vấn đề được cả xã hội quan tâm. Đảng và nhà nước ta coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Bậc học tiểu học được coi là nền tảng của các bậc học. Quá trình học ở tiểu học là nền móng cho học sinh có vốn kiến thức để học tiếp lên các lớp trên.
SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NỘI  
MÃ SKKN  
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM  
Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH  
LỚP 3 GIẢI BÀI TOÁN BẰNG HAI PHÉP TÍNH  
Lĩnh vực/ môn : Toán  
Cấp học  
: Tiểu học  
Năm học: 2016 – 2017  
SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NỘI  
MÃ SKKN  
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM  
Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH  
LỚP 3 GIẢI BÀI TOÁN BẰNG HAI PHÉP TÍNH  
Năm học: 2016 – 2017  
MỤC LỤC  
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính  
PHẦN MỞ ĐẦU  
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI  
Trong tình hình hin nay, giáo dc là mt vn đề được cxã hi quan tâm.  
Đảng và nhà nước ta coi giáo dc là quc sách hàng đầu. Bc hc tiu hc được  
coi là nn tng ca các bc hc. Quá trình hc tiu hc là nn móng cho hc  
sinh có vn kiến thc để hc tiếp lên các lp trên. Trong các môn hc mà hc sinh  
hc bc tiu hc, môn Toán là bmôn rt quan trng. Đây là môn hc chiếm  
tương đối nhiu thi gian hc ca hc sinh trong sut quá trình hc phthông.  
Đây cũng là môn hc có rt nhiu ng dng trong thc tin cuc sng. Cùng vi  
các môn hc khác, môn Toán góp phn hình thành nhân cách cho hc sinh.  
Ở bậc tiểu học, môn Toán cung cấp cho học sinh những hiểu biết ban đầu  
một cách tương đối hệ thống về số tự nhiên, phân số, số thập phân, các đại  
lượng thông dụng, một số yếu tố hình học thống đơn giản; hình thành các  
kỹ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán có nhiều ứng dụng thiết thực  
trong đời sống; bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí và  
diễn đạt đúng cách phát hiện và cách giải quyết vấn đề đơn giản, gần gũi trong  
cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng, chăm học hứng thú học tập toán, hình  
thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc kế hoạch khoa học, chủ  
động, linh hoạt, sáng tạo.  
Quá trình cung cấp kiến thức toán học cho học sinh trong dạy học ở tiểu  
học được chia thành hai giai đoạn thì nội dung toán học lớp 3 được coi là cầu  
nối để học sinh học tiếp ở giai đoạn hai. Ở lớp 3, các em tiếp tục hoàn thiện  
những kiến thức kĩ năng của giai đoạn một chuẩn bị cho sự phát triển cao hơn  
về kiến thức kĩ năng của giai đoạn hai ở lớp 4 và lớp 5. Trong chương trình toán  
học ở lớp 3, mạch kiến thức về giải toán chiếm khoảng 9% tổng thời lượng của  
môn học nhưng lại vô cùng quan trọng đối với học sinh bởi: bước đầu giúp học  
sinh làm quen giải toán hợp, nội dung này còn được học kết hợp với nội dung  
dạy số học, hình học bước đầu yêu cầu học sinh biết tư duy, tìm tòi, sáng tạo  
khi biết vận dụng các bài toán đơn đã học để giải toán. . . Đặc biệt hơn, với học  
sinh lớp 3, việc giải thành thạo các bài toán bằng hai phép tính là vô cùng cần  
thiết bởi những kiến thức này chính là cơ sở để học sinh vận dụng học ở giai  
đoạn hai khi giải những bài toán nhiều hơn hai phép tính, những dạng toán điển  
hình. . . . Khả năng tư duy để tìm ra các bước giải bài toán bằng hai phép tính ở  
1
   
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính  
lớp 3 tốt sẽ giúp các em dễ dàng hơn khi giải các bài toán về tìm số trung bình  
cộng của các số, tìm hai số khi biết tổng hiệu của hai số, tìm hai số khi biết  
tổng số tỉ số của hai số, tìm hai số khi biết hiệu số tỉ số của hai số, tính  
diện tích hình bình hành, diện tích hình thoi ở lớp 4, giải toán về đại lượng tỉ lệ  
thuận, tỉ lệ nghịch, một số bài toán có nội dung hình học ở lớp 5.  
Tuy nhiên, trong quá trình dạy học, không phải bất một vấn đnào trong  
sách giáo khoa hay nội dung kiến thức cần cung cấp cho học sinh mà giáo viên  
đưa ra học sinh đều hiểu vận dụng được ngay. Trong quá trình dạy học, bằng  
tâm huyết nghề nghiệp những kinh nghiệm đã đúc rút được cho từng môn học  
ở mỗi khối lớp, cho từng mạch kiến thức hay từng bài dạy, người giáo viên có  
thể những biện pháp, những cách thức truyền đạt khác nhau sao cho học sinh  
hiểu bài, hiểu sâu, nhớ lâu và biết vận dụng bài học vào thực tế cuộc sống. Đó  
mới chính là cái đích cuối cùng của dạy học: học để biết, học để làm, học để tự  
khẳng định mình.  
Chính vì những lí do trên mà tôi đã chọn cho mình đề tài nghiên cứu về  
"Một vài biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính" trong  
chương trình Toán 3. Việc chọn đtài này giúp tôi hiểu sâu hơn về nội dung dạy  
học giải toán ở lớp 3, các phương pháp và hình thức tổ chức giờ dạy về giải toán  
ở lớp 3, các hướng phát triển cho một bài toán về giải toán ở lớp 3. Từ đó, tôi sẽ  
vận dụng tốt hơn vào thực tiễn giảng dạy của mình.  
2
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính  
PHẦN NỘI DUNG  
I. CƠ SỞ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU  
1. Cơ sở luận  
Các bài tập về giải toán bằng hai phép tính thực chất là các bài tập yêu cầu  
học sinh phải nắm được các bài toán đơn đã học biết vận dụng các bài toán  
đơn ấy để giải quyết các bài toán giải bằng hai phép tính từ việc suy luận, thấy  
được mối liên hệ giữa hai phép tính đó để làm thành các bước giải cho bài toán  
giải bằng hai phép tính. Tuy nhiên, để làm được các bài tập này, các em phải  
nắm được mấu chốt của vấn đề để giải quyết được yêu cầu của bài cần xem  
xét điều chưa biết có liên quan thế nào với các dữ kiện đã cho trong bài toán. Từ  
việc hiểu mấu chốt về các mối liên quan giữa cái đã biết và cái cần tìm của bài  
toán đó, học sinh phải biết vận dụng các dạng toán đã học với các kĩ năng tính  
toán mà các em có được khi học toán để thành lập các bước giải cho bài toán  
nghĩa là các em đã giải quyết được yêu cầu của đbài.  
Việc xây dựng các bài tập về giải các bài toán giải bằng hai phép tính dựa  
vào các kiến thức về giải toán có lời văn học sinh đã có khi học toán 1 , 2 và  
các dạng toán đơn mà các em được học trong chương trình môn Toán ở lớp 3.  
Với lứa tuổi của học sinh tiểu học, đặc biệt học sinh học lớp 3, các em  
thường bắt chước hoặc ghi nhớ một cách máy móc. Việc học tập giúp các em  
hình thành và phát triển ghi nhớ có ý nghĩa, biết lập luận để tìm ra sự liên quan  
giữa dữ kiện bài toán cho biết và yêu cầu của bài. Những kiến thức các em có  
được qua học tập môn Toán và được gắn liền với thực tiễn đời sống sẽ được các  
em nhớ lâu, kích thích các em sự liên tưởng, tìm tòi, khám phá và sáng tạo.  
Nhờ đó ghi nhớ của trẻ có ý nghĩa chất lượng hơn. Những khác biệt về nhận  
thức về khả năng tư duy của trẻ thường được biểu hiện rõ nét trong việc suy luận  
vận dụng kiến thức đã học vào thực tế. Ngày nay, nhà trường hiện đại lấy học  
trò là nhân vật trung tâm của quá trình dạy học, học trò mới chủ thể của quá  
trình học. Trẻ em ngày nay rất thông minh, nhanh nhẹn trong việc nắm bắt cái  
mới, biết vận dụng kiến thức học trong nhà trường vào thực tiễn đời sống rất  
nhanh. Bởi thế giáo dục cần trang bị cho trẻ những kiến thức kĩ năng phù hợp  
với nhận thức của các em.  
3
     
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính  
Nói tóm lại: Quan điểm về xây dựng chương trình môn Toán phù hợp với  
đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 3 là cơ sở khoa học cho việc soạn thảo  
chương trình môn Toán 3 với các mạch nội dung về Số học, Đại lượng đo đại  
lượng, Yếu tố hình học, Giải toán. Trong đó, mạch kiến thức về giải toán có nội  
dung giải bài toán bằng hai phép tính.  
2. Cơ sở thực tiễn  
Trong thực tế, học sinh được tiếp xúc với giải toán có lời văn từ khi bắt đầu  
hình thành phép cộng, phép trừ trong môn Toán ở lớp 1 qua những bài tập có  
yêu cầu viết phép tính thích hợp dựa vào những hình ảnh cụ thể như: bên trái có  
1 quả bóng bay, bên phải có hai quả bóng bay hoặc trên cành có 3 con chim đậu  
có 1 con chim nữa đang bay đến, với yêu cầu ngày một tăng dần ncho biết  
hình ảnh viết sẵn các chữ số, yêu cầu học sinh điền thêm dấu phép tính thích  
hợp; hoặc cho biết hình ảnh, yêu cầu học sinh tự viết thành phép tính thích hợp.  
Khi học sinh lớp 1 đã thành thạo cộng, trừ các số trong phạm vi 10, các em được  
học về "Bài toán có lời văn" với các dạng toán về "gộp", "thêm", "bớt" một  
số bài toán giải bằng phép tính trừ thực chất đó chính là dạng toán "Tìm số  
hạng trong một tổng". Ở lớp 2, cùng với việc củng cố các bài toán có lời văn đã  
học ở lớp 1, các em đã được làm quen và được luyện tập rất nhiều về giải các  
bài toán đơn thuộc các dạng toán điển hình: Bài toán về nhiều hơn; Bài toán về  
ít hơn; So sánh hai số hơn (kém) nhau bao nhiêu đơn vị; Các bài toán về “gộp  
các nhóm bằng nhau”; Các bài toán về chia đều; Các bài toán về tìm thành phần  
trong phép tính khi được học vtìm số hạng trong một tổng, tìm số bị trừ, tìm số  
trừ,… Lên đến lớp 3, bên cạnh việc ôn tập, củng cố các dạng toán đã được học ở  
lớp 2, học sinh được học thêm một số dạng toán đơn về gấp một số lên nhiều lần  
giảm đi một số lần, tìm một trong các phần bằng nhau của một số, các bài toán  
liên quan đến hình học như tính chu vi, diện tích hình chữ nhật, hình vuông. Đặc  
biệt, các em được học "Bài toán giải bằng hai phép tính" mà mỗi phép tính giải  
trong những bài toán này chính là phép tính để giải một trong những bài toán  
đơn đã học. Việc học các bài toán giải bằng hai phép tính ở lớp 3 có vai trò rất  
quan trọng đối với việc học tập môn Toán bởi những bài toán giải bằng hai phép  
tính là cơ sở để học sinh vận dụng, suy luận khi các em học tập ở giai đoạn hai  
để giải được những bài toán nhiều hơn hai phép tính và vận dụng nó trong đời  
sống thực tế hàng ngày.  
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ  
4
   
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính  
Trong thực tế giảng dạy những nội dung kiến thức mà giáo viên đưa ra  
nhiều học sinh không hiểu được bản chất của nội dung đó chỉ áp dụng một  
cách máy móc. Chính vì vậy nên khi có một nội dung nào đó có yêu cầu cao  
hơn, đòi hỏi các em phải suy luận các em sẽ lúng túng, không biết suy luận để  
tìm ra cách giải. Nội dung dạy giải bài toán bằng hai phép tính cũng vậy, đây là  
nội dung mới mẻ rất khó đối với học sinh. Đối với học sinh lớp 3, khả năng  
suy luận của các em còn hạn chế, lần đầu tiên các em phải giải nhũng bài toán  
đòi hỏi phải tư duy, suy luận nhiều. Khi giải các bài toán đơn, việc tìm câu lời  
giải cho phép tính, đa số các em đều dựa vào câu hỏi của bài toán nên khi giải  
những bài toán bằng hai phép tính, việc tìm câu lời giải cho phép tính thứ nhất  
nhiều em còn hạn chế. Nhiều em còn sai khi ghi danh số của các phép tính, đặc  
biệt những bài toán mà danh số của hai phép tính không giống nhau. Ở lớp 3,  
các bài toán giải bằng hai phép tính rất nhiều dạng hầu như chẳng thể xếp  
những bài toán ấy thành dạng điển hình nào nên việc giải các bài toán đó lại  
càng khó khăn với các em.  
Còn đối với giáo viên, dạy học sinh giải bài toán bằng hai phép tính đôi khi  
cũng còn những hạn chế như chưa khắc sâu cho học sinh mỗi phép tính giải  
trong bài chính là dạng toán đơn nào các em đã học, chưa hướng dẫn học sinh  
mối quan hệ giữa các phép tính trong bài toán, câu hỏi để gợi ý học sinh tìm  
bước giải còn chưa sát, chưa khái quát được những dạng toán giải bằng hai phép  
tính, … Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể chỉ hướng dẫn học sinh giải  
những bài toán bằng hai phép tính trong sách giáo khoa mà chưa chú trọng đến  
việc khắc sâu dạng toán, chưa đưa ra được những hình thức dạy học toán nhằm  
phát triển tư duy năng lực của học sinh, chưa đòi hỏi ở các em sự tập trung suy  
nghĩ, tìm tòi, khám phá,.. nên nội dung dạy học còn đơn điệu, tẻ nhạt. Chính vì  
vậy hiệu quả của việc giải toán còn có những hạn chế nhất định.  
III. CÁC BIỆN PHÁP CỤ THỂ  
1. Hướng dẫn học sinh nắm chắc cách giải các bài toán đơn  
Các bài toán đơn học sinh được học bao gồm các bài toán giải bằng một  
trong các phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Đây là các bài toán các em được học  
trong chương trình môn Toán của các lớp 1, 3 và nửa đầu học kì 1 ở lớp 3.  
Ngoài ra, các em còn được học khi giải các bài toán liên quan đến tính chu vi,  
diện tích của hình chữ nhật, hình vuông. Các bài toán đơn học sinh đã học  
5
   
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính  
đều là các bài toán thuộc các dạng toán điển hình. Có thể chia các bài toán đơn  
thành các dạng như sau:  
1.1. Các bài toán đơn giải bằng phép tính cộng  
Đây là các bài toán thuộc các dạng toán:  
- Bài toán về gộp hai số;  
- Bài toán về thêm một số đơn vị;  
- Bài toán về nhiều hơn;  
Bài toán về tìm số bị trừ.  
1.2. Các bài toán đơn giải bằng phép tính trừ  
Đây là các bài toán thuộc các dạng toán:  
- Bài toán về bớt;  
- Bài toán về ít hơn;  
- Bài toán về so sánh hai số hơn kém nhau một số đơn vị;  
- Bài toán về tìm số hạng trong một tổng;  
- Bài toán về tìm số trừ.  
1.3. Các bài toán đơn giải bằng phép tính nhân  
Đây là các bài toán thuộc các dạng toán:  
- Bài toán về gộp các nhóm bằng nhau;  
- Bài toán về gấp một số lên nhiều lần;  
- Bài toán về tìm số bị chia;  
- Bài toán về tính chu vi, diện tích của hình chữ nhật, hình vuông khi đã  
biết đầy đủ chiều dài, chiều rộng của hình chữ nhật hoặc biết độ dài cạnh của  
hình vuông.  
1.4. Các bài toán đơn giải bằng phép tính chia  
Đây là các bài toán thuộc các dạng toán:  
- Bài toán về chia đều;  
- Bài toán về chia thành các nhóm bằng nhau;  
- Bài toán về giảm đi một số lần;  
- Bài toán về tìm một trong các phần bằng nhau của một số;  
- Bài toán về so sánh hai số gấp, kém nhau một số lần;  
- Bài toán về tìm thừa số trong phép nhân;  
- Bài toán về tìm số chia.  
Khi dạy học Toán có nội dung chứa bài toán có lời văn học sinh đã  
được học ở các lớp 1, lớp 2, tôi luôn hướng dẫn các em tìm ra mối quan hệ giữa  
6
       

Tải về để xem bản đầy đủ

docx 33 trang minhvan 04/03/2025 40
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải bài toán bằng hai phép tính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_3_giai_bai_toan_bang.docx