SKKN Hướng dẫn học sinh lớp 9 làm bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống
Khi viết văn nghị luận, các em không cần phải thuộc lòng những tri thức đọc hiểu trong sách lí thuyết nhiều mà vẫn có thể làm được bài. Các em có thể tự do trình bày suy nghĩ, quan điểm của mình một cách khách quan mà không bị giới hạn, quy định nào ràng buộc. Đồng thời có thể thể hiện sự hiểu biết phong phú của mình cho bài viết sinh động hơn. Bởi dạng bài này thuộc dạng đề mở nên rất phù hợp với mọi đối tượng học sinh…
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Cơ sở lí luận
Có lẽ trong nhà trường không có môn khoa học nào có thể thay thế được
môn Ngữ văn bởi vì đó là môn học vừa hình thành nhân cách, vừa hình thành
tâm hồn. Trong chương trình Tập làm văn cấp Trung học cơ sở, học sinh đã
được làm quen với văn nghị luận. Các em được bộc lộ thái độ, suy nghĩ của
mình về nhiều vấn đề trong xã hội. Đồng thời với xu thế xã hội ngày nay thì
nghị luận xã hội - nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống ngày càng có
vài trò thiết thực, giúp các em không chỉ hoàn thiện kĩ năng trình bày quan điểm
của mình mà còn cung cấp tri thức vô cùng phong phú về những vấn đề xã hội.
Khi viết văn nghị luận, các em không cần phải thuộc lòng những tri thức
đọc hiểu trong sách lí thuyết nhiều mà vẫn có thể làm được bài. Các em có thể
tự do trình bày suy nghĩ, quan điểm của mình một cách khách quan mà không bị
giới hạn, quy định nào ràng buộc. Đồng thời có thể thể hiện sự hiểu biết phong
phú của mình cho bài viết sinh động hơn. Bởi dạng bài này thuộc dạng đề mở
nên rất phù hợp với mọi đối tượng học sinh…
Tuy nhiên, viết văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống không
phải là thích gì, thấy gì viết lấy, hay áp đặt ý kiến chủ quan của người viết. Bài
viết cần đảm bảo tính khách quan hoa học và hướng về vấn đề bàn luận. Người
viết, cần có vốn sống phong phú, tầm hiểu biết rộng và có óc tư duy sắc sảo mới
làm bài tốt.
Vậy làm thế nào để học sinh có thể viết tốt bài nghị luận về một sự việc,
hiện tượng đời sống? Đây là điều trăn trở không chỉ riêng tôi mà còn nhiều các
thầy cô giáo tâm huyết, yêu nghề khác. Là một giáo viên giảng dạy Ngữ văn, vì
những lí do, hoàn cảnh đó đã thúc đẩy tôi chọn đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp
9 làm bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Hiện nay, với sự phát triển của đời sống xã hội, nghị luận xã hội nói
chung, nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống ngày càng có vai trò thiết
thực. Văn nghị luận xã hội giúp các em không chỉ hoàn thiện kĩ năng trình bày
quan điểm của mình mà còn cung cấp tri thức vô cùng phong phú về những vấn
đề xã hội.
1 /24
Trong đề thi môn Ngữ văn cuối học kì, tuyển sinh THPT (chiếm 30% số
điểm của bài thi) thường có bài tập yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức của đời
sống để viết bài nghị luận xã hội về một sự việc, hiện tượng đời sống.
Năm học vừa qua, tôi trực tiếp giảng dạy Ngữ văn lớp 9, tôi nhận thấy văn
nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống là dạng văn nghị luận rất thiết
thực, các em cần có vốn sống, có tư duy và có chính kiến của mình đối với các
vấn đề xã hội. Và cũng qua bài văn, để góp phần hình thành nhân cách cho học
sinh, hướng các em tới những điều cao đẹp hơn trong cuộc sống.
Thế nhưng không ít học sinh chưa hiểu rõ thể văn này cũng như chưa nắm
được phương pháp làm bài hiệu quả.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của làm văn nghị luận xã hội
đối với học sinh đã thúc đẩy tôi chọn đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 9 làm bài
văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
2 /24
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
1.1. Điều kiện áp dụng sáng kiến
1.1.1. Với giáo viên
- Phải nắm chắc dạng bài, phương pháp làm bài nghị luận về một sự việc, hiện
tượng đời sống.
- Thực hiện, tổ chức tốt các hoạt động giảng dạy trên lớp trong các tiết học nghị
luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
1.1.2. Với học sinh
- Nắm chắc dạng bài, cách làm bài.
- Tự giác, ý thức thu thập tư liệu, đọc sách tham khảo, tích cực tham gia các hoạt
động để học tập tốt.
1.2 Thời gian áp dụng sáng kiến
- Sáng kiến được thực hiện ở các dạy chính khoá theo phân phối chương trình,
bồi dưỡng học sinh giỏi, bồi dưỡng đại trà của học sinh lớp 9.
1.3. Đối tượng áp dụng sáng kiến
- Sáng kiến có thể áp dụng đối với học sinh khối 9.
2. Nội dung sáng kiến
Sáng kiến Hướng dẫn học sinh lớp 9 làm bài văn nghị luận về một sự
việc, hiện tượng đời sống, tôi tập trung tìm hiểu thực trạng của việc học, viết bài
nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. Từ đó, tôi hướng dẫn, đưa ra các
giải pháp để làm bài văn. Trước hết, tôi định hướng cho học sinh hiểu được khái
niệm của dạng bài, nhận diện đề bài. Tiếp theo là hướng dẫn các bước để làm
bài văn được tốt nhất. Sau đó, tôi đưa các lưu ý khi làm bài văn ở dạng bài này.
Sau cùng là phần thực tế đã áp dụng và kết quả minh chứng.
3. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
Qua sáng kiến này, học sinh nắm chắc về dạng bài, xác định dễ dàng dạng
bài, sử dụng thành thạo những kĩ năng làm văn nghị luận, sáng tạo trong việc lựa
chọn hình thức thể hiện, vận dụng nhuần nhuyễn các yếu tố tự sự, biểu cảm…
trong bài viết. Học sinh thuần thục và linh hoạt khi triển khai luận điểm, luận cứ,
cách tiếp cận, xử lí thông tin – dẫn chứng, cách lập luận… để vận dụng trong bài
viết. Các em đã vận dụng thành thạo những hiểu biết về đời sống xã hội cũng
như kiến thức trong sách vở để giải quyết vấn đề. Ngôn ngữ làm văn của học
sinh cũng trong sáng, nhuần nhuyễn hơn. Đặc biệt, học sinh hứng thú học tập và
ưu thích môn Ngữ văn nói chung và viết văn nghị luận về một sự việc, hiện
tượng đời sống.
3 /24
4. Thực trạng của vấn đề
4.1. Chương trình
- Từ năm học 2002, chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn THCS bắt đầu thực
hiện ở lớp 6 trong toàn quốc cho đến năm học 2005 đã triển khai hết lớp 9.
Chương trình và sách Ngữ văn mới có nhiều thay đổi so với chương trình và
sách giáo khoa trước đó. Đặc biệt kiểu bài: Nghị luận xã hội được đưa vào
chương trình Ngữ văn THCS, cụ thể dạng bài nghị luận về một sự việc, hiện
tượng đời sống.
- Ở lớp 7, các em được tìm hiểu về các văn bản nghị luận xã hội, đặc biệt các em
được học về kiểu bài nghị luận với hai phương thức nghị luận cơ bản: lập luận
chứng minh, lập luận giải thích.
- Tiếp đó lớp 9, các em được tìm hiểu các văn bản nghị luận xã hội, được học về
dạng bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
- Ngoài ra trong đề thi môn Ngữ văn cuối cấp, tuyển sinh THPT thường có bài
tập yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức của đời sống để viết bài nghị luận xã
hội về một sự việc, hiện tượng đời sống.
4.2. Học sinh
- Phù hợp với kinh nghiệm lứa tuổi và trình độ suy luận của học sinh. Vốn sống
của các em bắt đầu nhận thức về từng sự việc, hiện tượng trong đời sống hằng
ngày.
- Tuy nhiên các em hiểu biết về vấn đề trong đời sống còn hạn chế, chưa quen
chủ động giải quyết nhiều tình huống bất ngờ, đa dạng trong cuộc sống, kinh
nghiệm, kĩ năng sống còn hạn chế. Cấu trúc bài làm chưa chặc chẽ, mạch lạc.
Việc tổ chức các luận điểm, luận cứ, … chưa có hệ thống và toàn diện.
5. Các giải pháp, biện pháp thực hiện
5.1 Các thao tác thường áp dụng khi viết bài: Các dạng bài NLXH đều vận
dụng chung các thao tác lập luận là giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh,
bác bỏ, bình luận. Ba thao tác cơ bản nhất là giải thích, chứng minh, bình luận.
5.1.1 Thứ nhất về thao tác giải thích:
- Mục đích: Nhằm để hiểu.
- Các bước:
+ Bước 1: Làm rõ vấn đề được dẫn trên đề. Nếu vấn đề thể hiện dưới dạng là
một câu trích dẫn khá nổi tiếng nào đó hoặc một ý tưởng do người ra đề đề xuất,
người viết cần lần lượt giải nghĩa, làm rõ nghĩa của vấn đề theo cách đi từ khái
niệm đến các vế câu và cuối cùng là toàn bộ ý tưởng được trích dẫn. Khi vấn đề
được diễn đạt theo kiểu ẩn dụ bóng bẩy thì phải giải thích cả nghĩa đen lẫn nghĩa
bóng của từ ngữ. Nếu vấn đề là một hiện tượng đời sống, người viết cần cho biết
4 /24
đó là hiện tượng gì, hiện tượng đó biểu hiện ra sao, dưới các hình thức nào
(miêu tả, nhận diện)...Làm tốt bước giải nghĩa này sẽ hiểu đúng vấn đề, xác định
đúng vấn đề (hoặc mức độ) cần giải thích để chọn lí lẽ cần thiết.
Trong quan niệm làm văn truyền thống, bước này được xem là bước trả lời câu
hỏi Là gì?
+ Bước 2: Tìm hiểu cơ sở của vấn đề: Trả lời tại sao có vấn đề đó (xuất phát từ
đâu có vấn đề đó). Cùng với phần giải nghĩa, phần này là phần thể hiện rất rõ
đặc thù của thao tác giải thích. Người viết cần suy nghĩ kĩ để có cách viết chặt
chẽ về mặt lập luận, lô gíc về mặt lí lẽ, xác đáng về mặt dẫn chứng. Trong quan
niệm làm văn truyền thống, bước này được xem là bước trả lời câu hỏi Tại sao?
+ Bước 3: Nêu hướng vận dụng của vấn đề: Vấn đề được vận dụng vào thực tiễn
cuộc sống như thế nào. Hiểu nôm na, phần này yêu cầu người viết thể hiện quan
điểm của mình về việc tiếp thu, vận dụng vấn đề vào cuộc sống của mình như
thế nào.Trong quan niệm làm văn truyền thống, bước này được xem là bước trả
lời câu hỏi Như thế nào?
Lưu ý khi thực hiện thao tác giải thích: Nên đặt trực tiếp từng câu hỏi (Là gì, tại
sao, như thế nào vào đầu mỗi phần (mỗi bước) của bài văn. Mục đích đặt câu
hỏi: để tìm ý (phần trả lời chính là ý, là luận điểm được tìm ra) và cũng để tạo
sự chú ý cần thiết đối với người đọc bài văn. Cũng có thể không cần đặt trực
tiếp ba câu hỏi (Là gì, tại sao, như thế nào) vào bài làm nhưng điều quan trọng
là khi viết, người làm bài cần phải có ý thức mình đang lần lượt trả lời từng ý,
từng luận điểm được đặt ra từ ba câu hỏi đó. Tuỳ theo thực tế của đề và thực tế
bài làm, bước như thế nào có khi không nhất thiết phải tách hẳn riêng thành một
phần bắt buộc.
5.1.2. Thứ hai về thao tác chứng minh
- Mục đích: Tạo sự tin tưởng.
- Các bước:
+ Bước 1: Xác định chính xác điều cần chứng minh, phạm vi cần chứng minh.
+ Bước 2: Dùng dẫn chứng trong thực tế cuộc sống để minh hoạ nhằm làm
sáng tỏ điều cần chứng minh, phạm vi cần chứng minh.
5.1.3 Thứ ba về thao tác bình luận
- Mục đích: Tạo sự đồng tình.
- Các bước:
- Nêu, giải thích rõ vấn đề (hiện tượng) cần bình luận.
- Dùng lí lẽ và dẫn chứng (chủ yếu là lí lẽ) để khẳng định giá trị của vấn đề hoặc
hiện tượng (giá trị đúng hoặc giá trị sai). Làm tốt phần này chính là đã bước đầu
đánh giá được vấn đề (hiện tượng) cần bình luận.
5 /24
- Bàn rộng và nhìn vấn đề (hiện tượng) cần bình luận dưới nhiều góc độ (thậm
chí từ góc độ ngược lại) để có cái nhìn đầy đủ hơn.
- Khẳng định tác dụng, ý nghĩa của vấn đề trong cuộc sống hiện tại.
6. Khái niệm dạng bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
- Nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống xã hội là bàn về một sự
việc, hiện tượng có ý nghĩa đối với xã hội, đáng khen, đáng chê hay có vấn đề
đáng suy nghĩ.
(Ngữ văn 9, tập 2 - XB 2011)
6.1 Dạng nghị luận về một hiện tượng đời sống
6.1.1Đề tài:
Những hiện tượng tốt hoặc chưa tốt cần được nhìn nhận thêm. Ví dụ :
-Chấp hành luật giao thông.
-Hiến máu nhân đạo
-Nạn bạo hành trong gia đình
-Phong trào thanh niên tiếp sức mùa thi
-Cuộc vận động giúp đỡ đồng bào hoạn nạn
-Cuộc đấu tranh chống nạn phá rừng
-Những tấm gương người tốt việc tốt
-Nhiều bạn trẻ quên nói lời xin lỗi khi mắc lỗi
-Nhiều bạn trẻ quên nói lời cảm ơn khi được giúp đỡ
*Lưu ý:
- Nên quy thành từng cụm đề tài nhỏ như dạng bài NLVMTT, ĐL để dễ nhận
diện:
-Về nhận thức (lí tưởng, mục đích sống, mục đích học tập...).
-Về tâm hồn, tính cách (lòng yêu nước, lòng nhân ái, lòng vị tha, lòng bao dung,
lòng độ lượng; tính trung thực, tính cương quyết, tính hoà nhã, tính khiêm tốn,
tính ích kỉ...).
-Về quan hệ gia đình (tình mẫu tử, tình anh em...).
-Về quan hệ xã hội (tình đồng bào, tình thầy trò, tình bạn...).
6.2.Về cấu trúc triển khai tổng quát:
-Nêu rõ hiện tượng.
-Nêu nguyên nhân. Phân tích các mặt đúng-sai, lợi-hại.
-Bày tỏ thái độ, ý kiến về hiện tượng xã hội đó.
6.3Một số đề tham khảo:
- Hiện nay, ở nước ta có nhiều cá nhân, gia đình, tổ chức thu nhận trẻ em cơ
nhỡ, lang thang kiếm sống trong các thành phố, thị trấn về những mái ấm tình
6 /24
thương để nuôi dạy, giúp các em học tập, rèn luyện, vươn lên sống lành mạnh,
tốt đẹp.
Anh (chị) hãy bày tỏ suy nghĩ về hiện tượng đó.
- Về hiện tượng ngày càng có nhiều người dời bỏ quê hương để đổ xô về các
thành phố lớn.
- Về hiện tượng nhiều người trong lớp trẻ hôm nay lạnh nhạt với âm nhạc truyền
thống.
- Em hãy trình bày ý kiến của mình về những tác hại của việc hút thuốc lá đối
với con người và rút ra bài học cho bản thân.
- Trò chơi điện tử hấp dẫn nhưng cũng có tác hại.
- Nước ta có nhiều tấm gương vượt lên số phận, học tập thành công (như anh
Nguyễn Ngọc Kí bị hỏng tay, dùng chân viết chữ; anh Hoa Xuân Tứ bị cụt tay,
dùng vai viết chữ; anh Đỗ Trọng Khơi bị bại liệt đã tự học, trở thành nhà thơ;
anh Trần Văn Thước bị tai nạn lao động, liệt toàn thân đã tự học, trở thành nhà
văn,…). Lấy nhan đề “Những người không chịu thua số phận”, em hãy viết bài
văn nêu suy nghĩ của mình về những con người ấy.
- Đọc mẩu chuyện sau đây và nêu những nhận xét, suy nghĩ của em về con
người và thái độ học tập của nhân vật.
Nguyễn Hiền nhà rất nghèo, phải xin làm chú tiểu trong chùa. Việc chính là
quét lá và dọn dẹp vệ sinh. Nhưng cậu rất thông minh và ham học. Những buổi
thầy giảng kinh, cậu đều nép bên cửa lắng nghe, rồi chỗ nào chưa hiểu, cậu hỏi
thầy giảng thêm. Thấy Nguyễn Hiền thông minh, mau hiểu, thầy dạy cho cậu
học chữ. Không có giấy, Nguyễn Hiền lấy lá để viết chữ, rồi lấy que tre xâu
thành từng xâu ghim xuống đất. Mỗi ghim là một bài.
Một hôm Nguyễn Hiền xin thầy cho đi thi. Thầy ngạc nhiên bảo:
- Con đã học tập được bao nhiêu mà dám thi thố với thiên hạ?
- Con xin thi thử xem sức học của mình đến đâu.
Năm ấy, Nguyễn Hiền đã đỗ Trạng nguyên. Vua Trần cho Nguyễn Hiền còn
nhỏ quá, mới 12 tuổi, nên không bổ dụng.
Một thời gian sau, vua có việc tiếp sứ giả nước ngoài, cho gọi Nguyễn Hiền về
triều. Nguyễn Hiền bảo:
- Đón Trạng nguyên mà không có võng lọng sao? Ông về tâu với vua xin cho
đầy đủ nghi thức.
Vua đành cho các quan mang võng lọng rước quan Trạng tí hon về kinh.
(Theo Cửu Thọ, Một trăm gương tốt thiếu nhi Việt Nam).
7 /24
6.3.1 Nhận xét:
- Đề bài: Nêu hiện tượng đời sống và yêu cầu làm bài.
- Có sự việc, hiện tượng tốt cần biểu dương (dạng đề bài có tính chất tích cực -
đề 3, 4), có sự việc, hiện tượng chưa tốt cần phê phán, nhắc nhở (dạng đề bài có
tính chất tiêu cực - đề 1, 2).
- Có đề nêu trực tiếp sự việc, hiện tượng cần nghị luận (đề 1, 2) dưới dạng mẩu
chuyện, đoạn tin (đề 4); có đề không cung cấp nội dung mà chỉ gọi tên để người
làm bài phải trình bày, mô tả sự việc, hiện tượng đó (đề 2).
- Đề có mệnh lệnh (nêu suy nghĩ, bình luận, nêu ý kiến, bày tỏ thái độ, em đồng
tình hay phản đối, em có ý kiến nào khác…- đề 1, 3, 4); đề không có mệnh lệnh
(loại đề mở chỉ nêu sự việc, hiện tượng – đề 2).
6.3.2 Các bước làm bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống
Bước 1: Tìm hiểu đề và tìm ý
- Tìm hiểu đề:
+ Đọc kĩ đề, gạch dưới các từ quan trọng.
+ Dựa vào các từ đã gạch trong đề, tìm ra: Đề yêu cầu nghị luận sự việc, hiện
tượng nào trong đời sống, ở mặt nào? (văn hoá, sức khoẻ, nhà trường...). Đề yêu
cầu dùng phép lập luận nào? Phạm vi đến đâu?
- Hướng lập ý: Đi theo trình tự hợp lí nào? (dựa vào yêu cầu của đề).
+ Từ nhận thức đến hành động.
+ Từ giảng giải đến chứng minh.
+ Hoặc hướng lập ý: đối lập.
+ Hoặc hướng lập ý theo trình tự thời gian, không gian...
Bước 2: Lập dàn bài (Dàn bài chung)
a. Mở bài:
- Dẫn dắt vấn đề
- Giới thiệu sự việc, hiện tượng đời sống cần nghị luận.
b. Thân bài:
- Khái niệm và bản chất của hiện tượng (giải thích) mô tả hiện tượng
- Nêu thực trạng và nguyên nhân (khách quan, chủ quan) của hiện tượng bằng
các thao tác phân tích, chứng minh.
- Nêu tác dụng – ý nghĩa (hiện tượng tích cực)
- Nêu tác hại – hậu quả (hiện tượng tiêu cực)
- Giải pháp phát huy (hiện tượng tích cực)
- Biện pháp khắc phục (hiện tượng tiêu cực)
c. Kết bài:
8 /24
- Bày tỏ ý kiến của bản thân về sự việc, hiện tượng vừa nghị luận.
- Rút ra bài học về nhận thức, hành động cho bản thân.
a) Cách viết mở bài
- Nghị luận về một hiện tượng đời sống cũng là một dạng văn bản. Vì
vậy, nó cũng cần bắt đầu bằng một mở bài. Và phần mở bài của nó dĩ nhiên
không thể đi ngược lại những nguyên tắc chung của mở bài.
- Nghị luận là hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người muốn
được bàn luận và đánh giá về một hiện tượng (hoặc vấn đề) nào đấy. Mở bài của
một bài nghị luận hiện tượng đời sống phải thể hiện được định hướng đánh giá
và bàn luận đó thông qua những câu hỏi, hoặc những câu có tác dụng gợi suy
nghĩ, trăn trở trong người đọc (người nghe).
b) Cách viết thân bài
- Thân bài phải gồm đủ hai thành phần là bàn luận và đánh giá, để có thể
đáp ứng yêu cầu bình luận.
- Các ý của thân bài cần được sắp xếp sao cho người đọc (người nghe) có
thể tiếp nhận sự đánh giá, bàn luận của người làm văn một cách dễ dàng và hứng
thú, vì sự bình luận chỉ có ý nghĩa khi nó thực sự hướng tới người đọc (người
nghe). Chẳng hạn:
- Người đọc (người nghe) sẽ không thể tiếp nhận, và càng không thể tiếp
nhận một cách hứng thú những lời bình luận về một hiện tượng nếu họ còn mơ
hồ về cái hiện tượng được đưa ra bình luận ấy. Vì thế, trước khi bắt tay vào đánh
giá hay bàn bạc, người bình luận nên trình bày một cách trung thực, đầy đủ, rõ
ràng về hiện tượng đời sống mà mình sẽ đem ra bàn luận cùng người đọc (người
nghe).
Người bình luận không nên cố trình bày hiện tượng đời sống đó sao cho phù hợp
nhất với quan điểm của mình, vì việc làm ấy có thể sẽ mâu thuẫn với yêu cầu
khách quan, trung thực và từ đó sẽ khiến người đọc (người nghe) hoài nghi, cảm
thấy sự bình luận không thật công bằng, không vô tư.
Người bình luận cũng nên vận dụng các yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết
minh trong lúc trình bày để bài văn của mình thêm chính xác, rõ ràng, sinh động
và do đó, thêm sức thuyết phục người đọc (người nghe).
- Người đọc (người nghe) sẽ không thể thực sự tin vào ý kiến của người nghị
luận, nếu cảm thấy ý kiến ấy chỉ là sự áp đặt một chiều. Sức thuyết phục của bài
nghị luận sẽ cao hơn nhiều khi người nghe có điều kiện so sánh ý kiến của người
nghị luận với những ý kiến đã được nêu ra trước đó. Do vậy, người làm văn nên
làm công việc điểm lại và nhận xét một cách hợp tình hợp lí các quan điểm
chính đã có về hiện tượng đời sống được đưa ra bình luận, trước khi đưa ra quan
9 /24
điểm của bản thân mình.
Việc điểm lại và nhận xét các quan điểm chính đã có về hiện tượng đời sống nêu
ở đề bài rõ ràng cũng cần phải đạt được các yêu cầu khách quan, trung thực, như
vừa nêu ở điểm trên. Vì có thế thì người nghị luận mới mong đạt được mục đích
của mình.
- Khi nêu ra và bảo vệ quan điểm của riêng mình, người bình luận có thể đứng
hẳn về một phía, ủng hộ phía mình cho là đúng và phê phán phía mà mình chắc
chắn là sai. Người bình luận cũng có thể kết hợp những phần đúng và loại bỏ
phần còn hạn chế của mỗi phía để đi tới một sự đánh giá mà mình tin là thực sự
hợp lí, công bằng. Và cũng không loại trừ khả năng người bình luận đưa ra một
cách đánh giá khác biệt của riêng mình, sau khi đã phân tích các quan điểm ý
kiến khác nhau về đề tài cần bình luận.
Việc lựa chọn cách làm nào trong cách kể trên cũng hoàn toàn chỉ xuất phát từ
một và chỉ một cơ sở duy nhất - cơ sở chân lí. Và sau khi đã lựa chọn được một
cách thức phù hợp với chân lí (lẽ phải) rồi thì nhiệm vụ của người bình luận là
thuyết phục người nghe (người đọc) đặt niềm tin vào sự đánh giá của mình, như
chính mình đã từng có niềm tin như thế.
- Khi tiếp tục luận bàn sâu rộng hơn, người làm văn có thể đề cập tới thái độ,
hành động, cách giải quyết cần có trước hiện tượng vừa được nhận xét, đánh giá,
cũng có thể bày tỏ những cảm nhận, suy nghĩ mà mình đã rút ra khi liên hệ với
thời đại, hoàn cảnh sống, lứa tuổi của mình và của người đang lắng nghe mình
bình luận. Sự bàn luận còn có thể đạt tới tầm vóc lớn hơn, có giá trị cao hơn nếu
người bình luận có thể mở ra những ý nghĩa sâu rộng, sâu sắc và bất ngờ nữa từ
hiện tượng đời sống mà mình đang bình luận.
c) Cách viết kết bài
- Phần kết bài phải đóng được bài văn lại bằng một khẳng định chắc chắn, không
thể nào bác bỏ.
- ở một bài nghị luận hay, phần kết không chỉ làm một nhiệm vụ duy nhất là
chốt lại bài văn. Một phần kết chỉ thật hay khi nó còn mở ra được một phạm vi
rộng lớn hơn cho những suy ngẫm, những điều cần bàn luận tiếp.
* Lưu ý: Khi có đề văn yêu cầu nghị luận về một hiện tượng đời sống thì trước
hết phải tìm hiểu hiện tượng đời sống được nêu trong đề, phân tích các biểu hiện
của nó, lí giải các nguyên nhân và hậu quả.
Tiếp đến nêu ý kiến nhận xét, đánh giá hiện tượng đó tốt, xấu, lợi, hại như thế
nào. Chúng ta cần có thái độ ra sao đối với hiện tượng đó. Trên cơ sở suy nghĩ
đó mà lập dàn ý để cho bài viết mạch lạc, vận dụng kết hợp hợp lí các thao tác
10/24
nghị luận.
Bước 3: Viết bài
- Học sinh viết từng phần, từ mở bài cho đến kết bài.
- Mở bài: Có thể chọn mở bài bằng nhiều cách: Đi thẳng vào vấn đề, suy từ
chung đến riêng, suy từ tâm lí con người, dùng phép đối lập, có thể dùng cách
tương đồng/ tương phản, xuất xứ/ đại ý, diễn dịch/ quy nạp...
- Thân bài: Trước hết, phải có từ ngữ chuyển đoạn, tiếp nối phần mở bài. Sau đó
phân tích, đánh giá...sự việc, hiện tượng đó.
- Kết bài: Có thể sử dụng từ ngữ chuyển đoạn, hoặc nhắc lại ý trong phần mở
bài. Chú ý kết bài nên hô ứng với mở bài.
Bước 4: Đọc lại bài viết và sửa chữa
- Đọc lại bài viết và có thể sửa lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi ngữ pháp.
- Chú ý liên kết, mạch lạc giữa các câu trong đoạn văn và giữa các phần của bài
văn.
6.3.3. Những lưu ý khi làm bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời
sống
Về nội dung
Kiểu bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống đề cập và có
liên quan tới rất nhiều phương diện của đời sống (bao gồm đời sống tự nhiên và
xã hội). Thông thường, những hiện tượng mà đề bài đề cập tới thường là những
hiện tượng nổi bật, tạo được sự chú ý và có tác động đến đời sống xã hội.
Tính chất đa dạng, phong phú của hiện tượng đời sống cũng được thể hiện
trong nội dung đề bài. Không chỉ đề cập đến những hiện tượng tốt đẹp, tích cực
trong đời sống, kiểu bài nghị luận này còn lứu ý học sinh những hiện tượng
mang tính chất tiêu cực, đang bị xã hội lên án, phê phán. Vì vậy, để làm tốt kiểu
bài này, học sinh cần lưu ý những nội dung sau:
Tích luỹ thông tin
- Dù có thể ra đề vào bất cứ vấn đề gì, nhưng chắc chắn người ra đề sẽ tính toán
rất kĩ để chọn vấn đề phù hợp với khả năng, điều kiện, môi truờng tiếp nhận và
xử lí thông tin của học sinh. Hầu hết tất cả những đề nghị luận xã hội hiện nay
đều gắn những vấn đề "nóng" của đời sống xã hội. Bởi thế, để giải quyết được
những tình huống khác nhau, không có cách nào khác, học sinh phải thường
xuyên tích luỹ thông tin, hiểu biết về những vấn đề đang diễn ra trong cuộc sống
xung quanh bằng cách đọc sách báo, tài liệu, những chương trình truyền hình:
11/24
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Hướng dẫn học sinh lớp 9 làm bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
skkn_huong_dan_hoc_sinh_lop_9_lam_bai_van_nghi_luan_ve_mot_s.doc