SKKN Một số bài tập bổ trợ nhằm nâng cao thành tích nhảy cao kiểu bước qua cho học sinh nam khối 8 Trường THCS Trần Quang Khải – Ninh Hòa – Khánh Hòa

Hiện nay ngành giáo dục và đào tạo đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong hoạt động học tập nhằm phù hợp với xu thế của thời đại.
A.ĐꢀT VꢁN Đꢂ:  
Thể dục thể thao là một bộ phận của nền văn hóa chung là một sự tổng hợp  
những thành tựu xã hội trong sự nghiệp sáng tạo và sử dụng những biện pháp  
chuyên môn để điều khiển sự phát triển thể chất con người một cách có chủ định,  
nhằm nâng cao sức khỏe, kéo dài tuổi thọ. Thể dục thể thao ra đời và phát triển  
theo sự phát triển của xã hội loài người.  
Thể dục thể thao là ngành mang tính khoa học nghệ thuật, là một bộ phận tất  
yếu của nền văn hóa nghệ thuật, là một bộ phận không thể thiếu trong nền văn hóa  
của mỗi dân tộc, cũng như nền văn hóa của nhân loại. Thể dục thể thao không  
ngừng nâng cao sức khỏe, phục vụ sản xuất, bảo vệ tổ quốc, càng góp phần xây  
dựng cuộc sống lành mạnh, mang lại nét đẹp cho thẩm mỹ và cho nhân loại.  
Các hoạt động thể dục thể thao không những là hình thức duy trì nâng cao  
phẩm chất năng lực, giữ gìn sức khỏe mà còn là niềm say mê, niềm tự hào và cổ vũ  
to lớn cho nhân dân lao động. Trong giai đoạn kinh tế của đất nước đang trên đà  
phát triển, thể thao là một bộ phận không thể tách rời của công cuộc đổi mới, nên  
nó được phát triển mạnh mẽ, được giao lưu cọ sát với nền thể thao của nhiều nước  
trong khu vực và trên thế giới, không ngừng kế thừa và tiếp thu có chọn lọc những  
thành tựu khoa học kỹ thuật của nền thể thao nhân loại.  
Nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước mà ngành thể dục thể thao nói chung  
và nền kinh tế nói riêng đã đạt được thành tích đáng khích lệ trong các kỳ tranh tài  
trên đấu trường quốc tế. Mặc dù những thành tích đó còn khiêm tốn nhưng cũng là  
một tín hiệu đáng mừng và khẳng định được bước phát triển của nền thể thao nước  
nhà.  
Điền kinh ở nước ta có quá trình phát triển lâu đời, nó được nhân dân ta tập  
luyện để tăng cường sức khỏe, tham gia lao động sản xuất và chống ngoại xâm.  
Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục sức khỏe cho nhân dân, thực  
hiện theo lời Bác Hồ “ Dân cường thì nước thịnh ”. Với phương châm “ Khỏe để  
xây dựng và bảo vệ tổ quốc ”, vì thế môn điền kinh đã trở thành nội dung chính  
trong các trường phổ thông về giáo dục thể chất, nâng cao tinh thần cho học sinh và  
là tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho các tầng lớp nhân dân, từ đó phát hiện và bồi  
dưỡng nhân tài.  
Trong những năm gần đây giáo dục thể chất trong nhà trường ở cấp THCS  
đã và ngày càng được chú trọng hơn rất nhiều, các câu lạc bộ thể dục thể thao,  
ngoại khóa trong trường học ngày càng được phát triển nhằm tạo ra sân chơi lành  
mạnh nên được các em cũng nhưng các bậc phụ huynh hưởng ứng. Chính vì vậy  
mà thể chất được cải thiện lên rất nhiều.  
Chương trình giáo dục thể chất trong nhà trường THCS hiện nay là điền  
kinh. Mỗi một nội dung học tập có tác động làm cho sự thay đổi khác nhau đến  
từng bộ phận cơ thể học sinh. Từ đó dẫn đến sự thay đổi hay nói đúng hơn là sự  
phát triển các tố chất thể lực cho học sinh. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy, trang  
thiết bị và điều kiện sân bãi phục vụ cho việc giảng dạy và học tập chưa đáp ứng tốt  
nhu cầu nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong nhà trường. Do đó công tác  
- 1 -  
tham gia thi đấu các môn thể thao nói chung và điền kinh nói riêng, thành tích đạt  
được rất khiêm tốn.  
Hiện nay ngành giáo dục và đào tạo đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học  
theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong hoạt động  
học tập nhằm phù hợp với xu thế của thời đại. Đồng thời tiếp tục thực hiện “ Năm  
học thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới quản lí tài chính và triển khai  
phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực ” và “ Năm học đổi  
mới công tác quản lí và nâng cao chất lượng giáo dục”. Vấn đề này đã đặt ra yêu  
cầu cấp thiết đối với giáo viên giảng dạy môn Thể dục cấp THCS là chất lượng bộ  
môn ngày càng được nâng cao. Nhận thức được điều đó tôi mạnh dạn đưa ra một số  
sáng kiến nhỏ trong việc nâng cao thành tích nhảy cao kiểu bước qua cho học sinh  
nam khi lp 8 cp Trung Học Cơ Sở, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn thể  
dục trong nhà trường THCS.  
Muốn giải quyết các vấn đề nêu trên để nâng cao thành tích và áp dụng các  
bài tập bổ trợ vào thực tế giảng dạy môn Điền kinh và nội dung nhảy cao là hết sức  
quan trọng, rất có giá trị và cần thiết trong giai đoạn hiện nay đó là một công việc  
hết sức khó khăn. Với tầm quan trọng trên tôi đã chọn đề tài: “ Một số bài tập bổ  
trợ nhằm nâng cao thành tích nhảy cao kiểu bước qua cho học sinh nam khối 8  
Trường THCS Trần Quang Khải – Ninh Hòa – Khánh Hòa ”.  
B. GII QUYT VꢁN Đꢂ:  
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:  
1. Kỹ thuật nhảy cao kiểu "Bước qua":  
Kỹ thuật nhảy cao gồm 4 giai đoạn: Chạy đà – Giậm nhảy – Trên không –  
Rơi xuống đất.  
a.Kỹ thuật chạy đà:  
- Kthut chạy đà 5 – 7 9 – 11 bước tùy theo mức xà cao hay thấp và khả  
năng của mi ngưi.  
- Các bước đà chia làm hai phn : Mt số bước đà đầu và ba bước đà cui.  
- những bước đà đầu cn chạy tăng tốc độ và chuẩn bcho thc hiện các  
bước đà cuối được thun li.  
+ Bước thnhất : Bước chân giậm nhảy ra trước nhanh hơn các bước trước  
đó và đặt gót bàn chân chạm đất.  
+ Bước thứ hai : Bước chân lăng ra trước và bước dài nhất trong ba bước đà  
cuối. Chân chạm đất phía trước bng gót bàn chân, sau đó hơi miết cổ chân xuống  
đất. Việc duy trì tốc độ đạt được lúc này rất quan trng, vì vậy cn githân cho  
thẳng , không được ngả vai ra sau trước khi kết thúc thời kchống đỡ.  
+ Bước thứ ba : Đây là bước đà đưa chân giậm nhảy vào điểm (hoc khu  
vc) gim nhảy và có độ dài ngắn nhất trong ba bước đà cuối. Bước này cần đưa rất  
nhanh vùng hông và chân giậm ra trước chạm đất bằng gót bàn chân, sao cho trọng  
tâm cơ thể cách xa phía sau gót chân giậm nhảy. Chân lúc này thẳng từ gót đến  
hông, thân trên hơi ngả ra sau, hai tay co ở phía sau để chun bphi hp khi gim  
- 2 -  
nhy. Cần chú ý: Không phải thân trên chủ động ngả ra sau, mà chủ yếu do đưa  
nhanh vùng hông và chân giậm nhảy ra trước tạo nên.  
b. Kthut gim nhy:  
- Đây là giai đoạn quan trng nht trong nhy cao. Gim nhy cn mnh,  
nhanh, phi hợp ăn nhp giữa chân và tay, giữa chạy đà và giậm nhy.  
- Theo lut thi nhy cao, vận động viên phải nhy tmức xà nhất định đến cao  
nht theo khả năng của mình. Mức xà càng cao, điểm gim nhảy càng cần nhích xa  
xà hơn, do đó vận động viên phải biết điều chỉnh đà cho hợp lý.  
- Chạy đà – gim nhy tốt, nhưng nếu đỉnh cao đạt được không trùng với đỉnh  
cao của xà ngang củng dễ làm rơi xà. Ví dụ mt hc sinh nhy ba lần đều đạt được  
độ cao như nhau, nhưng lần một do điểm gim nhảy xa quá, đỉnh cao đạt được ở  
phía ngoài xa, lúc rơi xuống làm rơi xà. Lần nhy hai, gim nhy gần xà quá, đỉnh  
cao đạt được phía trong xà, nên cũng làm rơi xà. Lần nhy ba, gim nhy ở điểm  
gim nhy hợp lý, đỉnh cao đạt được trùng với đnh cao của xà, nên đã qua được xà.  
- Góc độ gim nhy hợp lý kiểu “ Bước qua” đối vi hc sinh THCS khong  
900, góc độ bay khong 70-800.  
c. Kỹ thuật trên không:  
- Sau giậm nhảy, khi chuẩn bị qua xà cần gập thân ra trước, không được để  
thân thẳng đứng hoặc ngả ra sau, vì như vậy sẽ bị “tụt mông”, nghĩa là không nâng  
được mông lên cao, dễ làm rơi xà.  
- Chân đá lăng và tay cùng bên qua xà trước. Khi chân lăng qua xà cần duỗi  
thẳng và thực hiện động tác hết sức khéo léo để không làm rơi xà.  
- Khi chân giậm nhảy chuẩn bị qua xà cần đá thẳng chận mạnh lên cao phối  
hợp với tay cùng bên khéo léo không để vướng xà.  
- Ở giai đoạn trên không có nhiều kiểu nhảy cao khác nhau căn cứ vào đường  
đi của trọng tâm cơ thể trong không gian. Trọng tâm cơ thể nằm khoảng giữa rốn  
và đốt sống thắt lưng.  
d. Kỹ thuật rơi xuống đất:  
- Chân lăng tiếp đất trước, sau đó đến chân giậâm nhảy. Khi chân bắt đầu  
chạm đất, cần dùng chân để giảm chấn động.  
- Khi tiếp đất vẫn cần chú ý động tác của tay và thân trên cho khéo để không  
chạm xà.  
2. Phương pháp giảng dạy kỹ thuật nhảy cao kiểu bước qua:  
Cần sử dụng các biện pháp chính sau đây để giải quyết các nhiệm vụ trong  
nhảy cao.  
Nhiệm vụ 1: Xây dựng khái niệm kỹ thuật thông qua các biện pháp sau:  
- Giới thiệu, phân tích và làm mẫu kỹ thuật  
- Cho xem phim, ảnh, mô hình kỹ thuật.  
- Cho người tập nhảy tự do để xác định chân giậm nhảy và nắm đặc điểm của  
từng người.  
Nhiệm vụ 2: Dạy kỹ thuật giậm nhảy thông qua các biện pháp sau:  
- Phân tích và làm mẫu kỹ thuật.  
- 3 -  
- Tại chỗ tập đặt chân vào điểm giậm nhảy (chú ý cả tư thế chân lăng, thân  
người và tay)  
- Vịn tay phải chân giậm vào thang gióng (hoặc vật cố định) tập đặt chân, giậm  
nhảy và đá lăng.  
- Đi bộ, chạy chậm 2-3 bước tập phối hợp giậm nhảy đá lăng.  
- Chạy đà ngắn (3-5 bước) giậm nhảy đá lăng lên vật chuẩn .  
- Chạy đà chính diện (3 bước) giậm nhảy đá lăng qua xà thấp  
Nhiệm vụ 3: Dạy kết hợp chạy đà và kết hợp giậm nhảy thông qua những  
biện pháp sau:  
- Chạy đà 3 bước (chính diện) phối hợp giậm nhảy chân đá lăng thẳng qua  
xà thấp, khi qua xa chân giậm nhảy co.  
- Nâng xà cao dần, 5cm một lần nâng.  
- Chạy đà 3-5 bước đà chếch, giậm nhảy đá lăng dọc theo xà cao, rơi xuống  
bằng chân giậm .  
- Chạy đà 5-7 bước thực như bài tập trên.  
Nhiệm vụ 4: Dạy kỹ thuật và qua xà và rơi xuống đất.  
- Chạy đà 3 bước, giậm nhảy, đá lăng qua xà. Chân đá lăng gần như thẳng,  
kéo theo chân giậm cũng gần như thẳng, qua xà và rơi xuống đất bằng chân lăng rồi  
đến chân giậm.  
- Chạy 3 bước đà chếch, giậm nhảy xoay hông rồi kết hợp với thân người rơi  
xuống bằng chân lăng rồi đến chân giậm.  
- Chạy 3 bước đà chếch giậm nhảy qua xà xoay thân rơi xuống đất bằng chân  
lăng và chân giậm, xốc vai đánh tay lên cao, hai tay co ở khớp khuỷu.  
- Nhảy qua xà với cự ly chạy đà và chiều cao đà tăng dần đến mức trung bình.  
Nhiệm vụ 5: Hoàn thiện kỹ thuật thông qua các biện pháp sau:  
- Nhảy qua xà với cự ly đà và chiều cao đà tăng dần.  
- Nhảy qua xà với chiều dài đà và nhịp điệu ổn định, góc độ chạy đà thích hợp.  
- Nhảy toàn đà với kỹ thuật hoàn chỉnh và nâng cao dần mức xà.  
- Thi đấu và kiểm tra đánh giá kết quả.  
3. Đặc điểm phát triển tố chất thể lực lứa tuổi 13-14:  
* Tố chất mạnh :  
Là khả năng con người sinh ra lực cơ học bằng nỗ lực của cơ bắp, nói cách  
khác là khả năng sức mạnh khắc phục lực đối kháng bên ngoài hoặc đề kháng lại  
nó bằng nổ lực của cơ bắp.  
Cơ chế sinh lý của việc điều hoà sức mạnh cơ : Lực tối đa mà con người có  
thể sản sinh ra một mặt phụ thuộc vào đặc tính sinh cơ của động tác. Mặt khác, phụ  
thuộc vào mức độ hoạt động của từng nhóm cơ riêng biệt và sự phối hợp giữa  
chúng. Cơ chế sinh lý của các động tác được thực hiện với lực đối kháng khác nhau  
(trọng lượng). Đặc điểm cơ chế sinh lý của các bài tập so với lực đối kháng khác  
nhau cho thấy : Muốn phát triển sức mạnh, thì nhất định phải tạo được sự căng cơ  
tối đa. Nếu không thường xuyên tập luyện với mức căng cơ tương đối cao, thì sức  
- 4 -  
mạnh sẽ không được phát triển. Nếu tập luyện với mức căng cơ quá nhỏ, sẽ làm  
giảm sút sức mạnh. Đối với những người không phải là vận động viên, sự giảm sút  
sức mạnh xảy ra khi mức hoạt động của cơ bắp trong tập luyện nhỏ hơn sức mạnh  
tối đa 20%. Mức căng cơ càng nhỏ, thì quá trình giảm sút sức mạnh và hiện tượng  
teo cơ diễn ra càng nhanh.  
Sự phát triển tố chất mạnh có liên quan đến sự phát dục của hệ thần kinh và  
mức độ hình thành tổ chức xương cơ và dây chằng, tức là phụ thuộc vào bộ máy  
vận động. Nhưng ở các bộ phận khác nhau của cơ thể sự phát triển tố chất mạnh  
không giống nhau. Sức mạnh lưng bụng phát triển sớm. Học sinh tiểu học phát  
triển nhanh sức mạnh tốc độ, sức mạnh tĩnh lực phát triển chậm, còn sức mạnh bột  
phát sau 14 tuổi mới phát triển nhanh. Ngoài ra tỷ lệ sức mạnh giữa các nhóm cơ  
thay đổi tuỳ theo lứa tuổi. Sức mạnh của các nhóm cơ duỗi thân mình, đùi, cơ co  
bàn chân phát triển mạnh, trong khi các nhóm cơ như duỗi bàn tay, cẳng tay, cổ tay  
. . . phát triển yếu hơn, do đó mỗi lứa tuổi lại có một tỷ lệ phân bổ sức mạnh giữa  
các nhóm cơ đặc trưng của mình. Về nguyên tắc, sức mạnh của các cơ duỗi phát  
triển nhanh hơn sức mạnh của các cơ co, các cơ hoạt động nhiều sẽ phát triển với  
nhịp độ nhanh hơn. Sức mạnh cơ bắp phát triển với nhịp độ nhanh trong giai đoạn  
từ 13 – 15 đến 16 – 17 tuổi. Các năm sau đó sức mạnh phát triển chậm lại (nếu  
không có tập luyện đặc biệt). Tuy nhiên, do hiện tượng phát triển sớm một số nhóm  
cơ có thể phát triển sức mạnh ngay từ 12 – 13 tuổi, đặc biệt là các nhóm cơ chân.  
Do đó, cần phải sắp xếp hợp lý các bài tập phát triển sức mạnh; phát triển tốt nhất  
là trong thời kỳ mẫn cảm sức mạnh. Các bài tập sức mạnh đó chỉ nhằm phát triển  
thể lực toàn diện không nên dùng các bài tập sức mạnh chuyên môn.  
Tóm lại: Việc phát triển tố chất mạnh cho thanh thiếu niên cần được chú ý ở  
lứa tuổi 14 và được đẩy mạnh ở lứa tuổi 18 – tương ứng với thời gian hoàn thiện hệ  
cơ quan vận động.  
* Tố chất nhanh:  
Sức nhanh được coi là tố chất thể lực quan trọng, là khả năng của con người  
hoàn thành những hoạt động vận động trong khoảng thời gian ngắn nhất. Sức nhanh  
có 3 hình thức biểu hiện chủ yếu : thời gian tiềm phục của phản ứng vận động, tốc độ  
từng cử động riêng lẻ (khi lực cản bên ngoài bé), tần số động tác ... Chính vì vậy, chỉ  
số để đánh giá sức nhanh rất phong phú. Những hình thức biểu hiện đơn giản của sức  
nhanh tương đối độc lập với nhau, nhất là các chỉ số của thời gian phản ứng trong  
nhiều trường hợp, những chỉ số ấy tương ứng với những chỉ số của tốc độ động tác.  
Có thể phản ứng thì vô cùng mau lẹ và trái lại thì động tác thì tương đối chậm hoặc  
ngược lại. Sự kết hợp 3 hình thức đã nêu trên xác định mọi trường hợp biểu hiện sức  
nhanh.  
Thời gian phản ứng có thể đo được từ 2 – 3 tuổi. Trong lứa tuổi này thời gian  
đó vào khoảng 0,50 đến 0,90 giây. Song thời gian phản ứng biến đổi rất nhanh đến  
5 – 7 tuổi giảm xuống còn 0,30 – 0,40 giây và đến 13 – 14 tuổi đã đạt mức xấp xỉ  
người lớn (0,11 – 0,25 giây). Sự phát triển thời gian phản ứng xảy ra không đều. Từ  
- 5 -  
nhỏ đến 9 – 11 tuổi thời gian phản ứng giảm nhanh; các năm sau, nhất là sau 14  
tuổi, thời gian này giảm chậm. Vì vậy tập luyện có tác dụng làm giảm thời gian  
phản ứng rỏ rệt, nhất là 9 – 12 tuổi. Trong thời kỳ này sự khác biệt giữa các em có  
và không có tập luyện cũng rỏ rệt nhất. Nếu ở lứa tuổi 9 – 12 không phát triển tốc  
độ thì ở những năm sau hiệu quả tập luyện phát triển tốc độ sẽ rất hạn chế.  
Tốc độ của động tác đơn lẻ cũng biến đổi rõ rệt trong quá trình phát triển, đến  
13 – 14 tuổi nó xấp xỉ mức độ của người lớn, tuy nhiên ở lứa tuổi 16 – 17 lại hơi  
giảm xuống và ở tuổi 20 – 30 lại tăng lên. Nếu được tập luyện, tốc độ của động tác  
đơn lẻ sẽ phát triển tốt hơn. Ở tuổi 13 – 14 các em được tập luyện đã khác hẳn các  
em không được tập luyện và sự khác biệt này duy trì lâu dài. Phát triển tốc độ động  
tác đơn lẻ hiệu quả nhất là vào 9 – 10 tuổi.  
Tần số động tác (trong 10 giây) ở khớp khủy từ 4 tuổi đến 17 tuổi tăng lên  
gấp 3 – 4 lần.  
- Sự phát triển tố chất nhanh sớm hơn sự phát triển tố chất mạnh, khi đánh  
giá tố chất nhanh, người ta thường xác định tốc độ chạy ở các cự ly ngắn. Những số  
liệu thu được từ các công trình nghiên cứu cho thấy tốc độ chạy của học sinh phổ  
thông hiện nay được tăng dần. Nam học sinh ở tuổi 15 – 16 tốc độ phát triển gần  
đạt đỉnh cao. Thời kỳ phát triển tố chất nhanh quan trọng nhất ở học sinh tiểu học  
và trung học cơ sở (6 – 12 tuổi) ở thời gian đó, các thành phần của sức nhanh được  
phát triển không phụ thuộc vào sức mạnh mà cũng không phụ thuộc vào trình độ kỹ  
thuật của con người; do đó trong giảng dạy và huấn luyện cần tiến hành các bài tập  
phát triển tố chất nhanh trong giai đoạn này là chính.  
- Sức nhanh nói chung và sức nhanh khi di chuyển nói riêng đều rất cần thiết  
trong các hoạt động đời sống. Chính vì vậy cần phát triển tố chất nhanh, với những  
hình thức đa dạng, phong phú, đúng lúc phù hợp với đặc điểm sinh lý lứa tuổi.  
* Tố chất bền:  
Là năng lực thực hiện một hoạt động với cường độ cho trước, hay là năng  
lực duy trì khả năng vận động trong thời gian dài nhất mà cơ thể có thể chịu đựng  
được. Nói một cách khác tố chất bền là năng lực của cơ thể chống lại mệt mỏi trong  
một hoạt động nào đó. Sức bền của con người do nhiều nguyên nhân quyết định,  
đặc biệt là do các tố chất và hoạt động của hệ thần kinh trung ương. Sức bền biến  
đổi rất rõ dưới tác động của tập luyện, đối với học sinh phổ thông sức bền rất cần  
thiết để hoàn thành nhiệm vụ học tập; lao động trí óc và hoạt động thể lực, sức bền  
đó mang tính chất sức bền chung. Để có sức bền trên, các em phải rèn luyện không  
chỉ với cơ quan vận động, các cơ quan hô hấp, tuần hoàn mà cả ý chí và nghị lực.  
Sự phát triển tố chất bền muộn hơn sự phát triển tố chất nhanh, bởi vì tố chất  
bền có liên quan mật thiết đối với sự phát dục của hệ tuần hoàn, hệ hô hấp và khả năng  
ổn định của cơ thể. Do vậy, ở tuổi thanh thiếu niên khi sự phát dục của hệ tuần hoàn  
và hô hấp chưa hoàn thiện thì sự chịu dựng lượng vận động sức bền có hạn chế. Trong  
quá trình trưởng thành của cơ thể, tố chất sức bền cũng biến đổi đáng kể trong cả các  
hoạt động tĩnh lực cũng như động lực.  
- 6 -  
Sức bền tĩnh lực được đánh giá bằng thời gian duy trì một gắng sức tĩnh lực nào  
đó. Chỉ số này nói chung tăng dần theo lứa tuổi, mặc dù khác nhau đối với các nhóm  
cơ. Từ 8 – 11 tuổi các cơ duỗi thân mình (cơ lưng) có sức bền lớn nhất. Từ 11 đến 14  
tuổi sức bền của các cơ đùi và cẳng chân lại phát triển nhanh và đạt chỉ số cao hơn. Từ  
13 – 17 tuổi sức bền trong các động tác treo, chống trong thể dục có thể tăng lên từ 4 –  
4,5 lần.  
Sức bền động lực thường được đánh giá thông qua khả năng hoạt động thể lực,  
cụ thể là qua các chỉ số hoạt động trên xe đạp lực kế. Ở 8 – 9 tuổi chỉ số này khoảng  
500 kgm/phút và sẽ tăng đến 2700 kgm/ phút ở tuổi trưởng thành. Sức bền động lực  
cũng phát triển với nhịp điệu không đồng đều. Sức bền ưa khí phát triển mạnh ở các  
lứa tuổi 15 – 16 17 – 18, trong khi sức bền yếm khí phát triển mạnh ngay ở lứa tuổi  
10 – 12 đến 13 – 14.  
Sức bền biến đổi rất rõ rệt dưới tác động của sự tập luyện, vì vậy ở các em có  
tập luyện sức bền phát triển khác hẳn so với các em không tập luyện. Khi 10 tuổi, các  
em được tập luyện có sức bền hơn các bạn cùng lứa khoảng 14%, nhưng ở tuổi 13-14  
sự khác biệt ấy đã đạt tới mức 50%.  
- Việc phát triển sức bền cần nhiều thời gian cho nên không thể chỉ dùng các  
giờ học thể dục nội khoá, mà các em cần phải tự tập, tập kết hợp trong các hoạt động  
thể lực hàng ngày. Tăng cường các bài tập đi, chạy với các cự ly trung bình và dài như  
800m,1500m, 3000m,5000m . . . có tác dụng tốt trong việc rèn luyện sức bền.  
* Tố chất khéo léo:  
Khéo léo cũng là một tố chất thể lực. Khéo léo là tổng hợp các năng lực  
phối hợp vận động hay nói cách khác khéo léo là năng lực tiếp thu nhanh các động  
tác mới.  
Việc xác định tố chất khéo léo, về cơ bản được dựa trên cơ sở lý luận của  
tâm lý học hiện đại về khái niệm năng lực là dựa trên cơ sở học thuyết vận động,  
năng lực phối hợp vận động là một phức hợp các tiền đề để thực hiện thắng lợi một  
hoạt động thể thao nhất định. Năng lực này được xác định trước hết thông qua các  
quá trình điều khiển và được các em hình thành và phát triển trong tập luyện. Năng  
lực phối hợp vận động có quan hệ chặc chẽ với các phẩm chất tâm lý và năng lực  
khác như sức mạnh, sức nhanh và sức bền. Năng lực phối hợp được thể hiện ở mức  
độ tiếp thu nhanh chóng và có chất lượng cũng như việc hoàn thiện củng cố và vận  
dụng các kỹ xảo về kỹ thuật thể thao. Muốn phát triển năng lực phối hợp vận động,  
phải thông qua sự tập luyện một cách tích cực cho các em, cần cho các em thực  
hiện các bài tập được sử dụng làm phương tiện phát triển khả năng phối hợp vận  
động; cần yêu cầu thực hiện chính xác và thường xuyên và trong những điều kiện  
biến đổi.  
Mặt khác khéo léo thể hiện khả năng điều khiển các yếu tố lực, không gian,  
thời gian của động tác.  
Một trong các yếu tố quan trọng của sự khéo léo là khả năng định hướng  
chính xác trong không gian. Khả năng định hướng trong không gian bắt đầu phát  
triển mạnh lúc 5 – 6 tuổi và đạt nhịp điệu phát triển cao nhất từ 7 – 10 tuổi. Từ 10 –  
- 7 -  
12 tuổi khả năng này ổn định dần và ở tuổi 13 – 15 thậm chí còn hơi giảm xuống.  
Đến 16 – 17 tuổi khả năng định hướng trong không gian sẽ đạt mức độ của người  
lớn.  
Khả năng định hướng về thời gian, tức là khả năng phân biệt nhịp điệu động  
tác, phát triển từ 7 – 8 tuổi, đến 13 – 14 tuổi thì đạt mức của người lớn. Chỉ số này  
là một trong các chỉ số ít ổn định và có độ dao động lớn trong cùng một độ tuổi.  
Khả năng cảm giác dùng sức của động tác ở trẻ em phát triển đều và đến  
năm 15 – 17 tuổi đạt mức hoàn chỉnh. Từ đó chúng ta thấy rằng trước tuổi 13 –14  
sử dụng các bài tập phát triển tố chất khéo léo đạt kết quả tốt.  
Ngoài ra cần dạy cho các em có khả năng phối hợp chính xác các bộ phận  
của cơ thể trong các động tác phức tạp, cần thực hiện nhiều động tác trong các điều  
kiện biến đổi. Qua thực tế ta thấy rằng : cần phát triển tố chất khéo léo ngay từ nhỏ,  
các em nhỏ thường có khả năng khéo léo hơn.  
* Toá chaát meàm deûo:  
Độ mềm dẻo là khả năng thực hiện động tác với biên độ lớn. Biên độ tối đa  
của động tác là thước đo độ mềm dẻo.  
Có hai loại mềm dẻo: Đmềm dẻo chủ động và độ mềm dẻo thụ động. Độ  
mềm dẻo chủ động là khả năng đạt biên độ động tác lớn nhất ở một khớp xương  
nào đó nhờ sự chủ động của các nhóm cơ tạo ra thông qua cá khớp xương dây  
chằng. Ở trẻ em độ mềm dẻo lớn hơn người lớn, nhưng không phải bao giờ cũng  
thế, theo số liệu của L Xaario (1961) và B.V Xecmêeva (1964), thì độ mềm dẻo đạt  
tới mức tối đa ở lứa tuổi 15 – 16. Ở những khớp xương cá biệt và trong một số  
động tác có tính linh hoạt tối đa đến muộn hơn (Dojelzvei, 1962). Vì vậy, có thể  
khẳng định phát triển độ mềm dẻo ở lứa tuổi thanh thiếu niên dễ hơn. Không nhất  
thiết phát triển độ mềm dẻo đến mức cao nhất. Chỉ nên phát triển nó đến mức độ  
đảm bảo tính linh hoạt của cột sống, đặc biệt là các đốt sống ngực, ở các khớp  
xương hông và vai trò có ý nghĩa quan trọng.  
Tóm lại: Phát triển tố chất thể lực nhằm mục đích nâng cao năng lực điều  
khiển của hệ thống thần kinh trung ương cùng với các trung khu của nó, của các cơ  
quan nội tạng để cơ thể chịu được lượng vận động lớn, ổn định trạng thái sung sức  
thể thao, phòng chống chấn thương, giúp cho các em nắm kỹ chiến thuật nhanh,  
hiệu suất cao hơn, từ đó nâng cao không ngừng thành tích thể thao.  
4. Đặc điểm sinh lý lứa tuổi 13-14:  
* Hệ thần kinh:  
Hệ thần kinh là cơ quan phát dục sớm nhất. Trẻ em mới sinh ra trọng lượng  
não đạt khoảng 350 –380g. Sau đó tăng trưởng nhanh, đến 7 – 8 tuổi đạt bằng  
người lớn. Trọng lượng tăng lên, số lượng tế bào não cũng tăng nhiều lên. Số lượng  
tế bào não tăng theo lứa tuổi, thể tích não cũng tăng theo, các đuôi gai thần kinh dài  
ra và đi sâu vào vỏ não, trọng lượng thần kinh dưới vỏ não ở tuổi nhi đồng chiếm  
94 – 98 % của người trưởng thành. Các hạch thần kinh vận động ở trung tâm điều  
khiển vận động vỏ não chiếm 75 – 85% trọng lượng người trưởng thành. Khi đến 7  
- 8 -  
– 8 tuổi, sự phân hoá tế bào thần kinh trên cơ bản đã hoàn thành. Các thùy vỏ não  
sinh trưởng nhanh, làm cho khả năng phối hợp vận động, tính nhịp điệu, tính chính  
xác động tác bắt đầu phát triển. Sau đó, các đuôi gai của các tế bào thần kinh phát  
triển nhiều hơn, các sợi thần kinh liên lạc tăng nhiều hơn, hình thành các đường  
liên lạc mới nhiều hơn ở não, chức năng não hoàn thiện liên tục, có xu thế phức tạp  
hoá. Ở tuổi 13 – 14, chức năng quá trình ức chế vỏ não đạt trình độ nhất định, năng  
lực phân tích tổng hợp nâng cao và đã hình thành được nhiều loại phản xạ có điều  
kiện, nhưng do năng lực phân hoá vẫn chưa hoàn thiện và do ảnh hưởng sự hoạt  
động phát dục các nhóm cơ nhỏ còn chậm, nên có khó khăn khi tập những động tác  
phức tạp và tinh tế.  
* Hệ tuần hoàn:  
Sự phát dục tim của nhi đồng chưa hoàn thiện và sự điều tiết thần kinh cũng  
chưa hoàn thiện, nhưng quá trình trao đổi chất cơ thể lại ở thời kỳ hưng thịnh. Do  
vậy, mạch đập tương đối nhanh, nhịp đập tim sẽ giảm theo lứa tuổi và ổn định đến  
tuổi 20. Có thể nhận thấy, tim phát dục sớm hơn nhịp tim, thành động mạch có tính  
đàn hồi tốt, đường kính huyết quản tương đối lớn hơn người trưởng thành, lực cản  
ngoài động mạch nhỏ, cho nên huyết áp trẻ em thấp hơn người lớn và tăng theo bậc  
ở các lứa tuổi. Nói chung, người ta thấy ở những em có cơ thể phát dục trưởng thành  
tốt, đó là thanh thiếu niên có sự tăng trưởng chiều cao nhanh, đặc điểm của hiện  
tượng này là huyết áp tối đa cao, nhưng không quá 150mmHg, có hiện tượng đột  
xuất huyết áp tối thiểu bình thường. Hiện tượng huyết áp cao thanh thiếu niên bắt  
đầu từ 11 – 12 tuổi và tăng theo lứa tuổi trưởng thành cao nhất ở lứa tuổi 15 – 16,  
sau đó giảm dần. Phản ứng của chức năng hệ tim mạch khi tập luyện ở lứa tuổi khác  
nhau thì có khác nhau, do vậy phản ứng đối với tập luyện cũng có khác nhau. Tập  
luyện làm tăng nhịp tim để tăng nhu cầu thích ứng lượng tâm thu/phút. Cho nên khi  
tập luyện nhịp tim tăng nhanh nhưng sự biến đổi huyết áp không rõ ràng lắm. Ví dụ,  
cùng chạy tốc độ như nhau 5 – 6km (100m/phút) nhịp tim 10 tuổi đạt 164 lần/phút,  
18 tuổi đạt 150 lần/phút, người trưởng thành đạt 134 – 146 lần/phút. Từ đó, ta thấy  
rằng : sự phản ứng của chức năng tim mạch tăng theo tuổi, mạch ngày càng nhỏ còn  
huyết áp thay đổi không rõ lắm, sau 16 tuổi thì giống người lớn. Cho nên đối với học  
sinh phổ thông các bài tập sức bền với thời gian hoạt động vừa phải và cường độ  
trung bình có tác dụng tích cực đến sự phát triển của hệ tim mạch. Căn cứ vào đặc  
điểm chức năng của hệ tuần hoàn thanh thiếu niên, khi tập luyện cần chú ý cơ thể các  
em chịu đựng lượng vận động, nhưng lượng vận động không nên quá lớn, chỉ cần  
sắp xếp hợp lý, tức là không nên để cho tim mạch chịu đựng trạng thái nín thở.  
* Hệ hô hấp:  
Lồng ngực của học sinh phổ thông còn hẹp, lực cơ hô hấp tương đối yếu, hô  
hấp còn nông, dung tích sống nhỏ, song sự trao đổi chất lại mãnh liệt, nhu cầu oxy  
tương đối nhiều. Do vậy tần số hô hấp nhanh, khả năng thở sâu của các em tăng  
theo lứa tuổi, nhịp thở giảm theo lứa tuổi và dung tích sống lại tăng theo lứa tuổi.  
Nhu cầu oxy ở tuổi 13 – 14 tăng rõ rệt vì vậy nhu cầu tiêu thụ oxy tối đa và  
khả năng nợ oxy đều thấp, cho nên năng lực yếm khí và hiếu khí thấp hơn người  
- 9 -  
trưởng thành. Khi luyện tập; các bài tập phát triển khả năng hiếu khí được sử dụng  
nhiều, không nên dùng các bài tập kéo dài, cường độ lớn, tăng cường hướng dẫn sự  
phối hợp thở cho thanh thiếu niên, khi thực hiện động tác gập thân thì thở ra, khi  
ưởn ngực thì hít vào, phải có ý thức thở sâu có ý nghĩa rất quan trọng phát triển tính  
nhịp điệu chức năng cơ quan hô hấp.  
* Hệ vận động:  
Xương: Bắt đầu giảm tốc độ phát triển, các xương nhỏ như xương cổ tay,  
bàn tay đã phát triển hoàn thiện. Cột sống đã ổn định hình dáng, tuy nhiên vẫn phải  
tiếp tục chú ý các bài tập rèn luyện tư thế, xương chậu của nữ to hơn nam.  
Cơ: Ở lứa tuổi này cơ vẫn còn tương đối yếu, các bắp cơ lớn phát triển tương đối  
nhanh (như cơ đùi, cơ cánh tay) còn các cơ nhỏ như các cơ bàn tay, ngón tay, các  
cơ xoay ngoài, xoay trong phát triển chậm hơn. Các cơ co phát triển hơn các cơ  
duỗi do đó phần nào ảnh hưởng đến sức mạnh cơ thể.  
Giáo viên cần phi lựa chọn các bài tập phù hợp đặc điểm phát triển tố chất  
thể lực, tâm sinh lí lứa tuổi để nâng cao thành tích và áp dụng các bài tập bổ trợ vào  
thực tế giảng dạy môn Điền kinh và nội dung nhảy cao là hết sức quan trọng, rất có  
giá trị và cần thiết trong giai đoạn hiện nay đó là một công việc hết sức khó khăn vì  
theo thực tế thành tích nội dung này của học sinh nam khối 8 trường THCS Trần  
Quang Khải - Ninh Hòa – Khánh Hòa chưa cao.  
Tố chất thể lực tăng trưởng đều đặn cùng với sự tăng của lứa tuổi. Sự tăng  
trưởng này gọi là tăng trưởng tự nhiên, khuynh hướng của sự tăng trưởng này có tốc  
độ nhanh, biên độ lớn trong thời kỳ dậy thì: Nam vào khoảng 14 tuổi, nữ vào khoảng  
12 tuổi. Giữa nam và nữ trước 12 tuổi, sự khác biệt các tố chất thể lực không lớn  
lắm, nhưng từ 13 -14 tuổi sự khác biệt này tăng lên, sau 18 tuổi thì có xu hướng ổn  
định. Giai đoạn lứa tuổi khác nhau, tốc độ phát triển tố chất thể lực khác nhau, tức là  
trong cùng một lứa tuổi tố chất thể lực khác nhau phát triển thay đổi cũng không  
giống nhau. Sự phát triển tố chất thể lực tự nhiên bao gồm 2 giai đoạn:  
Giai đoạn tăng trưởng là giai đoạn tố chất thể lực tăng liên tục, trong đó có  
giai đoạn tăng nhanh và tăng chậm.  
Giai đoạn ổn định là giai đoạn tố chất thể lực tăng chậm rõ ràng hoặc dừng lại  
hoặc giảm xuống.  
Qua các khái niệm ở các phần trên cho ta biết tố chất thể lực bao gồm :  
(nhanh, mạnh, bền, mềm dẻo và khéo léo), như ta biết trong quá trình phát triển tự  
nhiên các tố chất thể lực tăng theo lứa tuổi. Ở lứa tuổi 13 -14 tuổi quá trình phát triển  
theo 3 giai đoạn : giai đoạn tăng nhanh, giai đoạn tăng chậm và giai đoạn ổn định. Tố  
chất thể lực từ giai đoạn tăng trưởng chuyển sang giai đoạn ổn định theo thứ tự phát  
triển như sau : Tố chất nhanh phát triển đầu tiên, sau đó là tố chất bền và tố chất  
mạnh. Quy luật này ở nam và nữ đều giống nhau. Ở lứa tuổi này cơ thể học sinh  
nam đang phát triển tương đối cao vì đây là lứa tuổi dậy thì các bộ phận lớn nhanh  
dần, chức năng sinh lý chưa ổn định. Khả năng hoạt động của các bộ phận cơ thể  
- 10 -  
được nâng cao hơn. Giai đoạn này các em phát triển theo chiều cao nhiều hơn so  
với chiều ngang. Hệ thần kinh trung ương đã hoàn thiện, hoạt động phân tích trên  
võ não về tri giác có định hướng sâu sắc hơn, khả năng nhận hiểu cấu trúc động tác  
và tái hiện chính xác hoạt động vận động được nâng cao, đặc biệt các cảm giác  
trong điều khiển động tác, khả năng phân biệt chính xác về không gian của nam đạt  
ở mức cao. Nam – nữ phát triển theo hai hướng hoạt động sinh lý khác nhau rõ rệt  
về tầm vóc, sức chịu đựng và tâm lý. Vì vậy giáo dục thể chất cần phân biệt tính  
chất, cường độ, khối lượng tập luyện sao cho hợp lý giữa nam và nữ học sinh.  
Đồng thời cũng chưa nắm được hết các hiểu biết cần thiết, một số nguyên tắc và  
phương pháp tập luyện đơn giản có hiệu quả cao giúp các em tập luyện phát triển,  
nâng cao thành tích nhảy cao bước qua của học sinh nam khối 8. Đa số học sinh chỉ  
thực hiện theo các bài tập của giáo viên một cách máy móc mà chưa thực sự hứng  
thú trong giờ học nhảy cao.  
Điền kinh là một môn có lịch sử phát triển lâu đời so với nhiều môn thể thao  
khác. Đi bộ, chạy, nhảy và ném đẩy là những hoạt động tự nhiên của con người. Từ  
những hoạt động di chuyển với mục đích tìm kiếm thức ăn, tự vệ và phòng chống  
thiên tai, vượt chướng ngại vật, hoạt động này ngày càng được hoàn thiện cùng với  
sự phát triển của xã hội loài người dần dần trở thành một phương tiện giáo dục thể  
chất, một môn thể thao có vị trí xứng đáng thu hút nhiều người tham gia tập luyện.  
Các bài tập điền kinh đã được loài người sử dụng từ thời cổ Hy Lạp. Song  
lịch sử phát triển của nó được ghi nhận trong cuộc thi đấu chính thức vào năm 776  
trước công nguyên.  
Năm 1837 tại thành phố Legbi ( Anh) cuộc thi đấu 2km lần đầu tiên được tổ  
chức. Từ năm 1851 các môn chạy tốc độ, chạy vượt chướng ngại vật, nhảy xa, nhảy  
cao, ném vật nặng bắt đầu được đưa vào thi đấu tại các trường đại học nước Anh.  
Năm 1880, liên đoàn điền kinh nghiệp dư nước Anh ra đời. Đây là liên đoàn  
điền kinh nghiệp dư đầu tiên trên thế giới. Từ năm 1880 đến năm 1990, môn điền  
kinh phát triển ở nhiều nước như Phát, Mỹ, Đức, Na Uy, Thuỵ Điển . . . và các liên  
đoàn điền kinh quốc gia được thành lập ở hầu hết các châu lục.  
Đặc biệt từ năm 1986, việc khôi phục các cuộc thi đấu truyền thống của Đại  
hội thể thao Olympic đã đánh dấu bước ngoặc quan trọng trong việc phát triển môn  
điền kinh. Từ Đại hội Olympic Aten ( Hy Lạp 1896), Điền kinh trở thành nội dung  
chủ yếu trong chương trình thi đấu của các đại hội Olympic ( 4 năm được tổ chức  
một lần).  
Năm 1912, liên đoàn điền kinh nghiệp dư thế giới ra đời, với tên gọi tắt là  
IAAF ( International Amateur Athletic Federation). Đây là tổ chức cao nhất lãnh  
đạo phong trào điền kinh thế giới. IAAF hiện có 170 thành viên là các liên đoàn  
điền kinh quốc gia và các vùng lãnh thổ ở các châu lục, trong đó có liên đoàn điền  
kinh Việt Nam, trụ sở hiện nay của IAAF đặt tại Monaco.  
Trong Điền kinh, nhảy cao là một môn có lịch sử phát triển lâu đời. Từ cách  
thức vượt qua các chướng ngại vật thẳng đứng của người xưa, nhảy cao dần trở  
thành một phương tiện giáo dục thể chất. Cách đây 2 thế kỷ, Ph. Gutxmut và F.L.  
- 11 -  

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 31 trang minhvan 27/10/2024 360
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số bài tập bổ trợ nhằm nâng cao thành tích nhảy cao kiểu bước qua cho học sinh nam khối 8 Trường THCS Trần Quang Khải – Ninh Hòa – Khánh Hòa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfskkn_mot_so_bai_tap_bo_tro_nham_nang_cao_thanh_tich_nhay_cao.pdf