SKKN Kinh nghiệm dạy học ngữ văn THCS theo phương pháp đổi mới
Ngữ văn là môn học nghệ thuật, đặc biệt là văn học .Văn học dùng chất liệu hiện thực kết hợp nghệ thuật ngôn từ để phản ánh hiện thực, thể hiện tư tưởng tình cảm của tác giả .Vì vậy dạy văn học là khai thác nghệ thuật ngôn từ để làm rõ nội dung hiện thực và tư tưởng tình cảm của tác giả .
KINH NGHIỆM DẠY HỌC NGỮ VĂN THCS
THEO PHƯƠNG PHÁP ĐỔI MỚI
I. Lý do chọn đề tài.:
1. Cơ sở lí luận:
Ngữ văn là môn học nghệ thuật, đặc biệt là văn học .Văn học dùng chất liệu
hiện thực kết hợp nghệ thuật ngôn từ để phản ánh hiện thực, thể hiện tư tưởng
tình cảm của tác giả .Vì vậy dạy văn học là khai thác nghệ thuật ngôn từ để làm
rõ nội dung hiện thực và tư tưởng tình cảm của tác giả .
Từ đó, dạy văn học người giáo viên phải đảm bảo được đặc điểm trên của
môn học: phải giúp học sinh thấy được cái hay, cái đẹp về nội dung và nghệ thuật
của tác phẩm qua đó cảm nhận được điều nhà văn muốn gửi đến người đọc .Mặc
khác thông qua việc học những tiết văn học, giáo viên cần rèn luyện cho học
sinh kĩ năng tự khám phá, cảm thụ một tác phẩm văn học, giúp các em có khả
năng giao tiếp đạt hiệu quả.
Một tiết dạy văn học thành công hay không có thể được đánh giá ở nhiều cấp
độ. Cụ thể là :
- Không đạt yêu cầu: Khai thác nội dung, nghệ thuật thiếu chính xác, sử dụng
phương pháp chưa phù hợp
- Đạt yêu cầu: Khai thác đầy đủ nội dung, nghệ thuật , sử dụng phương pháp
phù hợp với môn học ,thực hiện linh hoạt các khâu lên lớp , phân phối thời gian
cho các khâu hợp lí. Tổ chức cho học sinh học tập tích cực .có chú ý giáo dục
cho HS
- Khá: Tiêu chuẩn như đạt yêu cầu , nhưng bài dạy phải có cảm xúc , học sinh
bước đầu cảm nhận , học tập được cái hay cái đẹp của tác phẩm .
- Giỏi: Như tiêu chuẩn khá , HS xúc động và cảm nhận được cái hay cái đẹp
của tác phẩm , đồng cảm với tác giả (cảm nhận được những điều mà nhà văn gữi
vào tác phẩm), học tập được những đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm.
2. Cơ sở thực tiễn
Trong nhà trường hiện nay, giáo viên dạy văn học còn chưa thật sự chú ý đến
đặc trưng của bộ môn, chỉ chú ý cung cấp đủ nội dung bài học theo một trình tự
cứng nhắc khô khan, máy móc, thiếu cảm hứng , thiếu sự đồng cảm với nhà văn.
Từ đó học sinh chán học môn văn. Có thể nói tác phẩm văn học là một món ăn
tinh thần. Giáo viên là chế biến, phục vụ. Học sinh là thực khách .Khách có ăn
ngon hay không - tâm hồn người thưởng thức có lân lân, rung động, say sưa,
ngây ngất hay không - là do ở người chế biến phục vụ .Cùng là một tác phẩm
văn học nếu GV biết cách khai thác ,hướng dẫn ,diễn giảng đúng chỗ, đúng lúc
thì HS sẽ rung động, khắc sâu ,yêu thích và nhớ mãi . Vậy GV phải làm gì để dạy
một tiết văn học đạt hiệu quả và có thể xem là khá ?
Sáng kiến kinh nghiệm
1
Giáo viên: Trần Văn Quang
II. THỰC TRẠNG:
1. Thực trạng của việc học văn hiên nay:
Nhà văn hoá lớn của nhân loại Lê-nin từng nói:"Văn học là nhân học" vậy mà
một thực trạng đáng lo ngại là học sinh bây giờ không còn thích học văn. Thực
trạng này lâu nay đã được báo động. Ban đầu chỉ đơn thuần là những lời than thở
với nhau của những người trực tiếp giảng dạy môn văn và nay đã trở thành vấn
đề của báo chí và dư luận. Ai đã trực tiếp dạy và chấm bài làm văn của học sinh
trong những năm gần đây mới thấy cần thiết phải có những thay đổi về phương
pháp dạy văn và học văn hiện nay. Qua công tác giảng dạy cũng như chấm trả
các bài kiểm tra Ngữ văn, tôi nhận thấy có rất nhiều những biểu hiện thể hiện
tâm lý chán học văn của học sinh , cụ thể là:
- Học sinh thờ ơ với Văn: Những năm gần đây, nhiều người quan tâm đến
công tác giáo dục không khỏi lo ngại trước một thực trạng, đó là tâm lý thờ ơ với
việc học văn ở các trường phổ thông. Điều đáng buồn nhất cho các giáo viên dạy
văn là nhiều học sinh có năng khiếu văn cũng không muốn tham gia đội tuyển
văn. Các em còn phải dành thời gian học các môn khác. Phần lớn phụ huynh khi
đã định hướng cho con mình sẽ thi khối A thì chỉ chủ yếu chú trọng ba môn:
Toán, Lý, Hóa. Điều đáng lo ngại hơn nữa, là có không ít phụ huynh đã chọn
hướng cho con thi khối A từ khi học tiểu học. Một bậc học mà học sinh còn đang
được rèn nói, viết, mới bắt đầu làm quen với những khái niệm về từ ngữ mà đã
định hướng khối A thì thật là nguy hại.
- Khả năng trình bày: Khi HS tạo lập một văn bản giáo viên có thể dễ dàng
nhận ra những lỗi sai cơ bản của học sinh như: dùng từ sai, viết câu sai, viết
chính tả sai, bố cục và lời văn hết sức lủng củng, thiếu logic. Đặc biệt có những
bài văn diễn đạt ngô nghê, tối nghĩa, lủng củng ...Đây là một tình trạng đã trở
nên phổ biến và thậm chí là đáng báo động trong xã hội ta.
Mục tiêu của bậc học phổ thông là đào tạo con người toàn diện, nhưng thực tế
hiện nay cho thấy, các bộ môn khoa học xã hội thường bị học sinh xem nhẹ, mặc
dù kiến thức của các bộ môn này vô cùng quan trọng cho tất cả mọi người.
Muốn khôi phục sự quan tâm của xã hội đối với các bộ môn khoa học xã hội,
không thể chỉ bằng biện pháp kêu gọi mà chúng ta phải tích cực đổi mới phương
pháp dạy học văn, khơi gợi lại hứng thú học văn của học sinh, hình thành cho
các em phương pháp học văn hiệu quả nhất.
2. Nguyên nhân:
2
a. Đối với người dạy: Đa số giáo viên đều có tình yêu nghề, mến trẻ, tận tụy với
công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh. Tuy nhiên, vẫn còn những
mặt hạn chế sau :
- Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ học
sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao .
- Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp trực
quan vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của học sinh .
- Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được mạch
nguồn cảm xúc ẩn sau mỗi trái tim người học.
b. Đối với học sinh:
- Một số học sinh vì lười học, chán học mải chơi, hổng kiến thức nên không
chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học Ngữ văn
- Địa phương xã Thọ Nghiệp thuộc vùng kinh tế còn khó khăn, hầu hết phụ
huynh đều đi làm ăn xa, ít có thời gian quan tâm kèm cặp con em mình. Bản
thân các em còn phải phụ giúp gia đình ngoài giờ lên lớp, không có thời gian
học.
- Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí như xem
ti vi, chơi game . . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức học bị
lôi cuốn, sao nhãng việc học tập.
III. CÁC GIẢI PHÁP
Để có được một tiết giảng văn hay, hấp dẫn được học sinh, trong quá trình
soạn giảng, giáo viên cần lên kế hoạch soạn giảng cụ thể cho từng phần, từng
mục. Cần có các dự thảo về phương pháp, biện pháp dạy học. Vận dụng linh hoạt
các phương pháp dạy học, xác định và phân loại đối tượng học sinh phù hợp với
từng hoạt động học tập. Luôn có ý thức khơi gợi hứng thú học tập ở học sinh.
Phải nắm rõ quan điểm dạy học tích hợp, xác định rõ vai trò của giáo viên và học
sinh trong giờ học. Giáo viên đóng vài trò chủ đạo tổ chức hướng dẫn học sinh
tiếp thu kiến thức bằng các phương pháp dạy học cụ thể. Học sinh đóng vai trò
tích cực, chủ động lĩnh hội tri thức trên cơ sở hướng dẫn của giáo viên. Muốn
giải quyết tốt các vấn đề này, theo tôi trong quá trình soạn giảng một tiết Ngữ
văn cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:
1. CHUẨN BỊ :
3
1.1. Chuẩn bị chung :
- Đọc kĩ mục tiêu cần đạt của tiết dạy, bán sát định hướng của chuẩn kiến thức kỹ
năng.
- Chuẩn bị phương pháp, phương tiện dạy học phù hợp.
- Chuẩn bị của thầy và trò .
a/ Về văn bản :
Chú ý hoàn cảnh ra đời, thể loại, nội dung, nghệ thuật của một tác phẩm văn
học: ( Tác phẩm phản ánh hiện thực gì ? Tư tưởng tình cảm gì của nhà văn ?
Điều nhà văn muốn gởi đến bạn đọc là gì ? Cái hay ,cái làm nên sự rung động
của tác phẩm là ở chổ nào ? Để truyền đạt những thông tin của tác phẩm, cần
chú ý tổ chức học sinh hoạt động như thế nào ?. . .
b/ Về tác giả :
+ Chú ý cuộc đời , tư tưởng , tình cảm , quan điểm sống của tác giả .
+ Ví dụ : Hiểu rõ những điều ấy về tác giả Nguyễn Khuyến giáo viên mới có
thể rung động và cảm nhận được cái hay cái đẹp của nội dung và nghệ thuật của
bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của ông .
- Về hoàn cảnh lịch sử : Chú ý lịch sử giai đoạn nào ? Tình hình xã hội lúc đó ra
sao ?. Hoàn cảnh lịch sử lúc đó có ảnh hưởng gì đến việc ra đời và nội dung được
phản ánh trong tác phẩm ?
2.2. Chuẩn bị cụ thể :
Soạn giáo án cần chú ý :
* Mục tiêu bài học : Đọc kĩ mục tiêu bài học, xác định lượng kiến thức cần thiết
cung cấp cho học sinh trong một tiết học. Xác định đâu là nội dung trọng tâm
cần phải khắc sâu cho học sinh.
* Chuẩn bị phương pháp phương tiện dạy phù hợp :
Thông thường trong một tiết học văn giáo viên sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp như : Đọc diễn cảm, đàm thoại vấn đáp, dụng cụ trực quan, nêu và
giải quyết vấn đề, diễn giảng, thuyết trình dưới các hình thức hoạt động cá thể,
hoạt động nhóm, vừa hoạt động cá thể vừa hoạt động nhóm …tuy nhiên dù giáo
viên sử dụng phương pháp ,phương tiện , hình thức dạy học nào thì vấn đề học
sinh hoạt động để tự phát hiện tìm ra tri thức cũng là vấn đề được đặt lên hàng
đầu quyết định kết quả tiết dạy .
* Chuẩn bị của thầy và trò: Thầy : Đọc kĩ tác phẩm : Tác phẩm tự sự hay trữ
tình .
a. Tác phẩm tự sự cần chú ý :
+ Cốt truyện: Kể chuyện gì ? Thông qua cốt truyện tác giả muốn phản ánh hiện
thực gì ? Muốn nói lên tư tưởng tình cảm gì của mình?
+ Nhân vật : Hệ thống nhân vật của tác phẩm. Nhân vật chính là ai ? Nhân vật
chính diện . Nhân vật phản diện . Nhân vật có ngoại hình, cử chỉ, hành động, lời
nói , nội tâm như thế nào ? Thông qua ngoại hình, hành động, nội tâm … của
4
nhân vật => nhân vật có tính cách gì ? Qua nhân vật tác giả muốn gởi đến chúng
ta thông điệp gì ? Nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả có gì độc đáo ? Điều
gì ở sự việc ,nhân vật làm ta rung động ?
+ Tình huống : Tình huống cơ bản của truyện là tình huống nào ? Qua tình
huống ấy nhân vật bộc lộ tính cách gì ? Từ đó tác giả muốn gửi gắm điều gì ?
Nghệ thuật tạo tình huống của nhà văn có gì đặc sắc, độc đáo trong việc góp
phần xây dựng tính cách nhân vật , thể hiện ý nghĩa của truyện? . ..
* Lưu ý: Một nhân vật văn học thành công bao giờ cũng mang một tính cách,
số phân riêng. Muốn phân tích nhân vật tức là phân tích đặc điểm tính cách và
nội tâm của nhân vật chúng ta cần căn cứ vào những chi tiết có liên quan đến
nhân vật trong tác phẩm để tìm hiểu suy luận rồi khái quát nên các đặc điểm của
nhân vật. Trong các tác phẩm tự sự, những chi tiết có giá trị góp phần thể hiện
đặc điểm nhân vật gồm: lai lịch, ngoại hình, ngôn ngữ, hành vi (cử chỉ, hành
động) của nhân vật. Cụ thể là:
- Lai lịch của nhân vật: Đây là phương tiện đầu tiên góp phần chi phối đặc điểm
tính cách và cuộc đời nhân vật. Lai lịch có quan hệ khá trực tiếp và quan trong
với đường đờì của một người cũng như mục đầu tiên trong bản “ sơ yếu li lịch”
ta thường khai là thành phần xuất thân và hoàn cảnh gia đình.
Ví dụ: Lai lịch của Mã Giám Sinh được Nguyễn Du giới thiệu ngắn gọn qua
hai câu thơ:
Hỏi tên rằng: Mã Giám Sinh.
Hỏi quê rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần.
- Ngoại hình của nhân vật. Tục ngữ Việt nam có câu: “ Xem mặt mà bắt hình
rong” trong văn học, miêu tả ngoại hình chính là một biện pháp để nhà văn hé
mở tính cách nhân vật. Một nhà văn có tài thường chỉ qua một số nét phác hoạ
chấm phá có thể giúp người đọc hình dung ra diện mạo, tư thế cùng bản chất của
nhân vật nào đó.
Ví dụ: Trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố, chị Dậu được miêu tả có
khuôn mặt trái xoan với cái nhanh nhẩu của đôi mắt sắc ngọt, cái xinh xắn của
cặp môi đỏ tươi, cái min màng của nước da đen giòn. Khuôn mặt ấy khiến người
đọc hình dung về chị Dậu - một người khoẻ khoắn thông minh đảm đang tháo
vát. Với nhà thơ Nguyễn Du để làm nổi bật vẻ đẹp của Thuý Kiều, ông tập trung
đặc tả qua hai câu thơ: Làn thu thuỷ, nét xuân sơn- Hoa ghen thua thắm liễu hờn
kém xanh. Bút pháp ước lệ đã gúp người đọc hình dung ra vẻ đẹp tuyệt sắc giai
nhân của nàng Kiều. Vẻ đẹp của nàng làm hoa phải ghen, liễu phải hờn. Thông
qua cách miêu tả đó Nguyễn Du như muốn dự cảm về cuộc đời long đong lận
đận của Kiều.
5
- Ngôn ngữ của nhân vật: Ngôn ngữ của nhân vật trong tác phẩm văn học được
cá thể hoá cao độ, nghĩa là mang đậm dấu ấn của một cá nhân. Thông thường,
mỗi con người thường theo tính khí mà có khẩu khí. Con người làm sao thì lời ăn
tiếng nói làm vậy. Vì thế khi phân tích nhân vật ta cần đặc biệt chú ý phân tích
ngôn ngữ của nhân vật.
Ví dụ: Trong văn bản Làng, nhà văn Kim Lân đã để nhân vật ông Hai bộc lộ
bản chất, tính cách của mình qua ngôn ngữ đối thoại, độc thoại và độc thoại nội
tâm: Ông hay khoe làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về làng quê. Cái làng đó với
người nông dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong đời sống vật chất và tinh
thần. Ông căm thù lũ việt gian bán nước mà rít lên: Không biết chúng bay ăn
miếng cơm hay ăn miếng gì vào mồm mà lại làm cái giống việt gian bán nước để
nhục nhã thế này! Rồi ông vui mừng khi tin về làng Dầu được cải chính.
- Nội tâm của nhân vật: Nội tâm là thế giới bên trong của nhân vật gồm cảm
giác, cảm xúc tình cảm, tâm lí, suy nghĩ… của con người. Thế giới nội tâm của
con người rất sâu kín, phong phú, phức tạp. Ngòi bút của nhà văn có khả năng
miêu tả được những ngõ ngách xâu kín của nội tâm con người từ những điều
thuộc phạm vi ý thức đến những điều trong cõi tiềm thức, vô thức. Qua đó ta có
thể xét đoán được tính cách nhân vật.
Ví dụ: Miêu tả nỗi nhớ gia đình, người thân của Kiều khi nàng bị giam lỏng ở
lầu Ngưng Bích, Nguyễn Du đã viết: Xót người tựa cửa hôm mai - Quạt nồng ấp
lạnh những ai đó giờ. Người đọc có thể nhận ra được nỗi đau đớn xót xa của
Kiều khi nghĩ về cha mẹ. Kiều thương cho cha mẹ đã già yếu mà vẫn ngày đêm
tựa cửa ngóng trông tin nàng, thương cha mẹ già yếu mà không người chăm sóc
đỡ đần. Để làm nổi bật tâm trạng đau đớn, thất vọng của anh Sáu khi bé Thu
không nhận anh là cha, nhà văn Nguyễn Quang Sáng miêu tả qua các biểu hiện
như: Còn anh, anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh
sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy... rồi chi tiết:
Có lẽ vì khổ tâm vì khổ tâm đến nỗi anh không khóc được, nên anh phải cười vậy
thôi...
- Cử chỉ hành động của nhân vật: Đây là chi tiết quan trong nhất trong việc tìm
hiểu phân tích tính cách nhân vật. Con người trong cuộc đời cũng như nhân vật
trong tác phẩm, trước hết là con người hoạt động, hành động. Trong môi trường
tự nhiên và xã hội, trong quan hệ với người khác, với công việc, con người phải
hành động. Hành động của con người được thể hiện qua việc làm, hành vi. Nhân
vật trong tác phẩm cũng vây, con người thế nào sẽ có hành vi thế ấy.
6
Ví dụ: Chỉ cần qua cách “ ghế trên ngồi tót sỗ sàng” nhân vật Mã Giám Sinh
đã để lại chân tướng của một con người thiếu văn hoá, mất lịch sự và bộ dạng lưu
manh giả danh trí thức của y.
b. Tác phẩm trữ tình ( thơ ca ) : Chú ý tình cảm , tâm trạng gì ? Của ai ? Tình
cảm tâm trạng ấy được bộc lộ như thế nào trực tiếp hay gián tiếp ?
+ Bộc lộ trực tiếp : Là dùng từ ngữ diễn tả những ý nghĩ tình cảm
cảm xúc của mình .Khi dạy GVcần chú ý đó là tình cảm gì ? Của ai ? Tình cảm
ấy được tập trung biểu hiện qua những từ ngữ nào ? Hoàn cảnh , điều kiện để
phát sinh tình cảm ấy ? Điều gì trong tác phẩm làm người nghe đồng cảm và
rung động ? Qua tình cảm ấy nhà thơ muốn gửi đến người nghe điều gì ?
Ví dụ : Dạy bài ca dao :
“ Chiều chiều ra đướng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chìều”
Bài ca dao diễn tả nổi nhớ quê, nhớ mẹ một cách trực tiếp . Tình cảm ấy được
thể hiện qua những từ ngữ cụ thể như: “trông” “ quê mẹ” “ ruột đau” . .. tình
cảm nhớ thương ấy là của một cô gái đặt trong hoàn cảnh xa quê . .. đặt trong
thời gian chiều chiều và không gian ngõ sau . Cái hay của bài ca dao là ở cách
tạo thời gian và không gian nghệ thuật. Cách sử dụng từ “Trông” . Cách nói ẩn
dụ để diễn tả mức độ nỗi nhớ “ruột đau chín chiều” Đặc biệt là ở sức gợi hình
của bài ca dao: Đọc bài ca dao người đọc như hình
dung được hình ảnh một cô gái tội nghiệp, đáng thương, đang đứng sau nhà dưới
bóng chiều tà mãi nhìn về một phương trời xa xăm , với nét mặt u buồn .. .
Tình cảm của cô gái xa nhà đó có thể là tiếng lòng của nhà thơ .Nhưng điều
quan trọng hơn nhà thơ muốn gởi đến chúng ta là tấm lòng ,là sự đồng cảm với
tất cả những người con vì một lí do nào đó phải xa cha mẹ . Tấm lòng của tác giả
đáng để ta trân trọng. Vì thế nếu dạy bài ca dao trên GV chỉ chú ý nội dung , khai
thác nội dung một cách máy móc .( bài ca dao nói lên tình cảm gì ? Tình cảm ấy
của ai ? Từ chiều chiều gợi cho em suy nghĩ gì ? Tại sao tác giả lại cho cô gái
đứng ở ngõ sau ? .. . rồi GV nhận xét chốt ý và cho HS ghi : Bài ca dao là nỗi
nhớ , là lời của cô gái lấy chồng xa nói với mẹ, quê mẹ.
+ Bộc lộ gián tiếp : Là mượn cảnh vật hay một đối tượng nào đó để
bày tỏ tình cảm cảm xúc của mình . Vậy tác giả mượn cảnh gì ? Đối tượng gì ?
Sự việc gì ? Cảnh , đối tượng sự việc ấy như thế nào về thời gian ,không gian
,đường nét ,màu sắc ,âm thanh ,mùi vị ..? Tác phẩm có gì đắc sắc về nội dung
và nghệ thuật ? Chỗ nào trong tác phẩm là người nghe rung động. .. Nói tóm lại
GV khai thác nội dung ,nghệ thuật ở chỗ là từ yếu tố cảnh vật , sự việc ta tìm
ra cảm xúc tình cảm của chủ thể ,rồi từ đó tìm ra thông điệp , điều nhà văn muốn
nói .
7
Để khi dạy ta truyền cho HS những rung động , từ đó giúp cho các em cảm
thấy hứng thú , yêu thích học môn văn hơn .
- Trò: Bắt buộc phải đọc và thuộc ( nếu là thơ ) chuẩn bị bài trước theo hệ
thống câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu văn bản ở sách giáo khoa ( Giáo viên nên
lưu ý những nội dung học sinh cần chú ý khai thác kĩ )
2. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC:
Ngoài những vấn đề đã chuẩn bị như đã nói trên để một tiết dạy đạt được
loại khá GV cần chú ý một số vấn đề sau :
2.1/ Giới thiệu bài : Với mục đích thu hút sự chú ý của học sinh ngay từ
đầu bằng cách đăït ra mục tiêu cho bài học . Thông thường giáo viên ít chú ý giới
thiệu bài hoặc khi giới thiệu chưa dám mạnh dạn nêu lên mục tiêu bài học cho
học sinh định hướng trước. Điều này cũng giống như một học sinh làm bài văn
không có phần mở bài . Như thế học sinh khó định hướng được trong tiết học này
mình sẽ tiếp thu được đơn vị kiến thức nào .
Ví dụ giới thiệu cho bài học Viếng lăng Bác : Hôm nay chúng ta sẽ học bài
thơ “Viếng Lăng Bác”. Qua tiết học này các em sẽ biết đươc tâm trạng cảm xúc
của một người lần đầu tiên được viếng lăng Báccũng như tình cảm của nhân
dân đối với Bác , các em sẽ học tập được cách xây dựng hình ảnh thơ theo
cách ẩn dụ ,cách thể hiện giọng điệu trong bài thơ sao cho phù hợp với nội
dung bài thơ .
2.2 / Trong tiết học cần tạo sự thích thú cho học sinh
- Sử dụng các dụng cụ trực quan ( bảng phụ ,tranh ,ảnh ,…)
- Tổ chức cho HS hoạt động học tập dưới nhiều hình thức mới lạ hấp dẫn :
+ Hoạt động độc lập : Khi cấn đề đơn giảng một cá thể có thể tự giải quyết .
+ Hoạt động nhóm : Khi vấn đề phức tạp một cá thể không thể tự giải quyết cần
chú ý khi hoạt động nhóm giáo viên cần nêu yêu cầu cụ thể là gì ? Làm như thế
nào ? Khi học sinh hoạt động nhóm mỗi HS cần phải ghi chép lại những điều
nhóm hoạt động , phát hiện ,phân tích kết luận .Nếu HS chỉ nhóm lại nói chuyện
chung chung không ghi chép thì việc hoạt động nhóm sẽ phản tác dụng .
+ Hoạt động kết hợp vừa cá thể vừa nhóm : Gv nêu vấn đề về nội dung hoặc
nghệ thuật của tác phẩm yêu cầu HS khám phá , phân tích rút ra kết lụân đó yêu
cầu HS hoạt động ( ai có khả năng tư duy độc lập thì hoạt động cá thể , ai thích
hoạt động nhóm thì hoạt động theo nhóm – nhóm có thể là hai bàn kế bên , có thể
ba , bốn HS nếu các em thích và thấy thoải mái .
+ Tổ chức hoạt động thi đua, tranh luận giữa các nhóm , các cá nhân , giữa
nam và nữ … về một vấn đề trong tác phẩm .
+ Khen ngợi học sinh về những gì học sinh đã phát hiện trình bày ( đừng bao
giờ chê học sinh dù khi các em không biết tí gì , phải giữ thể diện cho học sinh)
8
+ Hãy cười với học sinh : Nụ cười sẽ xua tan mọi mệt nhọc , sựø cách trở giữa
giáo viên và học sinh, tạo tâm thế thoải mái , tránh cảm giác căng thẳng cho các
em)
+ Liên hệ bài giảng vào thực tế cuộc sống của HS : Tình cảm yêu mến, tự hào,
đau xót, căm thù trước hiện thực cuộc sống, liên hệ thực tế nói, viết, tạo lập văn
bản của các em …
2.3/ Xây dựng nội dung bài học ngắn gọn theo trình tự hợp lí :
Chỉ trình bày những kiến thức cơ bản một cách đơn giản và rõ ràng nhất , dể
hiểu nhất . Không nên tham lam trình bày quá dài dòng như thế HS sẽ ngán ngại
học , học khó thuộc và dẫn đến chán học .
2.4/ Phần dặn dò cần cụ thể , nêu những công việc cụ thể để HS thực hiện
ở nhà nhằm giúp các em học tập tốt hơn ở trên lớp .
* Lưu ý: Trong quá trình dạy học văn không có một phương pháp nào được
coi là độc tôn. Vì vậy Gv phải vận dung linh hoạt các phương pháp dạy học
cho phù hợp với từng tiết, từng bài cụ thể. Phải nắm chắc quan điểm tích hợp
trong việc dạy học văn. Phải đảm bảo có tích hợp dọc, ngang...
3. THỰC HÀNH THÔNG QUA MỘT TIẾT HỌC CỤ THỂ:
TIẾT 117 - VĂN BẢN: VIẾNG LĂNG BÁC
Viễn Phương
A. Mục tiêu cần đạt: Qua tiết học gúp HS
1. Kiến thức:
- Học sinh cảm nhận được niềm xúc động thiêng liêng, chân thành sâu lắng của
một nhà thơ ở Miền Nam được đến viếng lăng Bác sau ngày giải phóng Miền
Nam thống nhất đất nước.
- Thấy được những đặc điểm nghệ thuật của bài thơ: giọng thơ trang trọng thành
kính rất phù hợp với không khí thiêng liêng ở lăng Bác, hình ảnh thơ taw thực và
những hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng rất sáng tạo.
2. Kỹ năng: Rèn luyện cho học sinh kỹ năng đọc, cảm nhận thơ 8 chữ, kỹ
năng liên tưởng và phát hiện cái hay của các biện pháp tu từ được Viễn Phương
sử dụng trong văn bản.
3. Thái độ: Giáo dục học sinh lòng yêu mến, kính trọng và biết ơn công lao
của Bác đối với đất nước, với dân tộc.
B. Chuẩn bị :
Thầy: Nghiên cứu SGK, Sách hướng dẫn, Soạn giáo án
Trò: SGK, Soạn bài ở nhà,
C. Tiến trình lên lớp
1. Ổn định tổ chức
9
2. Kiểm tra bài cũ: ? Đọc thuộc lòng bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" ? Nêu cảm
nghĩ của em về cái hay, cái đẹp của 6 câu thơ đầu của bài thơ
3. Bài mới:
Hoạt động của thầy và trò
* Hoạt động I: Đọc tìm hiểu chung
Nội dung cần đạt
I. Đọc, tìm hiểu chung
? Nêu những hiểu biết của em về tác - Tác giả:
giả Viễn Phương. - Tác phẩm: Tháng 4 - 1976 sau
- Hs: Trình bày, Gv tổ chức cho lớp khi thống nhất đất nước, lăng chủ
nhận xét bổ sung và chốt kiến thức tịch Hồ Chí Minh vừa khánh
? Bài thơ Viếng lăng Bác ra đời trong thành. Viễn Phương từ chiến
hoàn cảnh nào? trường Miền Nam ra thăm miền
- Hs: Sáng tác năm 1976, khi lăng chủ Bác vào lăng viếng Bác. Bài thơ
tịch HCM vừa khánh thành. Đây là lần được in trong tập "Như mây mùa
đầu tiên VP ra thăm Bác.
xuân"
* Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc: - Thể thơ: 8 chữ
Giọng thơ tâm tình, tha thiết và sâu - Phương thức biểu đạt: Biểu
lắng, chú ý đọc đúng nhịp. Học sinh cảm.
đọc - Giáo viên nhận xét.
- Bố cục của bài thơ
? Bài thơ này được viết thêo thể thơ
nào, em đã học những bài thơ nào sáng
tác giống thể thơ này.
- Hs: Thể thơ: 8 chữ.
? Căn cứ vào nội dung bài thơ, em có
thể chia bài thơ làm mấy phần, nêu ý
chính của từng phần.
- Khổ thơ đầu: Tâm trạng nhà thơ
trước cảnh trí ngoài lăng Bác
- Khổ thơ 2 - 3: Cảm xúc của nhà thơ
khi vào trong lăng Bác
- Khổ thơ cuối: Cảm xúc của nhà thơ
khi rời lăng Bác.
? Em có nhận xét gì về trình tự miêu tả
của Viễn phương trong bài thơ này?
- Hs: Bài thơ được miêu tả theo trình
tự không gian và thời gian của chuyến
viếng thăm.
* Hoạt động II: Đọc và tìm hiểu văn II. Đọc và tìm hiểu văn bản
bản
1. Cảm xúc của VP khi đứng
trước lăng Bác.
Cảm xúc của VP khi đứng trước lăng
10
Bác.
? Học sinh đọc khổ thơ 1 và cho biết
lần đầu tiên ra thăm lăng Bác được tác
giả giới thiệu qua câu thơ nào?
- Con ở Miền Nam ra thăm lăng Bác.
? Cách xưng con của nhà thơ thể hiện
tình cảm của nhà thơ với Bác như thế
nào? Tại sao nhà thơ không xưng là
cháu mà xưng "Con" ?
- Câu thơ như một lời tâm sự, từ
- Từ "con" thân thương vốn là cách ngữ dung dị, tự nhiên, cách xưng
xưng hô của người dân Nam Bộ, mang hô thân mật gần gũi, giọng điệu
chất giọng ngọt ngào của người dân cảm xúc như người con về thăm
Nam Bộ, thể hiện thái độ thành kính, cha.
gợi cảm xúc mãnh liệt. ở nơi xa xôi
cách trở những người con ở chhieens
trường MN trở về thăm Bác chứ không
phải viếng bác.
Giáo viên: Câu thơ như một lời tâm sự,
từ ngữ dung gị, tự nhiên, cách xưng hô
thân mật gần gũi, giọng điệu cảm xúc
như người con về thăm cha.
? Tại sao tác giả dùng từ "thăm" chứ
không dùng từ "viếng" ? ở đây, tác giả - H/ả hàng tre tượng trưng cho vẻ
sử dụng nghệ thuật gì?
đẹp thanh cao và sức sống bền bỉ,
mãnh liệt của con người, dân tộc
Việt Nam.
- Từ thăm dùng lối nói giảm nói
tránh: kìm nén đau thương, khẳng định
Bác còn sống mãi.
? Khi tới lăng Bác, ấn tượng đầu tiên
của tác giả về lăng bác là hình ảnh gì?
- Hàng tre xanh xanh Việt Nam …
? Nhận xét về nghệ thuật miêu tả hàng
tre của tác giả? Tả thực đan xen yếu tố
tượng trưng.
- Hàng tre: xanh xanh, thẳng hàng (tả
thực)
- Xanh xanh Việt Nam (tượng trưng)
cho dân tộc Việt Nam anh dũng,
kiên cường.
- Bão táp mưa sa (tượng trưng
cho khó khăn gian lao vất vả)
11
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Kinh nghiệm dạy học ngữ văn THCS theo phương pháp đổi mới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_kinh_nghiem_day_hoc_ngu_van_thcs_theo_phuong_phap_doi_m.doc