SKKN Giải pháp nâng cao chất lượng dạy học phân hóa môn Toán lớp 4 ở Tiểu học

Sự giống và khác nhau về yêu cầu xã hội, về trình độ phát triển nhân cách của mỗi cá thể học sinh đòi hỏi một quá trình dạy học thống nhất với những biện pháp phân hóa nội tại.
Gi¶i ph¸p n©ng cao chÊt l-îng d¹y häc ph©n hãa m«n To¸n lớp 4 ë TiÓu häc  
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ  
1. Lý do chọn đề tài  
1.1 Xuất phát từ vai trò của môn Toán ở tiểu học  
Ở tiểu học, môn Toán là môn học góp phần đắc lực vào việc giáo dục toàn  
diện cho học sinh. Kiến thức, kĩ năng của môn toán có nhiều ứng dụng trong đời  
sống, chúng rất cần thiết cho người lao động, cần thiết để học tập các môn học  
khác ở tiểu học học tập tiếp môn toán trung học. Môn Toán góp phần rất  
quan trọng trọng việc rèn luyện tư duy, phương pháp suy nghĩ, giải quyết vấn đề.  
Nó góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo,  
hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao động như cần cù,  
cẩn thận có ý chí vượt khó khăn, làm việc khoa học, nề nếp.  
Toán học tầm quan trọng rất lớn trong đời sống và trong các ngành khoa  
học khác. Tất cả các môn khoa học đều nghiên cứu dựa trên nền tảng của toán  
học. "Một khoa học chỉ thực sự phát triển nếu nó có thể sử dụng được phương  
pháp của toán học" đó lời tiên đoán của Mác đã được chứng minh bằng sự phát  
triển của khoa học kỹ thuật ngày nay.  
Như lời cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Trong khoa học kĩ thuật,  
toán học giữ vị trí nổi bật hàng đầu. Nó có tác dụng đối với nhiều ngành khoa học,  
trong sản xuất và trong chiến đấu.. Nó là môn thể thao trí tuệ, giúp ta rèn luyện  
phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập, phương pháp suy luận, giải quyết  
vấn đề và giúp rèn luyện trí thông minh, sáng tạo, trau dối tính cần nhẫn nại, tự  
lực cánh sinh, tinh thần vượt khó, yêu thích chính xác, ham chuộng chân lí. Dù  
các bạn phục vụ trong ngành nào, trong công tác nào thì các kiến thức phương  
pháp toán học cũng đều cần thiết cho bạn”.  
Từ chỗ nhận thức được vị trí, vai trò vô cùng quan trọng của môn Toán ở  
Tiểu học nên việc nâng cao chất lượng dạy học môn Toán là điều quan tâm,  
trăn trở của nhiều giáo viên, nhiều nhà trường hiện nay. Với ý nghĩa đảm bảo cho  
việc thực hiện tốt các mục đích dạy học đối với tất cả học sinh đồng thời khuyến  
khích phát triển tối đa tối ưu những khả năng của cá nhân trong quá trình học  
tập, nâng cao chất lượng dạy học phân hóa là yêu cầu cấp thiết trong việc đổi mới  
phương pháp dạy học.  
Đây là lí do cho thấy sự cần thiết phải đổi mới phương pháp và nâng cao  
chất lượng dạy học môn Toán ở tiểu học.  
1
Gi¶i ph¸p n©ng cao chÊt l-îng d¹y häc ph©n hãa m«n To¸n lớp 4 ë TiÓu häc  
1.2. Xuất phát từ yêu cầu của việc dạy học phân hóa  
Sự giống và khác nhau về yêu cầu hội, về trình độ phát triển nhân cách  
của mỗi thể học sinh đòi hỏi một quá trình dạy học thống nhất với những biện  
pháp phân hóa nội tại. Nhiệm vụ của giáo viên là phải nghiên cứu tìm hiểu những  
mặt mạnh yếu trong năng lực, trình độ phát triển của học sinh để biện pháp  
cụ thể tác động đến đối tượng, giúp cho tất cả học sinh đều tiếp thu được những  
kiến thức kỹ năng tối thiểu, đưa diện học sinh chưa hoàn thành lên trình độ  
chung, học sinh hoàn thành tốt đạt được những yêu cầu nâng cao. Sự phân hóa  
cần được các giáo viên thực hiện ngay trong các tiết học chính khóa, các tiết tăng  
buổi, qua việc nêu câu hỏi, ra bài tập hay khi tiến hành các bài kiểm tra,...  
Đây là lí do thứ hai cho thấy giáo viên cần sử dụng những biện pháp phân  
hóa trong dạy học môn Toán ở tiểu học.  
1.3. Xuất phát từ thực trạng dạy học phân hóa hiện nay  
Thực tế cho thấy, các em học sinh trong cùng một khối lớp bao giờ cũng có  
ít nhất các trình độ học tập khác nhau là: hoàn thành tốt, hoàn thành và chưa hoàn  
thành. Yêu cầu đặt ra với mỗi giáo viên là phải tiến hành dạy học phù hợp với  
trình độ của các đối tượng học sinh. Tuy nhiên, hiện nay, trình độ đào tạo năng  
lực sư phạm của đội ngũ giáo viên chưa đồng đều, chưa nhiều giáo viên thực  
sự năng lực và kinh nghiệm trong việc dạy học phân hóa. Việc hiểu tiến  
hành dạy phân hóa đối tượng của các giáo viên chưa đồng nhất. Hầu hết giáo viên  
mới chỉ chú ý sao cho học sinh giải được các bài toán cụ thể trong sách giáo khoa  
chứ chưa chủ động trong việc tiến hành thiết kế phân bậc các bài tập trên cơ sở  
các bài tập sẵn có trong sách giáo khoa hay các tài liệu.  
Đây là lí do thứ ba cho thấy các nhà giáo tâm huyết phải trang bị cho mình  
nghiệp vụ sư phạm cần thiết để tiến hành dạy học phân hóa môn Toán một cách  
phù hợp hiệu quả. Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn và nghiên cứu đề tài:  
“Giải pháp nâng cao chất lượng dạy học phân hóa môn Toán lớp 4 ở Tiểu  
học ”.  
2. Thời gian, đối tượng, phạm vi nghiên cứu ứng dụng  
2.1. Thời gian: Từ tháng 9 đến tháng 3 năm học 2018 - 2019  
2.2. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 4B  
2.3: Phạm vi nghiên cứu: Một số giải pháp để nâng cao chất lượng dạy học  
phân hóa môn Toán lớp 4 ở Tiểu học.  
2.4. Ứng dụng: Dạy môn Toán cho học sinh lớp 4  
2
Gi¶i ph¸p n©ng cao chÊt l-îng d¹y häc ph©n hãa m«n To¸n lớp 4 ë TiÓu häc  
3. Kết quả khảo sát đầu năm như sau:  
Sau khi nhận lớp 4B, tôi đã tiến hành dự giờ đồng nghiệp dạy cùng khối,  
trong các tiết dạy giáo viên chưa chú trọng đến việc dạy phân hóa đối tượng học  
sinh trong môn Toán.  
Tôi đã tiến hành khảo sát và chất lượng như sau:  
Lớp Sĩ số ĐẠT YÊU CẦU  
HTT  
SL  
10 16,4 45 73,8  
HT  
CHT  
SL  
55  
%
%
SL  
%
SL  
%
4B  
61  
90,2  
6
9,8  
Qua bảng khảo sát trên, tôi thấy học sinh đạt hoàn thành tốt chưa cao. Vẫn  
còn học sinh đạt chưa hoàn thành.  
3
Gi¶i ph¸p n©ng cao chÊt l-îng d¹y häc ph©n hãa m«n To¸n lớp 4 ë TiÓu häc  
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ  
I. Cơ sở luận  
Nhu cầu của hội đối với việc đào tạo nguồn nhân lực vừa những điểm  
giống nhau về nhân cách người lao động trong cùng một hội, lại vừa sự  
khác nhau về trình độ phát triển, về khuynh hướng và tài năng. Học sinh trong  
cùng độ tuổi vừa sự giống nhau, lại vừa sự khác nhau về khả năng tư duy,  
nhân cách và hoàn cảnh gia đình, khả năng kinh tế, nhận thức của cha mẹ về giáo  
dục,... Chính vì sự giống nhau mà ta có thể dạy học trong một lớp thống nhất.  
Nhưng sự khác nhau trong phát triển nhân cách của mỗi học sinh đòi hỏi người  
giáo viên phải biện pháp phân hóa nội tại trong quá trình dạy học. Sự hiểu biết  
của giáo viên về đặc điểm tâm lý, trình độ nhận thức của từng học sinh là một  
điều kiện thiết yếu đảm bảo hiệu quả dạy học phân hóa. Dạy học phân hóa cần  
được xây dựng thành một kế hoạch lâu dài, có hệ thống, mục đích.  
Yêu cầu đặt ra với giáo viên là trong cùng một lớp học, trong cùng khoảng  
thời gian, với các đối tượng khác nhau phải đảm bảo thống nhất một chương trình  
kế hoạch dạy học. Bởi vậy, ngoài kế hoạch dạy học thông thường, giáo viên  
cần xây dựng kế hoạch dạy học phân bậc trình độ học sinh nhằm đưa học sinh  
chưa hoàn thành đạt chuẩn và giúp các đối tượng hoàn thành tốt phát triển ở mức  
cao hơn.  
II. Cơ sở thực tiễn  
Năm học 2018-2019, tôi được phân công giảng dạy lớp 4B. Ngay từ đầu  
năm học, khi chưa thực hiện đề tài, tôi đã tiến hành nhận bàn giao kết quả năm  
học trước của lớp 3B để so sánh, đối chiếu kết quả trước quả sau khi thực hiện  
đề tài. Tiếp theo, tôi đã tiến hành điều tra, trao đổi với các giáo viên trực tiếp  
giảng dạy lớp 4 và tổng hợp được một số thuận lợi, khó khăn khi tiến hành dạy  
học phân hóa môn Toán hiện nay như sau:  
Thuận lợi  
Cơ sở vật chất, trang thiết bị của các trường hiện nay đang được tăng cường  
đầu tư và xây dựng, đảm bảo cho việc tổ chức dạy học 2 buổi/ngày. Nhiều trường  
đủ phòng học để triển khai dạy học phân hóa đối tượng ở buổi hai.  
Đội ngũ giáo viên các nhà trường hầu hết đã đủ về số lượng, mạnh dần về  
chất lượng, đồng bộ về cơ cấu và có đủ giáo viên chuyên nên dễ dàng trong việc  
phân công chuyên môn cho giáo viên. Ở hầu hết các trường, giáo viên chủ nhiệm  
các khối lớp được phân công dạy Toán, Tiếng Việt ở các tiết chính khóa và các  
4
Gi¶i ph¸p n©ng cao chÊt l-îng d¹y häc ph©n hãa m«n To¸n lớp 4 ë TiÓu häc  
tiết tăng ở buổi hai nên đảm bảo sự chuyên sâu và dễ dàng theo dõi, đánh giá quá  
trình học tập của các em.  
Một số phụ huynh quan tâm đến việc học tập của con mình. Nhắc nhở,  
động viên con học tâm, mua thêm tài liệu tham khảo phối hợp cùng với giáo  
viên để các con ngoài việc nắm chắc kiến thức cơ bản mà còn có thể làm một số  
bài tập nâng cao hơn.  
Theo sự chỉ đạo của ngành, các trường đã tích cực quan tâm chỉ đạo dạy  
học phân hóa các đối tượng học sinh. Ngay sau khảo sát chất lượng đầu năm, giáo  
viên các khối lớp tiến hành phân loại các đối tượng học sinh. Dựa vào khả năng  
của từng em, giáo viên đề ra biện pháp và xây dựng kế hoạch dạy học phù hợp.  
Việc tiến hành dạy học phân hóa được thể hiện từ khâu soạn giáo án đến việc tổ  
chức dạy học trên lớp. Giáo viên đã tiến hành phân học sinh thành các nhóm đối  
tượng hoàn thành tốt, hoàn thành và chưa hoàn thành và xây dựng kế hoạch, nội  
dung dạy học riêng cho từng nhóm đối tượng học sinh.  
Khó khăn  
Trong cùng một thời gian ngắn, giáo viên phải dạy cùng một lúc ít nhất ba  
trình độ:nhận thức nhanh (HS có năng khiếu), nhận thức khá, nhận thức trung  
bình và nhận thức chậm. Bởi vậy, giáo viên thường lúng túng về nghiệp vụ sư  
phạm, lúng túng trong việc lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức. Một số câu  
hỏi đặt ra với nhiều giáo viên hiện nay, đó là:  
Thực hiện dạy học phân hóa cần tiến hành ở những khâu nào? Phân hóa  
vào lúc nào? Nội dung nào có thể phân hóa? Làm thế nào để phân hóa đạt hiệu  
quả?  
Đặc biệt, đối với môn Toán, giáo viên gặp nhiều khó khăn trong việc nêu  
yêu cầu và ra bài tập cho phù hợp tất cả các đối tượng học sinh.  
Khi dự giờ, phần lớn các tiết dạy đều “bị” đánh giá hạn chế về dạy học  
phân hóa các đối tượng học sinh. Ví dụ như: Tiết dạy chưa phát huy hết tính tích  
cực của học sinh có nhận thức nhanh và nhận thức khá. Giáo viên chưa thực sự  
mạnh dạn sự sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động; Nội dung câu hỏi, yêu  
cầu, bài tập đưa ra còn trung thành với sách giáo khoa, chưa thực sự phù hợp với  
các đối tượng học sinh.  
Học sinh nhận thức chậm (chưa hoàn thành) thường mất tự tin hoặc lo lắng  
trước những câu hỏi, yêu cầu, bài tập chung giáo viên đưa ra cho cả lớp. Các em  
nhận thức nhanh (hoàn thành tốt) thường không cần suy nghĩ cũng dễ dàng trả lời  
các câu hỏi và hoàn thành các bài tập. Bởi vậy, tiết học toán chưa thực sự hấp dẫn  
5
Gi¶i ph¸p n©ng cao chÊt l-îng d¹y häc ph©n hãa m«n To¸n lớp 4 ë TiÓu häc  
các em.  
III. CÁC BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH  
Bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho đối tượng học sinh hoàn thành tốt,trang  
bị kiến thức cơ bản cho học sinh hoàn thành và bồi dưỡng lấp chỗ hổng cho học  
sinh chưa hoàn thành là nhiệm vụ đặt ra đối với mỗi giáo viên trong dạy học toán  
hiện nay. Để dạy học phân hóa môn Toán đạt hiệu quả, người giáo viên cần trang  
bị cho mình những biện pháp nghiệp vụ sư phạm cần thiết tiến hành phân bậc  
trình độ học sinh thông qua các hoạt động. Cụ thể như sau:  
1. Đánh giá, phân loại các đối tượng học sinh  
Thực tế dạy học, giáo viên thường theo dõi, tìm hiểu, kiểm tra để phân loại  
học sinh trong lớp và chia học sinh làm 3 nhóm đối tượng khác nhau: Nhóm có  
nhịp độ nhận thức nhanh (hoàn thành tốt), nhóm có nhịp độ nhận thức chậm (chưa  
hoàn thành), và nhóm có nhịp độ nhận thức trung bình (hoàn thành). Qua đó, đề ra  
những yêu cầu khác nhau đối với từng loại: mức độ khó, dễ trong các câu hỏi đàm  
thoại, mức độ yêu cầu đối với phương pháp học tập được nghiên cứu, số lượng và  
yêu cầu của các bài tập làm ở lớp. Tuy nhiên, dạy học phân hóa chỉ thể đạt hiệu  
quả khi giáo viên phân loại chính xác các nhóm đối tượng học sinh. Do đó, giáo  
viên phải thực sự thận trọng khi đưa ra kết luận một học sinh nào đó thuộc nhóm  
trình độ nào để xây dựng thực hiện các biện pháp phù hợp. Để việc đánh giá,  
phân loại được chính xác, khách quan, giáo viên cần kết hợp nhiều hình thức kiểm  
tra để đánh giá, chẩn đoán, phân loại đối tượng học sinh theo trình độ. Cụ thlà:  
+ Kết hợp kiểm tra định kỳ, kiểm tra thường xuyên và quan sát lớp học  
(đây là hình thức phân loại mang tính phổ biến được nhiều giáo viên, nhiều nhà  
trường áp dụng hiện nay).  
+ Kết hợp kiểm tra độ khó và độ nhanh, tăng cường cho học sinh tự đánh  
giá. Hiện nay, các giáo viên thường chỉ thiết kế đề kiểm tra theo độ khó. Để có  
thể phân loại sâu hơn, giáo viên có thể thiết kế đề kiểm tra kết hợp độ khó và độ  
nhanh, tức tăng số lượng bài tập trong mỗi lần kiểm tra, kết quả đánh giá có thể  
không theo thang điểm 10 mà là giáo viên ghi nhận trong cùng một khoảng thời  
gian đó, học sinh làm đúng được bao nhiêu bài. Cách làm này khuyến khích học  
sinh phát huy hết khả năng của mình đồng thời thể tự đánh giá khả năng của  
mình so với các bạn.  
+ Phân loại dựa vào những biểu hiện cụ thể của từng đối tượng học sinh.  
Đối với học sinh chưa hoàn thành thường những biểu hiện: nhiều "lỗ hổng" về  
tri thức, kỹ năng, không nắm được kiến thức kỹ năng cơ bản, tiếp thu chậm,  
phương pháp học tập toán chưa tốt, những sai lầm nghiêm trọng, kết quả kiểm  
6
Gi¶i ph¸p n©ng cao chÊt l-îng d¹y häc ph©n hãa m«n To¸n lớp 4 ë TiÓu häc  
tra thường dưới mức trung bình,... Đối với học sinh hoàn thành tốt năng lực  
học tập toán thường có xu hướng thích giải nhiều bài toán, thích giải các bài toán  
khó, các bài toán đòi hỏi tư duy sáng tạo (là điều rất tốt), nhưng các em lại coi nhẹ  
việc học thuyết, coi nhẹ các bài toán thông thường. Do chủ quan, các em  
thường tính sai, nhầm lẫn bị mất điểm ở các bài toán đơn giản.  
Biện pháp điều tra, phát hiện và phân loại đối tượng học sinh về khả năng  
lĩnh hội kiến thức và trình độ phát triển thông qua quan sát, kiểm tra, tìm hiểu …  
không chỉ được tiến hành ngay trong những tuần đầu năm học cần được tiến  
hành trong suốt quá trình dạy học. Giáo viên phải thường xuyên theo dõi điều  
chỉnh lại nhân sự nhóm, chuyển lên nhóm trên hoặc xuống nhóm dưới nếu có  
thành viên nào trong nhóm tỏ ra tiến bộ hay thụt lùi. Tuy nhiên, để đảm bảo mục  
đích hiệu quả sư phạm, thể tùy thuộc vào đặc điểm số lượng học sinh  
trong lớp mà có thể phân thành nhiều nhóm (chẳng hạn phân thành 9 nhóm: 2  
nhóm hoàn thành tốt, 5 nhóm hoàn thành , 2 nhóm chưa hoàn thành) vừa khơi gợi  
niềm tin ở khả năng mỗi cá nhân, tránh mặc cảm, tự ti, vừa tạo nhu cầu thi đua  
học tập giữa cá nhân.  
2. Biện pháp giáo dục phù hợp với từng đối tượng  
2.1. Đối với học sinh chưa hoàn thành:  
Giáo viên cần tìm ra nguyên nhân học kém toán của từng em. Trường hợp  
học sinh kém học do năng lực toán yếu, giáo viên cần tập trung vào những nội  
dung sau:  
+ Đảm bảo trình độ xuất phát của học sinh: Trang bị cho các em những  
kiến thức kĩ năng cơ bản để đảm bảo trình độ xuất phát trong những tiết học trên  
lớp.  
+ Lấp lỗ hổng về kiến thức kỹ năng: Đây một điểm yếu rõ nét và phổ  
biến của học sinh chưa hoàn thành. Thông qua những tiết hình thành kiến thức  
mới, các tiết luyện tập hay các tiết tăng ở buổi hai, giáo viên cần lặp đi lặp lại nội  
dung kiểm tra về thuyết và giao các bài tập ở mảng kiến thức bị hổng. Đặc biệt,  
giáo viên nên tập cho học sinh có ý thức phát hiện ra lỗ hổng kiến thức của mình  
tăng cường luyện tập để lấp lỗ hổng đó.  
+ Luyện những bài tập vừa sức: Do tính vững chắc của kiến thức cần được  
coi trọng, người giáo viên cần dành thì giờ để học sinh tăng cường luyện tập  
những bài tập vừa sức mình.  
dụ: Dạy bài: Luyện tập (SGK lớp 4 trang 148)  
Khi dạy bài này giáo viên cho học sinh này làm bài tập 1để đảm bảo tính  
vừa sức cho học sinh.  
+ Hướng dẫn kĩ năng hiểu đề bài: Giáo viên cần rèn cho các em thói quen  
7
Gi¶i ph¸p n©ng cao chÊt l-îng d¹y häc ph©n hãa m«n To¸n lớp 4 ë TiÓu häc  
đọc kỹ đầu bài để xác định yếu tố đã cho, yếu tố cần tìm và xác định đúng dạng  
toán. Đồng thời nhắc các em cần làm nháp trước để đảm bảo độ chính xác về kết  
quả.  
dụ: Hiệu của hai số là 85. Tỉ số của hai số đó là 3/8.Tìm hai số đó.  
Giáo viên hướng dẫn học sinh: Đọc kĩ yêu cầu của bài (3 lần) và khi đọc  
cần trả lời câu hỏi sau:  
- Bài cho biết gi? (hiệu của hai số, tỉ số của hai số)  
- Bài yêu cầu tìm gì?(tìm hai số đó số lớn số bé)  
- Bài này thuộc dạng toán nào?(hiệu tỉ)  
- Nhắc lại các bước làm.  
+ Tăng số lượng bài tập cùng thể loại vừa mức độ ở từng dạng toán để  
các em hiểu sâu và nhớ lâu kiến thức.  
+ Động viên, khích lệ thường xuyên và kịp thời: Giáo viên cần chú ý lắng  
nghe ý kiến của học sinh chưa hoàn thành với thái độ chăm chú và tôn trọng.  
Đồng thời, giáo viên cần chú ý tạo cơ hội cho những học sinh yếu được “tỏa  
sáng” và đánh giá cao khi các em có ý kiến hay. Chính sự động viên, khích lệ của  
giáo viên sẽ nguồn động lực lớn thúc đẩy sự tiến bộ của các em.  
Trường hợp học sinh chưa hoàn thành toán vì những nguyên nhân khác (gia  
đình khó khăn, không có điều kiện thời gian học tập, vướng mắc về tư tưởng  
nên chưa tập trung,...), giáo viên cần biện pháp giáo dục, giúp đỡ như: xây  
dựng lòng tự tin ở bản thân, thường xuyên theo dõi, động viên kịp thời, tranh thủ  
sự quan tâm của gia đình, nhà trường và các đoàn thể.  
2.2. Đối với học sinh có năng lực học tập toán:  
Giáo viên cần triệt để vận dụng các phương pháp tích cực để học sinh độc  
lập suy nghĩ, phát huy tính sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề. Chú trọng rèn  
luyện kĩ năng mạnh dạn , biết nêu câu hỏi thắc mắc về bài học, biết tạo ra cái cho  
riêng mình, không phụ thuộc vào bài mẫu. Luôn tạo cơ hội để kích thích học sinh  
phán đoán, trao đổi. Điều quan trọng hướng dẫn học sinh phương pháp học.  
+ Trong giải toán, các em cần kĩ năng hiểu bài toán, xác định dạng toán,  
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách phân tích bài toán, xác định cái đã cho và  
cái cần tìm, đặc biệt phải sử dụng hết dữ liệu trong bài toán.  
+ cùng một dạng toán, học sinh phải giải được số lượng bài tập nhiều  
hơn. Giáo viên cần yêu cầu học sinh trình bày trước lớp, giải thích cách làm hoặc  
nêu cách giải khác (nếu có). Sau đó, giáo viên mở rộng dạng toán, ra bài tập có  
mức độ nâng cao hơn.  
8
Gi¶i ph¸p n©ng cao chÊt l-îng d¹y häc ph©n hãa m«n To¸n lớp 4 ë TiÓu häc  
dụ: Khi dạy bài: Nhân với số có ba chữ số (SGK trang 74)  
Bài 4: Nhà trường dự định lắp bóng điện cho 32 phòng học, mỗi phòng học 8  
bóng. Nếu mỗi bóng điện giá 50000 đồng thì nhà trường phải trả bao nhiêu tiền để  
mua đủ số bóng điện lắp cho các phòng.  
Với bài này giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng trình bày cách giải giải  
thích cách làm, nêu cách giải khác.  
Chẳng hạn:  
Cách 1:  
Số bóng điện lắp đcho 32 phòng là:  
8 x 32 = 256(bóng)  
Số tiền mua bóng điện để lắp đủ cho 32 phòng học là:  
50000 x 256 = 12 800 000(đồng)  
Đáp số: 12 800 000 đồng  
Cách 2:  
Số tiền mua bóng điện để lắp đủ cho mỗi phòng học là:  
50000 x 8 = 400 000(đồng)  
Số tiền mua bóng điện để lắp đủ cho 32 phòng học là:  
400000 x 32 = 12 800 000 (đồng)  
Đáp số: 12 800 000 đồng  
+ Khi giải bài tập, các em cần chú trọng kĩ năng trình bày. Giáo viên cần rèn  
cho các em tính kiên trì, tỉ mỉ, cẩn thận đặc biệt coi trọng kết quả của bài toán.  
+ Ngoài việc học trên lớp, các em cần có thói quen tự học, tự nghiên cứu.  
Giáo viên định hướng cho các em thể sử dụng nhiều loại sách phục vụ cho môn  
học như: Toán nâng cao, Tuyển chọn các dạng toán điển hình, Luyện giải toán,...  
2.3. Với học sinh hoàn thành:  
Hoạt động học giải toán của học sinh đối tượng hoàn thành cơ bản diễn  
ra theo trình tự: quan sát, tiếp thu kiến thức; làm bài có sự hướng dẫn; tự làm theo  
mẫu; độc lập làm bài. Để giúp đối tượng học sinh hoàn thành nắm thật chắc kiến  
thức cơ bản, làm đầy đủ đạt yêu cầu các bài tập sách giáo khoa với sự gợi ý ở  
mức độ hạn chế của giáo viên, có thể tiếp thu phần nào kiến thức nâng cao của  
học sinh hoàn thành tốt, giáo viên cần tiến hành theo 4 bước như sau:  
+ Quan sát, tiếp thu: Đây bước giúp học sinh nắm kiến thức cơ bản, tối  
thiểu, cần thiết. Giáo viên cần kết hợp vừa giảng vừa luyện, phân tích chi tiết, cụ  
thể, giúp học sinh hiểu khái niệm không hình thức. Đồng thời củng cố khắc sâu  
thông qua ví dụ, chú ý phân tích các sai lầm thường gặp.  
+ Làm theo hướng dẫn: Giáo viên cho ví dụ tương tự. Học sinh bước đầu  
vận dụng hiểu biết của mình vào giải toán. Do chưa thuộc, chưa hiểu sâu nên có  
9
Gi¶i ph¸p n©ng cao chÊt l-îng d¹y häc ph©n hãa m«n To¸n lớp 4 ë TiÓu häc  
thể học sinh sẽ gặp khó khăn cần đến sự hướng dẫn của giáo viên.  
+ Tự làm theo mẫu: Giáo viên ra một bài tập khác, học sinh tự làm theo  
mẫu. Giáo viên tạm đứng ngoài cuộc để học sinh độc lập thao tác. Học sinh nào  
hiểu bài thì có thể hoàn thành được bài tập, học sinh nào chưa hiểu bài sẽ còn lúng  
túng. Giáo viên theo dõi, nắm bắt kịp thời giúp đỡ cho từng đối tượng.  
+ Độc lập làm bài tập: Giáo viên ra cho học sinh một bài tập tương tự khác  
để học sinh làm nhằm củng cố kiến thức và rèn luyện kĩ năng cho các em.  
3. Tiến hành phân hóa ngay trên lớp học  
Tiến hành dạy học phân hóa trong các giờ học chính khóa hay các tiết tăng  
ở buổi hai, giáo viên cần chú trọng tổ chức các pha dạy học đồng loạt ngay trong  
những giờ lên lớp sao cho tất cả học sinh đều tích cực, tự giác và hứng thú học  
tập. Giáo viên cần xây dựng các câu hỏi có tác dụng dẫn dắt, khuyến khích học  
sinh tích cực suy luận, không đơn điệu, phân hóa song vẫn tác động đến nhiều đối  
tượng với tác dụng khác nhau. Trong các giờ học trên lớp, giáo viên có thể sử  
dụng một số biện pháp phân hóa như sau:  
3.1. Phân loại các bài tập ra làm 3 dạng theo mức độ từ dễ đến khó:  
Dạng 1: Các bài tập rèn luyện các thao tác duy cơ bản. Chẳng hạn các  
bài tập dạng cơ bản như đọc số, viết số, so sánh số, tính toán thuần túy trong bảng  
hoặc ngoài bảng, đếm shình, đổi đơn vị đo, giải bài toán đơn,...)  
dụ: Đọc số 195080126 (Toán 4, tr.160, bài 3)  
Học sinh đọc “Một trăm chín mươi lăm triệu không trăm tám mươi nghìn  
một trăm hai mươi sáu”.  
Giáo viên hỏi: Để đọc được số này, em thực hiện phân lớp như thế nào? (  
phân lớp đơn vị, lớp nghìn, lớp triệu.  
Chữ số 9 trong số trên có giá trị là bao nhiêu? (90000000), chữ số 8 trong  
số trên có giá trị bao nhiêu? (80000)...  
Dạng 2: Các bài tập ưu thế trong việc rèn luyện và phát triển tư duy  
như các kỹ năng trình bày, diễn đạt, suy luận logic,.... Chẳng hạn các dạng toán “  
Tìm số thỏa mãn điều kiện cho trước, các bài toán có lời văn điển hình, các bài  
toán có nội dung hình học gắn liền thực tiễn, bài toán suy luận đơn giản,...  
Với dạng toán này, khi tổ chức thực hiện, giáo viên cần yêu cầu học sinh  
trình bày những lập luận logic để giải bài toán.  
dụ: Tìm x biết 57 < x < 62 và a) x là số chẵn; b) x là số lẻ; c) x là số tròn  
chục.  
Sau khi học sinh thực hiện câu a) với kết quả là 58, 60. giáo viên có thể đặt  
câu hỏi Vì sao x không thể là 59 và 61 ? (vì x phải số chẵn) Hoặc x cần tìm  
10  
Gi¶i ph¸p n©ng cao chÊt l-îng d¹y häc ph©n hãa m«n To¸n lớp 4 ë TiÓu häc  
thỏa mãn mấy điều kiện? Đó những điều kiện nào?  
Dạng 3: Một số bài tập ưu thế trong việc rèn luyện tư duy phê phán, tư  
duy sáng tạo,... Chẳng hạn như dạng toán phát hiện lỗi sai và chữa lại cho đúng,  
tính nhanh, giải bài toán bằng nhiều cách, bài toán mở , ...)  
7
dụ: Tuổi mẹ tuổi con cộng lại được 56. Hai năm nữa, tuổi mẹ sẽ bằng  
3
tuổi con. Tính tuổi mỗi người hiện nay.  
Hướng dẫn giải:  
- 2 năm nữa, mỗi người tăng thêm mấy tuổi? (2 tuổi)  
- Cả 2 mẹ con tăng thêm mấy tuổi? (2 + 2 = 4)  
- Lúc đó tổng số tuổi của 2 mẹ con là bao nhiêu? ( 56 + 4 = 60 (tuổi))  
- Vẽ sơ đồ biểu thị tuổi của hai mẹ con 2 năm nữa (tuổi mẹ 7 phần, tuổi con 3  
phần)  
- Giải theo các bước đã học  
Bài giải  
2 năm nữa, mỗi người tăng thêm 2 tuổi nên tổng số tuổi của 2 mẹ con sẽ tăng  
thêm là:  
2 + 2 = 4 (tuổi) .  
Vậy lúc đó tổng số tuổi của 2 mẹ con là :  
56 + 4 = 60 (tuổi)  
Ta có sơ đồ tuổi của 2 mẹ con 2 năm nữa:  
? tuổi  
Mẹ:  
60 tuæi  
Con:  
? tuổi  
Theo sơ đồ, tổng số phần bằng nhau là:  
7 + 3 = 10 (phần)  
Tuổi con 2 năm nữa là: 60 : 10 x 3 = 18 (tuổi)  
Tuổi con hiện nay là: 18 – 2 = 16 (tuổi)  
Tuổi mẹ hiện nay là: 56 – 16 = 40 (tuổi)  
Đáp số: Con : 16 tuổi  
Mẹ : 40 tuổi  
11  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 21 trang minhvan 15/04/2025 350
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Giải pháp nâng cao chất lượng dạy học phân hóa môn Toán lớp 4 ở Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_giai_phap_nang_cao_chat_luong_day_hoc_phan_hoa_mon_toan.doc