SKKN Giúp học sinh nắm vững biện pháp so sánh trong Luyện từ và câu lớp 3
Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp chính thức của cộng đồng các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam.. Bởi thế, dạy Tiếng Việt có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và đời sống của mỗi con người. Những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội , văn hoá giáo dục, thành tựu khoa học đều có liên quan đến việc dạy Tiếng Việt mà trong đó biện pháp so sánh góp một phần không nhỏ để làm nên điều đó .
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH XUÂN – HÀ NỘI
TRƯỜNG TIỂU HỌC THANH XUÂN TRUNG
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
GIÚP HỌC SINH NẮM VỮNG BIỆN PHÁP SO
SÁNH TRONG LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 3
MÔN: TIẾNG VIỆT
Tên tác giả: Đàm Thị Ánh Tuyết
Giáo viên chủ nhiệm: Lớp 3A4
Năm học: 2011 – 2012
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp chính thức
của cộng đồng các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam.. Bởi thế, dạy Tiếng
Việt có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và đời sống của mỗi
con người. Những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội , văn hoá
giáo dục, thành tựu khoa học đều có liên quan đến việc dạy Tiếng Việt mà trong
đó biện pháp so sánh góp một phần không nhỏ để làm nên điều đó .
Mặt khác, so sánh có khả năng khắc họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh
mẽ làm nên một hình thức miêu tả sinh động, so sánh còn có tác dụng làm cho
lời nói rõ ràng, cụ thể, diễn đạt được mọi sắc thái biểu cảm. Có ai sinh ra mà
không biết rằng:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Chỉ cần sử dụng biện pháp tu từ so sánh trong câu ca dao trên , tâm tư
tình cảm của con người sẽ được bộc lộ một cách kín đáo và tế nhị. Nó gởi gắm
vào đó cả một niềm tâm sự thầm kín. Như vậy đối với tác phẩm văn học nói
chung, so sánh mang chức năng nhận thức và biểu cảm.
Nhờ những hình ảnh bóng bẩy, ước lệ, dùng cái này để đối chiếu cái kia
nhằm diễn tả những ngụ ý nghệ thuật mà so sánh tu từ được sử dụng phổ biến
trong thơ ca, đặc biệt là thơ viết cho thiếu nhi. So sánh tu từ giúp các em hiểu và
cảm nhận được những bài thơ, bài văn hay, từ đó góp phần mở mang tri thức
làm phong phú về tâm hồn, tạo hứng thú khi viết văn, rèn luyện ý thức, yêu quý
Tiếng Việt giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt cho học sinh.
Biện pháp nghệ thuật so sánh đã chính thức đưa vào phân môn Luyện
từ và câu lớp 3. Điều đó cũng khẳng định vai trò trách nhiệm của mỗi giáo viên
trong việc hình thành cho học sinh kĩ năng nhận biết và sử dụng. Giúp học sinh
phát triển kĩ năng giao tiếp, tạo điều kiện để học sinh phát triển một cách toàn
diện đồng thời giúp giáo viên có được các phương pháp rèn luyện học sinh về kỹ
năng sử dụng biện pháp so sánh.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của phân môn tôi mạnh dạn nghiên cứu
đề tài ''Giúp học sinh nắm vững biện pháp so sánh trong luyện từ và câu lớp
3 ''.
2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Đề tài ''Giúp học sinh nắm vững biện pháp so sánh trong luyện từ và câu
lớp 3 '' nhằm giúp học sinh lớp 3 nắm vững về biện pháp so sánh, từ đó biết sử
dụng biện pháp so sánh vào viết câu văn, bài văn làm cho câu văn sinh động, gợi
cảm, giàu hình ảnh.
1
3. Đối tượng nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi đã nghiên cứu qua đối tượng học sinh lớp 3A4
– Trường Tiểu học Thanh Xuân Trung với mục đích nâng cao hiệu quả giờ học
góp phần khắc sâu kiến thức cho học sinh.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Phương pháp tích hợp
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp điều tra
2
B. NỘI DUNG
1. Những vấn đề lí luận làm cơ sở cho đề tài
a) Môn Tiếng Việt là một môn học xã hội. Ngoài việc cung cấp những
hiểu biết về cuộc sống, về mối quan hệ xã hội, môn Tiếng Việt còn cung cấp
những kiến thức cơ bản để hình thành những kĩ năng sử dụng Tiếng Việt như:
nghe, nói, đọc viết một cách thành thạo.
Dạy Luyện từ và câu là cung cấp cho học sinh một số kiến thức về từ ngữ,
hướng dẫn các em đặt câu, viết đoạn văn. Trong chương trình lớp 1, tuy không
có phân môn Luyện từ và câu riêng nhưng thực chất các em được học luyện từ
và câu qua các bài học vần( Học kì I), các bài tập đọc ( Học kì II) với các yêu
cầu: tìm từ có chứa tiếng, nói câu có các từ, ghi lại hoạt động của người trong
tranh bằng 1 câu,….Ở lớp 2 phân môn luyện từ và câu đã được dạy thành các
tiết học theo các chủ điểm nhưng ở mức độ đơn giản. Ở lớp 3, yêu cầu có cao
hơn, các em phải sử dụng từ đúng, nói và viết thành câu và đòi hỏi luôn có ý
thức sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp phù hợp với các chuẩn mực văn hóa.
Câu và từ là đơn vị nhỏ nhất để tạo nên văn bản. Các em có nói, viết đúng câu
văn thì bài văn mới hay, hấp dẫn người đọc. Để học sinh tự mình viết được câu
văn hay quả là một việc làm khó mà đòi hỏi phải có sự hướng dẫn của giáo viên.
Vì vậy, “Giúp học sinh nắm vững biện pháp so sánh trong luyện từ và câu
lớp 3” có ý nghĩa quan trọng và cần thiết.
b. Nh÷ng kiÕn thøc vµ kÜ n¨ng vÒ biÖn ph¸p so s¸nh häc sinh ®-îc häc ë ph©n
m«n LuyÖn tõ vµ c©u líp 3.
Néi dung “so s¸nh” lµ néi dung hoµn toµn míi trong ch-¬ng tr×nh TiÕng ViÖt
3. Néi dung nµy ®-îc ®-a vµo d¹y trong ch-¬ng tr×nh LuyÖn tõ vµ c©u – mét
ph©n m«n ®-îc x©y dùng trªn c¬ së hai ph©n m«n Tõ ng÷ vµ ng÷ ph¸p cña
ch-¬ng tr×nh c¶i c¸ch gi¸o dôc.
C¸c bµi d¹y vÒ so s¸nh ®-îc ®Ò cËp ®Õn trong 8 tiÕt cña ch-¬ng tr×nh ph©n
m«n LuyÖn tõ vµ c©u líp 3. Theo ch-¬ng tr×nh nµy th× so s¸nh kh«ng ®-a vµo
d¹y d-íi d¹ng cung cÊp nh÷ng kh¸i niÖm lÝ thuyÕt mµ tÊt c¶ c¸c néi dung vÒ so
s¸nh ®Òu ®-îc d¹y th«ng qua c¸c bµi tËp chñ yÕu nh- sau:
+D¹ng bµi tËp nhËn diÖn (chiÕm 87,5%)
+ D¹ng bµi tËp t¸i t¹o (chiÕm 6,25%)
+ D¹ng bµi tËp s¸ng t¹o ( chiÕm 6,25%)
B»ng hÖ thèng trªn, SGK truyÒn thô cho häc sinh c¸c kiÕn thøc sau:
-TiÕt 1: CÊu t¹o vµ ®Æc ®iÓm cña biÖn ph¸p so s¸nh.
- TiÕt 2: Kh¸i niÖm so s¸nh. Tõ chØ quan hÖ so s¸nh.
- TiÕt 3: ¤n l¹i c¸c kiÕn thøc vÒ h×nh ¶nh so s¸nh, tõ chØ quan hÖ so s¸nh. C¸c
kiÓu so s¸nh: so s¸nh ngang b»ng, so s¸nh h¬n, so s¸nh kÐm.
- TiÕt 4: NhËn diÖn h×nh ¶nh so s¸nh. NhËn thøc vÒ vai trß còng nh- t¸c dông
cña biÖn ph¸p so s¸nh.
- TiÕt 5,6: Më réng vÒ c¸c sù vËt ®em ra ®Ó so s¸nh víi nhau.
3
- TiÕt 7: Cung cÊp vµ kh¾c s©u kiÕn thøc cho häc sinh vÒ yÕu tè chØ ph-¬ng
diÖn so s¸nh.
- TiÕt 8: ¤n tËp.
C¸c kÜ n¨ng häc sinh cÇn ®¹t ®-îc lµ: t¹o ®-îc c¸c h×nh ¶nh so s¸nh, biÕt ¸p
dông c¸c h×nh ¶nh so s¸nh vµo c©u v¨n, ®o¹n v¨n (khi ®· biÕt t¸c. Để phục vụ
cho mục đích nghiên cứu đề tài, tôi thống kê phân tích các hướng nghiên cứu
biện pháp so sánh trong phân môn: "Luyện từ và câu" của chương trình SGK lớp
3 phục vụ cho việc giảng dạy.
2. Thực trạng
2. 1. Thuận lợi
a. Sách giáo khoa: Phân môn Luyện từ và câu được trình bày theo chủ
điểm rất rõ ràng, mạch lạc. Đặc biệt các bài tập về biện pháp so sánh được đưa
ra theo thứ tự từ dễ đến khó. Phân môn luyện từ và câu của lớp 3 nhìn chung
ngắn gọn, cụ thể đã được bớt nhiều so với chương trình Từ ngữ - ngữ pháp của
lớp 3 cũ.
b. Giáo viên:
Ban giám hiệu luôn tạo điều kiện cho công tác giảng dạy, đã tổ chức cho
giáo viên tham gia các lớp học bồi dưỡng về công nghệ thông tin để giáo viên có
thể sử dụng thành thạo các chương trình, các phần mềm trên máy tính. Bản thân
giáo viên luôn luôn có ý thức học hỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có năng lực sư
phạm, yêu nghề.
c. Học sinh:
- Học sinh đã quen với cách học mới từ lớp 1,2 nên các em đã biết cách
lĩnh hội và luyện tập thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Sự quan tâm của phụ huynh học sinh cũng góp phần nâng cao chất
lượng phân môn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung.
- Số lượng học sinh ít, các em học sinh đều được học 2 buổi/ngày. Sau tiết
học lý thuyết, đều có tiết HDH để luyện tập củng cố, khắc sâu kiến thức. Từ đó
giúp các em có khả năng sử dụng thành thạo các bài tập thực hành và áp dụng
linh hoạt vào các phân môn khác.
2. 2. Khó khăn
a. Sách giáo khoa:
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3 hiện nay nói chung và phân môn Luyện từ
và câu nói riêng còn tồn tại một số điểm chưa hợp lý: Mặc dù SGK đã chú trọng
phương pháp thực hành nhưng những bài tập sáng tạo vẫn còn ít, đơn điệu, kiến
thức dạy học sinh còn mang tính trừu tượng, thiếu hình ảnh minh hoạ nên học
sinh còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình lĩnh hội các kiến thức mới.
b. Giáo viên:
Vì bản thân là phụ nữ ngoài việc lên lớp dạy học còn phải chăm lo cho
gia đình nên thời gian để nghiên cứu chuyên môn còn hạn chế. Một số bộ phận
4
nhỏ giáo viên vẫn chưa chú trọng quan tâm đến việc lồng ghép trong quá trình
dạy học giữa các phân môn của môn Tiếng Việt với nhau, để khơi dậy sự hứng
thú học tập và sự tò mò của phân môn này với phân môn khác trong môn Tiếng
Việt.
c. Học sinh:
Do khả năng tư duy của học sinh còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản,
trực quan nên việc cảm thụ nghệ thuật tu từ so sánh còn hạn chế. Vốn kiến thức
văn học của học sinh còn nghèo .Một số em chưa có khả năng nhận biết về nghệ
thuật, học sinh chỉ mới biết các sự vật một cách cụ thể. Trình độ nhận thức của
học sinh không đồng đều. Có một số học sinh còn chưa có ý thức tự giác học.
Trong thời gian gần đây một số học sinh còn mê những tập truyện tranh mà
ngôn từ trong những tập truyện đó rất cụt lủn. Khi viết văn một bộ phận các em
mang nguyên những ngôn từ này vào bài văn của mình. Bên cạnh đó, các em
còn mang lối tư duy cụ thể, một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con
em mình còn có quan điểm '' trăm sự nhờ nhà trường, nhờ cô'' cũng làm ảnh
hưởng đến chất lượng học tập bộ môn. Nên khi tiếp thu về nghệ thuật so sánh tu
từ rất khó khăn.
Sau khi học được một số tiết luyện từ và câu về biện pháp so sánh tôi cho
các em làm một số bài tập để kiểm tra kiến thức của các em về kỹ năng nhận
biết biện pháp so sánh tôi đã thu được kết quả như sau:
Tổng số học sinh 37 em:
Số học sinh đạt yêu
cầu về nhận biết tu
từ so sánh
Số học sinh chưa có kỹ
năng nhận biết tu từ so
sánh
Số học sinh không nhận
biết tu từ so sánh
10/37
17/37
10/37
Khi nắm được kết quả khảo sát, tôi đi sâu vào phân tích và tìm ra
nguyên nhân dẫn đến cái sai của các em.Thực ra các em không nhận biết được
biện pháp so sánh do nhiều nguyên nhân. Ở đây tôi chỉ đưa ra một số nguyên
nhân chủ yếu như sau:
• Năng lực tư duy yếu
• Các em không thích học môn Tiếng Việt, coi đây là môn học khó, có khi
còn rất sợ.
• Chưa nắm vững về từ chỉ sự vật nên khi tìm sự vật được so sánh hay sự
vật so sánh còn sai.
• Chưa phân biệt được sự vật được so sánh với sự vật so sánh.
• Chưa nắm vững cấu tạo của cách so sánh nên khi tìm hình ảnh so sánh
còn sai hoặc thiếu.
• Vốn từ của các em còn nghèo nàn cho nên các em gặp khó khăn trong khi
đặt câu có sử dụng hình ảnh so sánh
5
Từ thực tế học sinh lớp 3A4 năm học 2011 – 2012 với những nguyên
nhân, tôi đã tìm ra một số giải pháp sau:
3. Giải pháp
3. 1 Dạy đúng quy trình :
Để học sinh học tốt dạng bài so sánh . Bất cứ một bài tập nào, GV cần
hướng dẫn học sinh làm theo các yêu cầu sau:
- Đọc kỹ đề bài
- Xác định đúng yêu cầu của bài
- Phân tích yêu cầu của bài
- Học sinh làm bài
- So sánh đối chiếu kết quả của học sinh với đáp án ( HS phải lí giải được đáp án
của mình )
- GV chốt cho học sinh rõ vì sao có đáp án đó .
* Ví dụ : Bài tập 2 (Trang 8): Tìm sự vật được so sánh trong khổ thơ sau:
Ơ cái dấu hỏi
Trông ngộ ngộ nghê
Như vành tai nhỏ
Hỏi rồi lắng nghe
- Giáo viên yêu cầu HS đọc yêu cầu của đề
- Giải thích cho học sinh hiểu từ ngữ chỉ sự vật.
- HS gạch chân bằng bút chì từ chỉ sự vật vào SGK
- Học sinh trình bày ( Giáo viên có thể hỏi vì sao để học sinh giải thích lí do lại
sao em chọn từ đó )
- Giáo viên đưa ra đáp án
Sự vật được so sánh
Cái dấu hỏi
Từ so sánh
Sự vật so sánh
vành tai nhỏ
Như
+ Giáo viên có thể vẽ lên bảng hoặc giải thích cho học sinh hiểu Dấu hỏi cong
cong, nở rộng ở hai phía trên rồi nhỏ dần chẳng khác gì vành tai. (Giáo viên có
thể cho học sinh nhìn vào vành tai bạn).
* Chú ý : Phương pháp này có hiệu quả nhất là sử dụng khi tìm hiểu bài .
Sau khi tiến hành theo quy trình trên, tôi thấy các em đã một phần nào đó
nắm được kiến thức về so sánh.
3. 2. Dạy biện pháp so sánh tích hợp vào các môn học:
Song song với việc dạy đúng theo quy trình, tôi còn kết hợp dạy biện pháp so
sánh tích hợp vào các môn học. Cụ thể là:
6
1) Tích hợp trong môn Tiếng Việt :
Khi dạy các phân môn thuộc bộ môn Tiếng Việt , giáo viên cần lồng ghép
giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt với nhau.
Ví dụ 1: Khi dạy bài Tập đọc: "Hai bàn tay em" SGK Tiếng Việt 3 tập I (Trang
7). Trong bài này có rất nhiều hình ảnh tu từ so sánh giáo viên cần nhấn mạnh để
gây hứng thú cho tiết tiếp theo của môn: "Luyện từ và câu". Giáo viên có thể
cho học sinh tìm các câu thơ có sử dụng biện pháp so sánh .
Ví dụ 2 : Khi dạy bài Tập đọc “ Cửa Tùng ”, để giải thích từ ngữ (chiếc thau
đồng ,bờ biển Cửa Tùng) GV có thể cho học sinh tìm câu văn có sử dụng biện
pháp so sánh . Học sinh sẽ rất dễ dàng tìm ra câu :
- Mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển .
- Người xưa đã ví bờ biển Cửa Tùng giống như một chiếc lược đồi mồi
cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển.
Với những câu văn hay như thế, học sinh đã tìm được thì sẽ nhớ rất lâu và
sẽ áp dụng tốt trong việc viết văn của nình .
2) Tích hợp biện pháp so sánh qua các môn học khác :
a) Dạy Tự nhiên xã hội :
Khi dạy bài “ Các thế hệ trong gia đình’’ Giáo viên có thể cho học sinh
tìm những câu tục ngữ, ca dao, thành ngữ nói về tình cảm của những ngưòi thân
trong gia đình . Học sinh đại trà tìm tự do . Học sinh giỏi , giáo viên có thể yêu
cầu cao hơn( có sử dụng biện pháp so sánh )
- Anh em như thể tay chân
- Con hơn cha là nhà có phúc
- Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
b) Dạy Toán : Tích hợp biện pháp so sánh khi dạy Toán qua các dạng về nhiều
hơn , ít hơn , Điền dấu < , >, =., So sánh số lớn gấp mấy lần số bé ,Số bé bằng
một phần mấy số lớn …
Như vậy, sau khi thực hiện cách dạy biện pháp so sánh tích hợp vào các môn
học tôi thấy kiến thức của học sinh càng được củng cố, khắc sâu hơn.
3. 3 Dạy theo mô hình :
Bài tập về so sánh lớp 3 được chia làm 2 dạng:
-
-
Dạng 1: Bài tập theo mẫu(Bài tập nhận biết ). Trọng tâm
Dạng 2: Bài tập sáng tạo ( Bài tập vận dụng )
Nhằm giúp học sinh viết câu đúng câu hay, trong quá trình giảng dạy tôi đã
đưa ra một số bài tập để các em thực hành. Từ đó, các em sẽ nắm vững bài hơn.
Dưới đây là một số bài tập:
7
3. 3. 1 Dạng 1 :
Giúp học sinh nhận biết các từ chỉ sự vật so sánh . Dạng bài tập này rất đơn
giản. Chủ yếu là nhận biết các sự vật so sánh thông qua các bài tập . Dạng này
chiếm đa số trong chương trình . Nó được xây dựng dựa trên 4 mô hình sau:.
a) Mô hình 1: So sánh: Sự vật - Sự vật.
b) Mô hình 2: So sánh: Sự vật - Con người.
c) Mô hình 3: So sánh: Hoạt động - Hoạt động.
d) Mô hình 4: So sánh: Âm thanh - Âm thanh.
Muốn học sinh của mình có một kĩ năng nhận biết biện pháp so sánh vững
vàng đòi hỏi người giáo viên phải có nghệ thuật khi hướng dẫn bài mới . Dựa
vào các mô hình như ta vừa phân tích .
a) Mô hình 1: So sánh Sự vật - Sự vật:
Mô hình này cách nhận dạng rất dễ vì trong câu thường xuất hiện các từ so
sánh (như, là , giống , tựa, chẳng bằng ...)
Mô hình này có các dạng sau:
A như B.
A là B.
A chẳng bằng B
* Tìm hiểu dạng A như B
Dạng này đã xuất hiện ở các bài tập đầu tiên của chương trình và xuyên
suốt đến cuối chương.
* Ví dụ: Bài 2( SGK trang 8): Tìm sự vật được so sánh với nhau trong các câu thơ,
câu văn dưới đây:
"Hai bàn tay em
Như hoa đầu cành"
(Huy Cận)
"Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch"
(Vũ Tú Nam)
"Cánh diều như dấu á
Ai vừa tung lên trời"
(Phạm Như Hà)
Để làm tốt bài tập này, học sinh phải phát hiện các từ chỉ sự vật được so
sánh từ đó học sinh sẽ tìm được sự vật so sánh với nhau trong các câu thơ, câu
văn trên .
Có 2 phương án
8
Phương án 1: Gạch chân các từ chỉ sự vật so sánh trong các câu trên bằng bút
chì vào SGK
Phương án 2: Giáo viên phát phiếu học tập nhóm đôi. Các nhóm điền vào
phiếu
Câu
a)
Sự vật 1
Hai bàn tay
Mặt biển
Từ so sánh
Sự vật 2
hoa đầu cành
như
b)
Như
Như
tấm thảm khổng lồ
c)
Cánh diều
dấu “ á”
Học sinh trình bày :
+ "Hai bàn tay em" so sánh với "hoa đầu cành"
+ "Mặt biển" so sánh với "tấm thảm khổng lồ".
+ "Cánh diều" so sánh với "dấu á"
+ "Dấu hỏi" so sánh với "vành tai nhỏ".
Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao "Hai bàn tay em" được so sánh với
"Hoa đầu cành" hay vì sao nói "Mặt biển" như "tấm thảm khổng lồ"? Lúc đó
giáo viên phải hướng học sinh tìm xem các sự vật so sánh này đều có điểm nào
giống nhau, chẳng hạn:
+ Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa.
+ Mặt biển và tấm thảm đều phẳng, êm và đẹp.
+ Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á.
(Giáo viên có thể vẽ lên bảng "Cánh diều" và "Dấu á")
* Tìm hiểu dạng A là B:
Dạng này học sinh rất dễ nhầm lẫn giữa câu so sánh với câu giới thiệu . Bởi lẽ,
cả 2 kiểu câu này đều có từ “ là ”
Ví dụ :(Bài 1c, d trang 24,25): Tìm các hình ảnh so sánh trong câu :
- Mùa đông
Trời là cái tủ ướp lạnh
Mùa hè
Trời là cái bếp lò nung
- Những đêm trăng sáng , dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng .
Trong trường hợp này, cần phải cho học sinh xác định từ chỉ sự vật trong
câu thơ : ( trời mùa đông – tủ ướp lạnh ), ( trời mùa hè – bếp lò nung)
Giáo viên giải thích cho học sinh điểm tương đồng giữa các từ chỉ sự vật được
so sánh .
9
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Giúp học sinh nắm vững biện pháp so sánh trong Luyện từ và câu lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
skkn_giup_hoc_sinh_nam_vung_bien_phap_so_sanh_trong_luyen_tu.doc