SKKN Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài làm văn trong chương trình Ngữ văn lớp 8 tại trường THCS

Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn là phân môn khó trong các phân môn của môn Ngữ văn. Do đặc trưng phân môn Tập làm văn với mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn bản (nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau như: miêu tả, kể chuyện, biểu cảm, nghị luận, ... Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập này, học sinh với vốn kiến thức còn hạn chế nên thường ngại nói, ngại viết.
______________________________________________________________________________  
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ  
1. CƠ SỞ KHOA HỌC  
1.1. Cơ sở luận:  
Môn Ngữ văn 8 trong chương trình THCS nói riêng và trong nhà trường  
nói chung có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh 4 kĩ năng đó là: “nghe - nói -  
đọc - viết”. Trong đó, phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất tích  
hợp các phân môn khác. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng  
một văn bản, đó là bài nói, bài viết. Nói và viết những hình thức giao tiếp rất  
quan trọng, thông qua đó con người thực hiện quá trình duy - chiếm lĩnh tri  
thức, trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng  
hợp tác trong cuộc sống lao động. Ngôn ngữ (dưới dạng nói - ngôn bản, và  
dưới dạng viết - văn bản) giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển  
hội. Chính vì vậy, hướng dẫn cho học sinh nói đúng viết đúng hết sức  
cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng dạy môn  
Ngữ văn nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng. Vấn đề đặt ra là:  
người giáo viên dạy tập làm văn như thế nào để học sinh viết tốt bài văn của  
mình? Cách thức tổ chức, tiến hành tiết dạy Tập làm văn ra sao để đạt hiệu quả  
như mong muốn?  
Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn là phân môn khó  
trong các phân môn của môn Ngữ văn. Do đặc trưng phân môn Tập làm văn với  
mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn bản  
(nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau như: miêu tả, kể chuyện, biểu cảm, nghị  
luận, ... Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập này, học sinh với vốn  
kiến thức còn hạn chế nên thường ngại nói, ngại viết.  
1.2. Cơ sthc tin  
Người giáo viên bao giờ cũng muốn học trò của mình làm được những bài văn  
hay nhưng đó không phải một việc dễ. Bài văn hay trước hết phải viết đúng  
(đúng theo nghĩa tương đối, nghĩa là trong khuôn khổ nhà trường). Hay và đúng có  
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm  
M«n Ng÷ v¨n 8  
-1-  
______________________________________________________________________________  
mối quan hệ mật thiết với nhau. Bài văn hay trước hết phải viết theo đúng yêu cầu  
của đề bài, đúng những kiến thức cơ bản, hình thức trình bày đúng quy cách …  
Xác định đúng yêu cầu của đề bài là rất cần thiết, bước này giúp học sinh thể  
hiện đúng chủ đề của bài văn, tránh lạc đề hay lệch đề. Xác định đúng yêu cầu của  
đề cũng giúp người viết lập được một dàn ý tốt và do đó cũng tránh được sự dài  
dòng, lan man “dây cà ra dây muống”, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” tạo được  
sự thống nhất, hài hoà giữa các phần của bài viết. Bên cạnh đó việc viết đúng kiến  
thức cơ bản cũng vô cùng quan trọng, kiến thức cơ bản “bột”, “có bột mới gột  
nên hồ”.  
Hình thức trình bày là sự thể hiện hình thức bố cục của bài văn trên trang  
giấy. Một bài văn đúng quy cách là bài văn mà khi nhìn vào tờ giấy, chưa cần đọc  
đã thấy rõ ba phần: Mở bài, thân bài kết bài. Muốn thế người viết không chỉ phải  
chú ý đến nội dung mà hình thức cũng phải rõ ràng.  
Trong thực tế dạy học tôi thấy bài văn của học sinh mình chưa đáp ứng  
được những yêu cầu của một văn bản trong nhà trường. Bài văn của các em vẫn  
còn hiện tượng lạc đề, lệch đề do không chú ý đến việc tìm hiểu đề. Đoạn văn trong  
bài thường sai quy cách. Bên cạnh đó việc giữa các đoạn văn chưa sự liên kết.  
Do đó tôi thấy cần phải tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra giải pháp tốt giúp học  
sinh làm tốt bài tập làm văn. Qua thời gian tìm tòi và vận dụng, cho đến nay tôi đã  
tìm được cho mình một cách làm mang lại hiệu quả cao. Trong cách làm đó vấn đề  
tích hợp có vai trò rất quan trọng. Đó cũng là yêu cầu của dạy học Ngữ văn hiện  
nay.  
Cũng chính xuất phát từ đó tôi đã tiến hành tìm tòi nghiên cứu vận dụng  
vào thực tế giảng dạy Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài làm văn trong  
chương trình Ngữ văn lớp 8 tại trường THCS”.  
2. MỤC ĐÍCH CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM  
Khi chọn hướng nghiên cứu Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài tập  
làm văn trong chương trình Ngữ văn 8 với mục đích cung cấp cho học sinh một  
con đường nhanh và dễ để tạo lập văn bản trong khi làm bài viết. Đồng thời giúp  
cho bản thân tìm hiểu sâu hơn về các vấn đề: Tìm hiểu đề, viết đoạn văn trong văn  
bản tự sự, liên kết đoạn văn trong văn bản tự sự từ đó hình thành cho mình kĩ năng  
để góp phần làm tốt bài văn. Ngoài ra với mục đích để trao đổi với đồng nghiệp để  
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm  
M«n Ng÷ v¨n 8  
-2-  
______________________________________________________________________________  
cùng nhau bổ khuyết, xây dựng cho giải pháp càng hoàn thiện hơn trong quá trình  
áp dụng.  
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU, PHẠM VI NGHIÊN CỨU  
3.1. Đối tượng nghiên cứu:  
Đối với đtài sáng kiến này chúng tôi chỉ nghiên cứu dừng lại 3 vấn đề:  
- Tìm hiểu đề;  
- Viết đoạn văn trong văn bản tự sự;  
- Liên kết đoạn văn trong văn bản tự sự.  
Qua việc nghiên cứu này cung cấp cho học sinh những giải pháp giúp các em  
biết tạo lập một văn bản đúng và hay.  
Những biện pháp này chỉ áp dụng trong phạm vi văn bản tự sự trong chương  
trình Ngữ văn 8.  
3.2. Phạm vi nghiên cứu:  
Sáng kiến kinh nghiệm này được vận dụng vào thực tế giảng dạy ở ba lớp 8  
tại trường.  
PHẦN II: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM  
1. Thực trạng của vấn đề  
Khi nhìn vào kết quả thi đại học hàng năm ở khối D và C, nhiều người không  
khỏi chạnh lòng khi nghĩ đến thực trạng của học sinh học môn Ngữ văn. Những bài  
phân tích, cảm thụ, bình giảng của các thí sinh đã làm cho các giám khảo đáng  
kính phải cười ra nước mắt những người trực tiếp làm công tác giảng dạy phải  
rung một hồi chuông báo động trước dư luận về thực tế học sinh học Văn hiện nay.  
Đó là tình trạng học sinh viết sai lỗi chính tả quá nhiều, không phân biệt nổi L và  
N, không viết hoa tên riêng, ngay cả tên tác giả, tên nhân vật; dấu câu thì sử dụng  
tuỳ tiện, có khi cả trang giấy không có dấu chấm hay dấu phẩy, cách hành văn lủng  
củng…. Còn về nội dung thi cụt lủn về ý tưởng duy. Ít học sinh biết rung  
động trước một bài thơ hay, một câu văn đẹp, học sinh chưa có ý thức tự khám phá  
ra vẻ đẹp của tác phẩm chủ yếu dựa trên sự cảm thụ của thầy cô giáo và phụ  
thuộc vào sách hướng dẫn, sách học tốt. Việc chuẩn bị bài soạn văn ở nhà của  
nhiều em vẫn còn sài, chưa thật tự giác và thường ỷ vào các sách tham khảo.  
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm  
M«n Ng÷ v¨n 8  
-3-  
______________________________________________________________________________  
Học sinh học Văn vẫn quan niệm rất sai lầm Ngữ văn là môn học thuộc lòng thuần  
tuý. Vì vậy có em đã học thuộc cả một bài phân tích tác phẩm không sai một từ,  
một câu và cả dấu câu theo sách văn mẫu để chuẩn bị làm bài kiểm tra.  
Thực trạng đau lòng ấy, rất nhiều giáo viên đã thấy chỉ biết xót xa, buồn  
lòng mà thôi. Nguyên nhân sâu sa của vấn đề ấy là:  
- Học sinh ít đọc sách Văn học quá. Nhiều em chỉ thích đọc truyện tranh với  
nhiều quyển truyện lời lẽ, câu cú cụt lủn, lời đối thoại trống không, chỉ mang  
tính giải trí là chính, thiếu tính giáo dục nghệ thuật.  
- Thời đại Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, học sinh không thích tìm hiểu  
khám phá sách Văn học như thế hệ trước đây. Các em bị cuốn hút vào những trò  
chơi điện tử, mạng, khoa học công nghệ ….  
- Thi kì kinh tế thtrường, hc sinh có xu hướng thc dng trong vic chn  
nghnghip, hc sinh thích hc khi A để ra trường ddàng xin vic làm hơn.  
-Ý chí học tập của nhiều học sinh chưa cao, chưa nỗ lực hết mình, ngại khó  
ngại khổ, dchán và chưa chăm chỉ.  
Về phía người giáo viên, trước đây khi dạy văn tự sự cho các em, tôi mới chỉ  
giúp các em nắm bắt được những nội dung cơ bản trong sách giáo khoa. Trong quá  
trình dạy chỉ dạy tập làm văn ở những tiết học về tập làm văn, chưa tận dụng được  
thời gian các phân môn khác để tích hợp với phần tập làm văn. Đặc biệt chưa chú  
trọng luyện tập và ra bài tập về nhà cho các em để từ đó hình thành kĩ năng làm bài.  
Với những khó khăn như vậy, mỗi giáo viên dạy Ngữ văn phải tìm biện pháp  
giúp học sinh nắm và làm tốt bài tập làm văn. Cũng chính từ sự băn khoăn, trăn trở:  
“Làm sao giúp học sinh làm tốt bài tập làm văn ?”. Qua quá trình dạy học, quá trình  
tìm tòi tôi đã được những biện pháp giúp học sinh làm tốt bài tập làm văn trong  
chương trình Ngữ văn 8.  
Trong những biện pháp đó, việc động viên khích lệ về tinh thần cũng như vật  
chất (điểm số) rất quan trọng.  
Sau đây tôi xin trình bày Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài tập  
làm văn trong chương trình Ngữ văn 8 ở trường THCS”.  
2. Một số giải pháp giúp học sinh học tốt phân môn tập làm văn trong nhà  
trường THCS:  
2.1. Tìm hiểu đề (hay còn gọi là phân tích đề):  
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm  
M«n Ng÷ v¨n 8  
-4-  
______________________________________________________________________________  
Để một bài văn hoàn chỉnh người viết phải trải qua năm bước (Tìm hiểu  
đề, tìm ý, lập dàn ý, viết bài văn, đọc sửa bài), trong đó tìm hiểu đề bước thứ  
nhất. Kĩ năng tìm hiểu đề kĩ năng định hướng cho toàn bộ quá trình thực hiện  
một bài tập làm văn. Tuy vậy đa số học sinh thường không chú ý đến bước này. Vì  
vậy trong quá trình làm bài các em thường lạc đề hoặc lệch đề nên bài văn thường  
không có điểm cao.  
Cũng chính vì lẽ đó hướng dẫn các em làm tốt bước này sẽ giúp học sinh  
tránh được việc lạc đề, lệch đề. Từ đó bài văn sẽ tốt hơn.  
Nắm được hạn chế đó của học sinh nên tôi luôn hướng dẫn học sinh thực  
hiện thao tác này và nó được lặp đi lặp lại ở mỗi bài viết cũng như trước các đề  
trong bài học. Trên cơ sở đó các em sẽ biến nó thành một kĩ năng cần thiết trước  
khi viết bài.  
Để học sinh xem tìm hiểu đề một bước không thể thiếu khi làm bài thì  
giáo viên phải giúp các em thành thạo bước này trong quá trình dạy học. Người  
giáo viên nên tận dụng thời gian để cho các em luyện tập.  
dụ:  
Như ra đề rồi yêu cầu HS về nhà thực hiện, trước các bài viết số 1, số 2,  
trong các đề có trong SGK, …  
Để giúp học sinh tìm hiểu đề, trước một đề bài tôi thường yêu cầu học sinh  
đọc nhiều lần (thậm chí yêu cầu học sinh đọc thuộc đề); lấy bút chì gạch chân  
những từ cần chú ý, chép lại đề với những ý có gạch đầu dòng để làm cho nổi bật  
các yêu cầu của đề; xác định ba yêu cầu của đề.  
Kết quả của bước tìm hiểu đề phải giúp học sinh xác định được tất cả các yêu  
cầu của đbài:  
- Kiểu bài: Tự sự hay miêu tả, tường thuật hay giải thích, …  
Lời yêu cầu về kiểu bài: theo lối trực tiếp – nói thẳng (như hãy kể … ) hay  
lời yêu cầu gián tiếp – nói vòng (như Em thấy mình đã khôn lớn … )  
- Đề bài và giới hạn: học sinh cần tìm hiểu rõ qua từng từ ngữ để xác định  
giới hạn của đề bài. Chỉ một sơ suất nhỏ trong việc xác định giới hạn của đề bài  
cũng thể dẫn các em từ tản mạn, xa đề đến lạc đề…  
dụ :  
Cho đề bài: Em hãy kể lại một kỉ niệm sâu sắc thời thơ ấu.  
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm  
M«n Ng÷ v¨n 8  
-5-  
______________________________________________________________________________  
Trước đề này có rất nhiều học sinh kể ra hai, ba kỉ niệm, không có kỉ niệm  
nào được kể một cách đầy đủ (nhưng đề yêu cầu kể một kỉ niệm).  
Tìm hiểu đề bước quan trọng, tuy nhiên trong chương trình học các em lại  
chỉ được học không đến một tiết (ở lớp 6). Thêm vào đó ở chương trình Ngữ văn 8  
các em học văn tự sự chỉ trong 13 tiết nên thời gian không nhiều.  
Để khắc phục được khó khăn đó và cho học sinh thực hiện tốt bước này tôi  
đã kết hợp thời gian trên lớp, thời gian nhà của các em để hướng dẫn và cho các  
em thực hành.  
dụ 1:  
Khi dạy xong tiết 8 – Bố cục của văn bản, trước khi đi vào làm bài tập trong  
SGK giáo viên có thể cho học sinh thực hiện bước này. Giáo viên treo bảng phụ có  
chép sẵn đề bài:  
Em hãy kể lại một kỉ niệm sâu sắc trong thời thơ ấu của em.  
Yêu cầu trả lời :  
- Kiểu bài của mỗi đề là gì?  
- Lời yêu cầu ở mỗi đtrực tiếp hay gián tiếp?  
- Nội dung của đề bài nằm trong giới hạn nào (kể về một hay nhiều kỉ niệm)?  
- Lưu ý: Đọc thật kĩ đề bài, lấy bút chì gạch dưới những từ ngữ quan trọng.  
Ở đây do là tiết đầu hướng dẫn học sinh làm nên có thể cho các em tự tìm  
hiểu nhanh sau đó giáo viên hướng dẫn các em làm:  
* Kiểu bài:  
- Đề kiểu bài tự sự.  
- Đề có yêu cầu trực tiếp.  
* Giới hạn của đề bài: kể duy nhất một kỉ niệm, đó kỉ niệm đáng nhớ nhất  
ở thời thơ ấu.  
Từ nội dung đó giáo viên nhắc nhở học sinh: từ bây giờ, trước khi viết một  
bài văn các em nên tìm hiểu đề bài trước để viết bài văn cho tốt bằng cách thực  
hiện các yêu cầu như bài tập các em vừa làm. Có thể khái quát thành hai nội dung  
cơ bản (ta gọi Tìm hiểu đề):  
- Xác định kiểu bài;  
- Xác định nội dung của đề bài;  
- Xác định giới hạn của đề bài.  
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm  
M«n Ng÷ v¨n 8  
-6-  
______________________________________________________________________________  
Sau khi hướng dẫn các em thực hiện xong giáo viên có thể ra đề yêu cầu các  
em về nhà làm. Ở tiết học tiếp theo giáo viên xem bài các em làm và cho điểm (nếu  
làm tốt).  
dụ 2:  
Khi dạy xong bài Xây dựng đoạn văn trong văn bản (tiết 10 – bài 3), giáo  
viên yêu cầu học sinh: Ngoài việc chuẩn bị để làm bài các em thực hiện trước bước  
tìm hiểu đề cho các đề có trong phần Viết bài tập làm văn số 1 – văn tự sự.  
Tới tiết 11-12, trước khi viết bài giáo viên yêu cầu 1 hoặc 2 học sinh trình  
bày kết quả việc tìm hiểu đề rồi mới đi vào viết bài.  
Học sinh trả lời :  
Đề 1: Kể lại những kỉ niệm trong ngày đầu tiên đi học.  
- Kiểu bài: kể (tự sự), yêu cầu trực tiếp.  
- Giới hạn: những kỉ niệm trong ngày đầu tiên đi học (chỉ trong ngày  
đầu tiên mà thôi).  
Đề 2. Người ấy (bạn, thầy, người thân, …) sống mãi trong lòng tôi.  
- Kiểu bài: kể (tự sự), yêu cầu gián tiếp.  
- Giới hạn: chỉ kể về một người thân (có thể một kỉ niệm khó quên  
với người đó).  
dụ 3:  
Tương tự như dụ 2, trước khi Viết bài viết số 2, giáo viên cũng yêu cầu  
học sinh thực hiện bước tìm hiểu đề.  
Trong quá trình dạy học (nhất ở tiết trả bài) tôi đã cho học sinh thấy một  
cách nghiêm túc rằng lạc đề lỗi nặng nhất, nghiêm trọng nhất của một bài tập  
làm văn. Một bài văn lạc đề dù có những đoạn văn hay đến đâu cũng không thể đạt  
được điểm số cần thiết.  
Đối với giáo viên, trước một đề tập làm văn việc tìm hiểu đề đơn giản  
nhưng với học sinh bước này rất quan trọng. vậy, trước bất cứ một đề văn nào  
giáo viên luôn yêu cầu học sinh thực hiện bước này.  
thể nói rằng đây một bước mất ít thời gian của tiết học nhưng nó mang  
lại hiểu quả rất tốt cho học sinh.  
2.2. Viết đoạn văn trong văn bản tự sự :  
Thế nào là đoạn văn? Đoạn văn đơn vị cấu tạo nên văn bản, bắt đầu từ chữ  
viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một  
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm  
M«n Ng÷ v¨n 8  
-7-  
______________________________________________________________________________  
ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành. Đoạn văn thường  
có câu chủ đề hoặc từ ngữ chủ đề. Ta thường đoạn văn diễn dịch, quy nạp, song  
hành, …  
Đoạn văn đơn vị cấu tạo nên văn bản. vậy viết tốt đoạn văn một  
trong những điều kiện để một bài văn hay.  
Trong chương trình Ngữ văn 8, học sinh được học cách xây dựng đoạn văn ở  
tiết 10 – Xây dựng đoạn văn trong văn bản, trong đó học sinh đã nắm được kiến  
thức về hình thức nội dung của đoạn văn. Trên cơ sở bài này, các em đã kiến  
thức về cách xây dựng đoạn văn. Từ đó tôi thường xuyên cho học sinh luyện tập  
nhận diện đoạn văn cũng như viết đoạn văn ở trên lớp nhà.  
Trước hết, sau khi học xong tiết 10 – Xây dựng đoạn văn trong văn bản  
giáo viên cho học sinh làm bài tập nhận điện đoạn văn. Đây bước giúp học sinh  
nhận biết cũng như khắc sâu kiến thức về đoạn văn. Trong SGK Ngữ văn 8 có rất  
nhiều đoạn văn chuẩn, dựa vào ưu điểm này giáo viên cho học sinh làm bài tập  
nhận diện.  
dụ 1:  
Sau khi dạy xong tiết 10 - Xây dựng đoạn văn trong văn bản, ở bước củng cố  
nêu yêu cầu: các em xem đoạn văn b trong bài tập 1, phần luyện tập ở trang 26 và  
đoạn văn giới thiệu về Nam Cao trong phần chú thích trang 45 rồi xác định các  
đoạn văn đó được viết theo cách nào?  
Học sinh trả lời:  
- Đoạn văn ở trang 26 là đoạn văn viết theo lối diễn dịch (câu chủ đề nằm ở  
đầu đoạn), chủ đề là nói về vẻ đẹp huyền ảo trong ngày của Ba Vì.  
- Đoạn giới thiệu về Nam Cao trang 45 được viết theo lối song hành (từ  
ngữ chủ đlà Nam Cao, ông), đối tượng là Nam Cao.  
Học sinh trả lời được như vậy đã nắm được “Thế nào là đoạn văn”. Trên  
cơ sở đó tôi cho học sinh đi vào thực hành kĩ năng viết đoạn văn.  
dụ 2:  
Tiếp tục bài tập nhận diện đoạn văn, giáo viên có thể yêu cầu các em về nhà  
đọc các văn bản Tại sao lá cây có màu xanh lục, Huế rồi yêu cầu các em xác định:  
văn bản Tại sao lá cây có màu xanh lục được viết theo kiểu nào: Trong văn bản  
Huế đoạn văn nào được viết theo kiểu diễn dịch? …  
Học sinh trả lời:  
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm  
M«n Ng÷ v¨n 8  
-8-  
______________________________________________________________________________  
Văn bản Tại sao lá cây có màu xanh lục đoạn văn quy nạp (câu chủ đề  
nằm ở cuối đoạn Văn bản này chỉ một đoạn văn). Trong văn bản Huế đoạn  
văn thứ hai và đoạn văn thứ ba được viết theo lối diễn dịch (câu chủ đề nằm ở đầu  
đoạn).  
Khi học sinh nhận diện đúng đoạn văn tức là các em đã nắm được kiến thức  
về đoạn văn. Từ đây giáo viên bắt đầu cho các em thực hành viết đoạn văn.  
Trong quá trình học, học sinh được học rất nhiều văn bản tự sự. Đó điều  
kiện giúp các em viết tốt đoạn văn tự sự.  
Khi cho học sinh thực hành viết đoạn văn giáo viên cũng cần chia làm hai  
giai đoạn: trước hết cho học sinh viết đoạn văn với câu chủ đề cho trước, tiếp theo  
mới viết theo yêu cầu mà không có câu chủ đề (học sinh tự đặt câu).  
dụ 1:  
Khi học xong văn bản Lão Hạc của Nam Cao (tiết 13 -14, bài 4) tôi cho học  
sinh bài tập về nhà: Về nhà mỗi em viết một đoạn văn nói về Lão Hạc người  
nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng tám (cho HS câu chủ đề: Lão Hạc là  
con người nghèo khổ nhưng nhiều phẩm chất đáng quý.)  
Tới tiết 16 – Liên kết đoạn văn trong văn bản, khi kiểm tra bài xong, GV  
mời một HS trình bày đoạn văn của mình cho thầy cùng cả lớp nghe rồi GV nhận  
xét. Cuối tiết học GV thu bài lại để về nhà chấm, nhận xét và sửa cho HS.  
dụ 2:  
Khi dạy xong tiết 21 – 22, văn bản Cô bé bán diêm, GV ra bài tập cho HS về  
nhà làm:  
Em thử tưởng tượng mình là người chứng kiến cái chết của cô bé trong  
truyện Cô bé bán diêm của An – đéc – xen, bây giờ các bạn muốn nghe em kể lại  
cái chết của cô bé. Vậy em hãy viết một đoạn văn kể lại cho các bạn cùng nghe.  
Tới tiết học tiếp theo giáo viên thu bài của các em về nhà chấm, sửa nhận  
xét trong bài viết cho các em.  
Khi trả lại bài cho học sinh, giáo viên cho đọc một số bài viết tốt để các em  
rút kinh nghiệm cho bài của mình.  
dụ 3:  
Bài Từ ngữ địa phương biệt ngữ hội (tiết 17 – bài 5) có nội dung  
tương đối ngắn, bài tập dễ nên giáo viên cho học sinh làm bài tập ở nhà. Thời gian  
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm  
M«n Ng÷ v¨n 8  
-9-  
______________________________________________________________________________  
trên lớp giáo viên cho học sinh làm bài tập: em hãy viết một đoạn văn ngắn kể về  
người mẹ (hoặc cha) của mình trong đó sử dụng từ ngữ địa phương.  
Khi học sinh viết xong, giáo viên mời 2 học sinh đọc bài rồi mời những học  
sinh khác nhận xét. Sau đó giáo viên kết luận về nội dung, chủ đề và hình thức  
trình bày.  
Bài của những học sinh còn lại giáo viên thu để về nhà xem (học sinh chưa  
viết xong thì thu lại ở tiết sau).  
dụ 4:  
Khi dạy xong tiết 25 - 26, Đánh nhau với cối xay gió, giáo viên yêu cầu học  
sinh về nhà viết đoạn văn với gợi ý: Sự tương phản giữa Đôn - ki - hô - tê và Xan -  
chô - Pan - xa.  
Đến tiết 28, bài 7 - Luyện tập viết đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và  
biểu cảm, giáo viên mời 2 học sinh trình bày đoạn văn.  
Trên cơ sở đó ở tiết 28 này học sinh viết đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả  
biểu cảm rất dễ.  
Khi học sinh luyện viết đoạn văn thể lỗi về câu và chính tả do học sinh  
tự sắp xếp vậy giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh sửa lỗi vcâu và chính tả.  
thể nói việc luyện viết đoạn văn tự sự rất cần thiết, học sinh viết tốt  
đoạn văn tự sự nghĩa học sinh đã nắm được những yêu cầu của đoạn văn.  
Trên cơ sở đó khi học văn bản thuyết minh và văn nghị luận học sinh sẽ viết tốt  
đoạn văn - đó một trong những tiền đề để học sinh làm tốt các kiểu văn bản khác.  
2.3 Liên kết đoạn văn trong văn bản:  
Một bài văn được tạo thành bởi nhiều đoạn văn liên kết lại với nhau. Bài văn  
một chỉnh thể hoàn chỉnh nên giữa các đoạn văn cần sự liên kết với nhau.  
Liên kết đoạn văn nhằm mục đích làm cho ý của cả đoạn vừa phân biệt nhau vừa  
liền mạch với nhau một cách hợp lí, tạo tính chỉnh thcho văn bản. Muốn vậy, phải  
tạo mối quan hệ ngữ nghĩa chặt chẽ, hợp giữa các đoạn văn với nhau và sử dụng  
các phương tiện liên kết phù hợp.  
Trong chương trình ngữ văn 8 học sinh đã được học Liên kết các đoạn văn  
trong văn bảnở tiết 16, bài 4.  
Trên cơ sơ bài học này giáo viên hướng dẫn học sinh thực hành việc liên kết  
đoạn văn do các em tạo ra.  
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm  
M«n Ng÷ v¨n 8  
-10-  
______________________________________________________________________________  
Trước hết giáo viên cho học sinh làm bài tập nhận diện các phương tiện liên  
kết đoạn văn.  
dụ 1:  
Khi dạy xong bài Liên kết các đoạn văn trong văn bản - tiết 16, bài 4, giáo  
viên yêu cầu: về nhà các em đọc văn bản Cô bé bán diêm (An - đéc - xen) trang  
64. Sau đó xác định các từ ngữ và câu có tác dụng nối giữa các đoạn văn trong văn  
bản đó.  
Tới tiết 18, bài 5 - Tóm tắt văn bản tự sự, trong phần kiểm tra bài cũ, giáo  
viên mời học sinh trình bày (giáo viên kết luận) những từ ngữ, câu có tác dụng nối  
như:  
- Em quẹt que diêm thứ hai,…  
- Em quẹt que diêm thứ ba.  
- Em quẹt que diêm nữa vào tường, …  
- Thế là …  
- Sáng hôm sau,  
- Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy …  
dụ 2:  
Cũng như dụ 1, nhưng thể cho học sinh tìm phương tiện liên kết trong  
văn bản Đánh nhau với cối xay gió” ( Xéc - van - téc), ở văn bản này thì dễ nhận  
biết hơn.  
Học sinh có thể tìm được các phương tiện liên kết:  
Vừa bàn tán về cuộc phiêu lưu mới xảy ra, …  
Đêm hôm ấy, …  
Trên cơ sở bài tập này, giáo viên đã giúp học sinh khắc sâu kiến thức phần lí  
thuyết, từ đây thể cho học sinh thực hành việc liên kết đoạn văn.  
Việc viết các đoạn văn sự liên kết với nhau đối với học sinh trung bình và  
yếu tương đối khó. Cho nên trong quá trình dạy tôi luôn có những đoạn văn mẫu  
cho các em. Bên cạnh đó là bài của các em học sinh khá giỏi. Đồng thời luôn khích  
lệ tinh thần cho các em.  
Ở dạng bài này, giáo viên vừa cho học sinh luyện tập ở trên lớp vừa cho các  
em về nhà làm (giáo viên phải thu vở bài tập rồi chấm sửa cho học sinh).  
dụ 1:  
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm  
M«n Ng÷ v¨n 8  
-11-  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 17 trang minhvan 05/06/2025 420
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài làm văn trong chương trình Ngữ văn lớp 8 tại trường THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lam_tot_bai_lam_van_tron.doc