SKKN Chữa lỗi dùng từ trong dạy học làm văn ở trung học phổ thông

Chúng ta đã biết ngôn ngữ là cái vỏ vật chất để tư duy. Không có hình thức tư duy nào lại không thông qua ngôn ngữ. Trong ngôn ngữ, từ lại là đơn vị cơ bản nhất, là bộ phận cấu thành của ngôn ngữ. Giữa từ và các đơn vị khác có mối quan hệ qua lại lẫn nhau. Chỉ đơn giản nhất, trong tư duy hay trong giao tiếp muốn tạo lập một phát ngôn thì người sử dụng ngôn ngữ phải kết hợp các từ thành câu để thực hiện chức năng biểu đạt hay thông báo. Cho nên có thể nói rằng việc hiểu từ, dùng từ chính xác là điều kiện quyết định hiệu quả của giao tiếp và tư duy.
SỞ GD-ĐT QUẢNG TRỊ  
TRƯỜNG THPT HƯỚNG HÓA  
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM  
CHỮA LỖI DÙNG TỪ TRONG DẠY HỌC LÀM VĂN  
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG  
Lĩnh vực: Ngữ văn  
Tên tác giả: Lâm Thị Thủy  
Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn Ngữ văn  
Đơn vị công tác: Trường THPT Hướng Hóa  
NĂM HỌC 2018 – 2019  
MỤC LỤC  
Trang  
1
Tiêu đề  
MỤC LỤC  
PHẦN MỞ ĐẦU  
2
A. Lí do chọn đề tài  
2
B. Mục đích nghiên cứu  
C. Đối tượng nghiên cứu  
3
3
D. Phương pháp nghiên cứu  
3
E. Phạm vi và kế hoạch thực hiện  
3
PHẦN NỘI DUNG  
4
A. THỰC TRẠNG VỀ LỖI DÙNG TỪ CỦA HỌC SINH THPT  
I. Khái niệm về lỗi dùng từ của học sinh  
4
4
II. Khảo sát lỗi dùng từ của học sinh  
4
B. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỮA LỖI DÙNG TỪ TRONG DẠY  
HỌC LÀM VĂN  
10  
10  
14  
17  
17  
17  
18  
I. Xây dựng hệ thống bài tập khắc phục ngăn ngừa lỗi dùng từ  
II. Chữa lỗi dùng từ trong dạy học làm văn  
C. Kết quả thực hiện  
I. Đo lường và thu thập dữ liệu  
II. Phân tích dữ liệu thảo luận kết quả  
PHẦN KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ  
PHẦN PHỤ LỤC  
20  
26  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
PHẦN MỞ ĐẦU  
1
A. Lí do chọn đề tài  
I. Cơ sở luận:  
Chúng ta đã biết ngôn ngữ là cái vỏ vật chất để tư duy. Không có hình thức  
duy nào lại không thông qua ngôn ngữ. Trong ngôn ngữ, từ lại đơn vị cơ bản  
nhất, bộ phận cấu thành của ngôn ngữ. Giữa từ và các đơn vị khác có mối quan  
hệ qua lại lẫn nhau. Chỉ đơn giản nhất, trong duy hay trong giao tiếp muốn tạo  
lập một phát ngôn thì người sử dụng ngôn ngữ phải kết hợp các từ thành câu để  
thực hiện chức năng biểu đạt hay thông báo. Cho nên có thể nói rằng việc hiểu từ,  
dùng từ chính xác là điều kiện quyết định hiệu quả của giao tiếp duy.  
Thấy được tầm quan trọng này nên sách giáo khoa phổ thông đã chú trọng đến việc  
dạy học từ ngữ bao gồm cung cấp vốn từ và và rèn luyện kỹ năng sử dụng từ để  
đáp ứng nhu cầu tư duy và giao tiếp cho các em. Về mặt thuyết thực hiện tốt  
nhiệm vnày trong quá trình dạy học, học sinh không chỉ nắm vững các tri thức cơ  
bản về ngôn ngữ tiếng Việt vốn từ, khả năng giao tiếp của các em cũng được  
hoàn thiện, tạo điều kiện tốt cho quá trình chiếm lĩnh các tri thức khoa học khác.  
II. Cơ sở thực tiễn:  
Tuy nhiên, trong thực tế việc sử dụng từ ngữ của học sinh phổ thông hiện nay,  
trong đó có Trung học phổ thông (THPT), còn nhiều bất cập so với những yêu cầu  
của chương trình và yêu cầu của hội. Điều này không chỉ làm hạn chế đến giao  
tiếp của các em mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển tư duy, tình yêu văn hóa dân  
tộc tiếng nói mẹ đẻ, đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả học học tập của  
các em.  
Học sinh lớp 11 THPT là đối tượng được xem là hoàn thiện trong cấp học, được  
rèn luyện từ ngữ tiếng Việt trong suốt 10 năm liền. Nhưng không phải thế mà tri  
thức về từ, kỹ năng sử dụng từ của các em đã đạt đến độ hoàn thiện. Qua quá trình  
giảng dạy, tôi nhận thấy, khi làm bài kiểm tra Làm văn, học sinh mắc rất nhiều lỗi  
dùng từ, làm ảnh hưởng đến chất lượng bài viết nói riêng và hiệu quả của việc dạy  
học bộ môn Ngữ văn nói chung.  
Lỗi dùng từ của học sinh không phải một hiện tượng mới xuất hiện. Hậu quả của  
nó thì bất cứ giáo viên nào cũng nhận thấy. Tuy nhiên thực trạng này vẫn tồn tại  
một cách dai dẳng trong quá trình dạy học bộ môn. Sở dĩ như vậy là do chúng ta  
lúng túng trong việc tìm ra nguyên nhân và những giải pháp nhằm khắc phục, ngăn  
ngừa một cách có hiệu quả.  
III. Lí do chọn đề tài  
Xuất phát từ những suy nghĩ trên, trong quá trình dạy học, tôi đã cố gắng đúc rút  
những kinh nghiệm về “Chữa lỗi dùng từ trong dạy học làm văn ở trung học  
phổ thông- đối tượng chính là học sinh lớp 11, nhằm đề xuất một số biện pháp  
chữa lỗi mang tính khả thi, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Ngữ văn  
trong nhà trường.  
B. Mục đích nghiên cứu  
2
- Giúp giáo viên và học sinh nhận thức đúng hơn về vai trò của chữa lỗi dùng  
từ trong dạy học làm văn.  
- Đưa ra một số kinh nghiệm về biện pháp chữa lỗi để nâng cao hiệu quả diễn  
đạt của học sinh.  
- Từ đó, nhằm nâng cao năng lực làm văn chất lượng học tập bộ môn Ngữ  
văn trong nhà trường THPT.  
C. Đối tượng nghiên cứu  
-
-
Chương trình ngữ văn THPT  
Đối tượng khảo sát, thực nghiệm: Học sinh khối 11  
D. Phương pháp nghiên cứu  
Thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:  
-
-
-
-
Phương pháp hệ thống  
Phương pháp thống kê  
Phương pháp so sánh  
Phương pháp phân tích  
E. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu  
-
-
Phạm vi nghiên cứu: Học sinh khối 11 các lớp giáo viên giảng dạy ở  
trường THPT Hướng Hóa – Quảng Trị.  
Thời gian nghiên cứu: Trong 2 năm học: 2016 - 2017, 2017 - 2018  
PHẦN NỘI DUNG  
3
A. THỰC TRẠNG VỀ LỖI DÙNG TỪ CỦA HỌC SINH THPT  
I. Khái quát về lỗi dùng từ của học sinh  
1. Khái niệm về lỗi dùng từ  
thể hiểu lỗi dùng từ những trường hợp người nói, người viết không đáp ứng  
được những yêu cầu về dùng từ. Họ dùng từ không đúng, thiếu chính xác, hoặc  
không phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp, do đó không diễn đạt được hoặc diễn đạt  
không hết ý cần nói, người nghe có thể không hiểu, hoặc hiểu sai những thông tin  
được trình bày. Hiệu quả giao tiếp thế mà không đảm bảo.  
2. Khái quát về lỗi dùng từ của học sinh  
Lỗi dùng từ của học sinh hiện nay là phổ biến, nghiêm trọng và có chiều hướng  
ngày càng gia tăng. Học sinh bản ngữ học tiếng , chữ dân tộc mình ròng rã 12 năm  
vẫn sai chính tả, viết không thành câu và nói theo giọng địa phương, không biết  
ứng xử trong những tình huống giao tiếp thông thường. Số học sinh giỏi tiếng mẹ  
đẻ rất thấp. Các hiện tượng dùng từ ngữ thiếu chính xác, thiếu thẩm mĩ rất nhiều.  
Khả năng sử dụng từ ngữ trong văn bản chưa tốt, vốn từ nghèo nàn dẫn đến nhiều  
trường hợp sai, nhầm lẫn một cách nực cười khó tin. Trong khi viết các em không  
chịu khó suy nghĩ để chọn từ, để tránh lặp từ, ngoài ra dùng nhiều từ sáo rỗng do  
bắt chước máy móc các bài văn mẫu. Lỗi dùng từ còn rất phổ biến trong nói năng  
giao tiếp thông thường. Ta có thể thấy nhan nhản những từ tục tĩu, ghê tai trong  
xưng hô hay phủ định. Rất khó tin và không muốn tin là có những học sinh bây giờ  
dùng từ sai ngay cả trong lời chào giáo viên của mình. Nhiều em đã tỏ ra vô tư, hồn  
nhiên khi cất lên lời chào “ê thầy”.  
thể nói rằng, thực trạng sử dụng ngôn ngữ như trên là đáng báo động trong nhà  
trường. Việc sử dụng từ ngữ một cách tùy tiện, thiếu suy nghĩ, thiếu văn hóa như  
vậy không chỉ làm cho tiếng Việt mất đi vẻ thanh lịch vốn của nó mà còn dẫn  
đến sự tầm thường hóa kỷ cương chỉ còn là một bước nhỏ.  
II. Khảo sát lỗi dùng từ của học sinh  
1. Ra đề khảo sát  
Mục đích của việc khảo sát là làm cho học sinh bộc lộ vốn từ khả năng sử dụng  
từ ngữ của mình, qua đó để xác định được thực trạng lỗi dùng từ của các em. Do  
vậy tôi tiến hành khảo sát trên hai đề làm văn, một đề làm văn kiểm tra chung ở  
lớp, một đề yêu cầu làm bài nhà  
Đề viết ở lớp: Phân tích cảnh sắc thiên nhiên và tâm trạng của nhân vật trữ tình  
trong hai khổ thơ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử  
Đề viết ở nhà: Một danh nhân đã nói rằng: “Đường đi không khó vì ngăn sông  
cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Suy nghĩ của em về câu nói trên?  
Với việc ra hai đề, một viết ở lớp thuộc về nghị luận văn học, một viết ở nhà thuộc  
nghị luận hội, tôi đã cân nhắc sao cho vừa phù hợp với chương trình, vừa đảm  
bảo học sinh bộc lộ khả năng sáng tạo, qua đó cũng thấy được việc sử dụng từ ngữ  
của học sinh một cách sinh động. Công việc khảo sát xác định lỗi nhờ thế trở nên  
chân thực, khách quan và toàn diện hơn.  
2. Tiêu chí phân loại lỗi  
4
Muốn chữa lỗi trước hết phải phát hiện ra lỗi, sau đó phân loại chúng ra thành từng  
dạng để từ đó những cách chữa phù hợp. Để phân loại lỗi cần dựa trên cơ sở  
những yêu cầu chung của việc sử dụng tiếng Việt trong hành văn của văn bản:  
- Yêu cầu viết đúng ngữ âm, chữ viết: Trong sử dụng tiếng Việt, việc phát âm theo  
giọng địa phương điều không tránh khỏi, nhưng khi viết đòi hỏi phải viết đúng  
về hình thức âm thanh và cấu tạo của từ, bằng cách tuân thủ các chuẩn về chính tả.  
- Yêu cầu dùng từ chính xác: Chính xác ở đây đúng với cả nội dung, ý nghĩa và  
sắc thái biểu cảm từ đó mang. Nghĩa của từ cả nghĩa đen (nghĩa gốc) lẫn  
nghĩa bóng (nghĩa phái sinh). Nếu muốn dùng theo nghĩa phái sinh thì phải căn cứ  
vào nghĩa gốc của từ.  
- Yêu cầu hành văn súc tích, rõ ràng, trong sáng: Đối với việc viết văn, sử dụng từ  
nhiều nghĩa, lối diễn đạt bóng bẩy, hình tượng cần thiết rất tốt. Tuy nhiên điều  
đó không có nghĩa đi bắt chước một cách máy móc lối diễn đạt của người khác,  
dùng những từ không hiểu nghĩa. Không được lạm dụng từ Hán - Việt hay các từ  
thuộc phong cách ngôn ngữ khác, đặc biệt từ địa phương. Từ ngữ được dùng  
trong câu, trong văn bản phải thiết lập các mối quan hệ cho đúng ngữ pháp, tránh  
gây hiểu nhầm cho người khác.  
- Yêu cầu về tính nghệ thuật: Đối với một bài văn hay thì việc dùng từ, câu đúng là  
chưa đủ khả năng hành văn cần được nâng lên để đạt tính nghệ thuật. Tính nghệ  
thuật ở đây được biểu hiện bằng tính hình tượng, tính cảm xúc, tính hệ thống và  
tính cá thể. Tức là trong hành văn học sinh phải tái hiện chính xác hiện thực, làm  
xuất hiện ở người đọc, người nghe những hình ảnh, các giác quan và gợi lên trong  
lòng người đọc những suy nghĩ, tình cảm người viết muốn gởi gắm tất nhiên  
là ngôn ngữ trong bài phải thống nhất, hỗ trợ, giải thích cho nhau nhằm đạt được  
hiệu quả diễn đạt.  
Từ các tiêu chí trên đây, tôi đã tiến hành phân loại lỗi dùng từ của học sinh.  
- Lỗi về nghĩa  
- Lỗi về âm thanh và hình thức cấu tạo  
- Lỗi lặp từ, thừa từ  
- Lỗi dùng từ không hợp phong cách  
- Lỗi kết hợp từ không đúng đặc điểm ngữ pháp  
- Lỗi dùng từ sáo rỗng công thức  
3.Phân tích lỗi dùng từ trong bài làm của hoc sinh  
a. Kết quả khảo sát lỗi  
- Đối tượng tham gia làm bài: học sinh 3 lớp 11A1, 11B2, 11B8  
- Tổng số bài làm: 100 bài  
- Tổng số bài mắc lỗi: 100 bài = 100%  
- Tổng số lỗi thống được: 725 lỗi, trung bình mỗi bài mắc 7,25 lỗi  
- Kiểu lỗi: Tính chung thì 6 kiểu lỗi được phân loại trên đều bị mắc phải.Tính  
riêng từng bài thì số kiểu lỗi bị mắc phải thể khác nhau.  
b.Một số nhận xét về kết quả lỗi  
- Trong 6 kiểu lỗi, mức độ mắc lỗi của học sinh theo thứ tự: nhiều nhất lỗi về  
nghĩa của từ, thứ hai là lỗi về âm thanh và hình thức cấu tạo từ, thứ ba là lỗi kết  
5
hợp từ, thứ tư lỗi về dùng từ không đúng phong cách, thứ năm lỗi thừa từ lặp  
từ, cuối cùng là lỗi dùng từ sáo rỗng công thức.  
- Có sự chênh lệch giữa các lỗi trong bài làm ở lớp và bài làm nhà. Bài viết ở lớp  
nghị luận văn học, đề tương đối khó, lại viết trong thời gian hạn hẹp, học sinh  
không có điều kiện lựa chọn, đọc lại sửa lỗi cho cho mình, đây là nguyên nhân  
chính làm cho lỗi về nghĩa của từ tăng cao. Còn bài viết ở nhà có nhiều thời gian  
hơn, lại thuộc nghị luận hội, gần gũi với đời sống nên lỗi về nghĩa giảm so với  
bài trên lớp, nhưng chính điều này cũng đã khiến cho lỗi về dùng từ sai phong cách  
chủ yếu từ khẩu ngữ lại tăng. Bài làm nhà cũng bộc lhọc sinh lạm dụng  
máy móc sách tham khảo thế lỗi dùng từ sáo rỗng công thức nhiều hơn. Đề  
thứ hai đòi hỏi phải giải thích nghĩa đen nghĩa bóng, nhiều bài viết tỏ ra lúng  
túng trong diễn đạt, dẫn đến lỗi lặp từ, thừa từ.  
c. Dẫn chứng về các lỗi dùng từ thông thường của học sinh  
c.1.Lỗi về âm thanh và hình thức cấu tạo từ  
Đây lỗi thường mắc phải ở một số từ nhất định, nhưng tần số xuất hiện của lại  
khá cao. Viết về nỗi bất hạnh của Hàn Mặc Tử, nhiều học sinh đã viết:  
- Ta cảm thông, ngậm ngủi cho số phận nhà thơ tài hoa bạc mệnh.  
- Chỉ trăng mới thực sự mang đến cho Hàn Mặc Tử sự an uổi.  
Để nói lên những cố gắng của con người trước những khó khăn của cuộc sống, có  
em đã viết:  
- Thành công không nghiểm nhiên được phải trải qua sự nỗ lực phấn đấu của  
bản thân mỗi người.  
- Khi thực hiện một công việc nào đó, ngoài sự quyết tâm cần phải kiên trì nhẩn nại  
mới hi vọng thành công.  
một số từ khác thường bị mắc lỗi như: “bâng khuâng” thì viết bâng khuân,  
“trong sáng” thì viết thành trông sáng, “cảnh sắc” thì viết thành cảnh xắc  
Trong các câu trên những từ in nghiêng là những từ bị viết sai về mặt hình thức cấu  
tạo, nếu viết đúng phải là: ngậm ngùi, an ủi,nghiễm nhiên, nhẫn nại.  
Nguyên nhân của loại lỗi này là do người sử dụng bị ảnh hưởng cách phát âm.  
Thường thì những từ bị viết sai có âm thanh gần giống với âm thanh của từ nên gây  
ra nhầm lẫn. Người viết cứ tưởng như vậy đúng. Cũng có khi do người khác phát  
âm không đúng nhưng vì không hiểu nên học sinh bắt chước viết theo. Điều này tạo  
thành một thói quen không tốt khi sử dụng từ ngữ.  
Một nguyên nhân nữa là do học sinh không nắm về chuẩn chính tả, viết một cách  
cẩu thả, tùy tiện, cảm tính, bị thói quen chi phối. những từ không đáng sai, thậm  
chí từ đó đã biết, hiểu nhưng vẫn mắc lỗi do không cẩn thận.  
c.2.Lỗi về nghĩa của từ  
Đây loại lỗi phổ biến nhất, chiếm tỷ lệ cao nhất trong những biểu hiện mắc lỗi  
của học sinh. Có thể phân lỗi này thành hai dạng:  
* Dùng sai hoàn toàn về nghĩa:  
Chẳng hạn như:  
(1) Đây một bài thơ thành công hết sức tâm lý và nội tiết.  
6
(2) Hàn Mặc Tử ngậm ngùi, sầm uất khi biết rằng mình không còn cơ hội về thăm  
thôn Vĩ nữa.  
(3) Qua cảm nhận tinh tú của Hàn Mặc Tử, Vĩ Dạ hiện lên rất đẹp.  
(4) Sự cố gắng nỗ lực vượt lên khó khăn nhiều lúc mang lại cho chúng ta những  
thành công mỹ miều.  
(5) Có những người đạt được thành công nhưng không minh mẫn. Họ dùng nhiều  
thủ đoạn để đạt được mục đích của mình.  
câu (1) từ nội tiết”, dùng sai hoàn toàn về nghĩa và sai cả về phong cách. Đây là  
thuật ngữ khoa học về sinh học. Trong câu (2) học sinh dùng sai từ sầm uất” (nhà  
cửa đông vui, nhộn nhịp), thực ra ý định của em là viết từ “trầm uất”(buồn u uất  
trong lòng). Tương tự các câu (3), (4) và (5) đều sự nhầm lẫn giữa tinh tú” và  
tinh tế”, “mỹ miều” và “mỹ mãn”, “minh mẫn” và “minh bạch”. Đây những từ  
hoàn toàn khác nhau về nghĩa, nhưng một yếu tố giống nhau vì vậy gây nhầm  
lẫn.  
* Dùng từ không chính xác về nghĩa  
Đây là các trường hợp đối với những từ gần nghĩa, có nét nghĩa giống nhau. Một số  
biểu hiện của dạng lỗi này như sau:  
- Dù hoạn nạn khó khăn, dù có bị cuộc đời lung lay thì sự quyết tâm không nản chí  
sẽ giúp chúng ta vượt qua tất cả  
- Hàn Mặc Tử phải sống li thân ở trại phong Qui Hòa.  
- Chúng ta hết sức trân trọng nỗi đau của nhà thơ.  
Nguyên nhân của loại lỗi này là do người viết nhầm lẫn nghĩa và do không hiểu  
nghĩa của từ. Điều này phổ biến trong việc dùng từ Hán - Việt. Các em dùng sai  
nhưng cứ tưởng đúng đã dùng theo cảm tính. Đặc biệt đối với những từ gần  
âm, gần nghĩa hoặc có chung yếu tố cấu tạo thì tỷ lệ mắc lỗi càng cao. Thường thì  
các từ này có một nét nghĩa chung nào đó học sinh cứ dựa vào nét chung này để  
dùng mà không hề biết nghĩa của từ vẫn sự khác nhau và cần sử dụng khác nhau.  
c.3. Lỗi dùng từ không hợp phong cách văn bản sử dụng  
Đây loại lỗi chiếm tỷ lệ không cao, nhưng điều đáng nói là sự mơ hồ của học  
sinh về loại lỗi này. Có nhiều em thậm chí không hề có ý thức về kiểu diễn đạt  
đúng phong cách loại hình văn bản mà mình đang trình bày. Biểu hiện nhất của  
loại lỗi này là sử dụng từ ngữ thuộc phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, như từ khẩu  
ngữ, từ địa phương và các từ thuộc phong cách ngôn ngữ khác vào trong bài viết (  
tất nhiên không phải những trường hợp dùng có ý thức nhằm tạo hiệu quả diễn  
đạt). Sau đây một số trích dẫn về biểu hiện chủ yếu của loại lỗi này:  
- Cuộc sống nhiều khó khăn mà ta phải bước qua, nếu không bước qua dược ta  
sẽ bị đè đầu cởi cổ.  
- Núi sông là hai cái tượng trưng cho những khó khăn gian khổ.  
- Dù sao đi nữa bạn cũng phải cố gắng lên nhé.  
Trong các câu trên, các từ bước qua”, “hai cái”, “nhé” và ngữ cố định đè đầu cởi  
cổvốn chỉ dùng cho phong cách ngôn ngữ giao tiếp thông thường. nhiều em  
dùng ngôn ngữ phim ảnh, ngôn ngữ tiếng Anh vào cả trong bài văn:  
- Chị ấy dù có làm một con a hoàng cũng quyết tâm học tập.  
7
- Cuộc sống gia đình anh ấy rất khó khăn nhưng thi vào đại học anh ấy đều ok (ô  
kê) cả.  
Một từ nguồn gốc từ xa xưa được dùng trong phạm vi hẹp, một từ tiếng  
nước ngoài và là ngôn ngữ hiện đại trong giao tiếp thông thường. Thế nhưng khi sử  
dụng những học sinh này dường như không ý thức về sự khác nhau giữa chúng với  
ngôn ngữ trong bài văn nghị luận.  
Nguyên nhân của loại lỗi này do không nắm được các đặc điểm về phong cách  
ngôn ngữ thuộc những loại hình văn bản khác nhau. Không phân biệt phong cách  
khẩu ngữ và phong cách ngôn ngữ của văn bản viết dẫn đến nói như viết, viết như  
nói.  
c.4. Lỗi lặp từ  
Lỗi này học sinh thường hay mắc phải khi cần giải thích cắt nghĩa một vấn đề. Biểu  
hiện chủ yếu của lỗi này là việc lặp lại hoàn toàn một từ hay những từ có giá trị  
tương đương về nghĩa trong một câu, đoạn văn, nhưng không phải mục đích liên  
kết hay nhấn mạnh nội dung gì. Dưới đây một đoạn bài viết của học sinh: “Hàn  
Mặc Tử rất bất hạnh, ông viết lên nỗi bất hạnh cuộc đời đã đem đến cho ông  
nhưng những bất hạnh đó mà Hàn Mặc Tử đã làm thơ rất hay để nói về nỗi bất  
hạnh, đau buồn của mình”.  
Biểu hiện của lỗi lặp từ có hai dạng: Lặp hoàn toàn và lặp đồng nghĩa.  
*Lỗi lặp hoàn toàn  
- Hàn Mặc Tử một nhà thơ mới, Hàn Mặc Tử sáng tác nhiều thơ trong đó Đây  
thôn Vĩ Dạ được xem là bài thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử.  
Từ Hàn Mặc Tử lặp lại ba lần trong câu là không cần thiết, làm cho câu văn trở nên  
nặng nề, thiếu thanh thoát. Câu sau đây cũng mắc lỗi tương tự:  
- “Khi ta đã lựa chọn một con đường nào đó cho sau này, dù con đường đã lựa  
chọn nhiều chông gai hay khó khăn trên đường đời thì chúng ta cũng không  
được nản chí”…  
* Lặp từ đồng nghĩa  
Mở đầu bài văn, học sinh viết: Hàn Mặc Tử là thi sĩ, nhà thơ nổi tiếng trong  
phong trào thơ mới”. Một học sinh khác lại viết: Đây thôn Vĩ Dạ là tác phẩm hay,  
xuất sắc và thành công của Hàn Mặc Tử”. câu thứ nhất, hai từ nhà thơ thi sĩ  
thực ra là một, chỉ khác là một từ từ thuần Việt, một từ từ Hán-Việt, hai từ lại  
đứng cạnh nhau. Viết như vậy thừa. Câu thứ hai cũng mắc lỗi tương tự. Ba từ  
hay, xuất sắc, thành công vừa đồng nghĩa vừa bao hàm nghĩa lẫn nhau. Muốn câu  
văn, đoạn văn đạt được sự trong sáng, hàm súc thì phải lược bỏ các yếu tố thừa,  
lặp.  
thể thấy nguyên nhân của lỗi lặp này là do cách diễn đạt rối rắm, cắt nghĩa  
không rạch ròi, khả năng kết hợp sắp xếp từ ngữ để biểu đạt ý, câu và giữa các  
câu yếu. Đặc biệt là do học sinh nghèo vốn từ để diễn đạt.  
c.5. Lỗi kết hợp từ không đúng đặc điểm ngữ pháp  
Lỗi kết hợp từ là khi người viết kết hợp các từ với nhau không phù hợp với khả  
năng kết hợp của nó. Mỗi từ những đặc điểm ngữ pháp riêng , thể hiện ở nội  
dung nghĩa khả năng kết hợp giữa với các từ khác. Chính vì sự kết hợp sai  
8
nguyên tắc đó làm nội dung của câu bị thiếu, không diễn đạt về nghĩa. thể  
thấy một vài biểu hiện chủ yếu về loại lỗi này của học sinh như sau:  
- Nếu ngại khó khăn không thành công.  
- Nhiều tấm gương vượt qua số phận thành công.  
Câu thứ nhất viết thiếu quan hệ từ thìhoặc là “sẽ”. Câu thứ hai cũng thiếu từ, cần  
phải diễn đạt là “Nhiều tấm gương giàu nghị lực đã vượt lên số phận để đạt được  
thành công”  
- Thực tế nhiều người đã làm việc rất năng lực. Câu sai vì từ năng lực” không thể  
đi liền với làm việc rất ”. Có thể sửa lại là “Nhiều người đã làm việc rất năng  
nổ”  
- Cuộc đời đã dành cho Hàn Mặc Tử những bất hạnh. Từ dành chođể chỉ những  
ưu ái có tính tốt đẹp, do đó không thể kết hợp với bất hạnh”. Cần phải thay từ  
dành chobằng từ đưa đếnmới phù hợp.  
Nguyên nhân của loại lỗi này là do viết thừa hoặc thiếu quan hệ từ. Do không nắm  
được đặc điểm của từ loại và do người viết không phân biệt được đặc điểm kết hợp  
khác nhau của một từ khi chúng có quan hệ với một thành phần chung.  
c6. Lỗi dùng từ sáo rỗng công thức  
Đây loại lỗi khi người tạo lập văn bản dùng những từ người khác đã dùng  
quá nhiều. Bắt chước một cách máy móc, bất kể đối tượng, hoàn cảnh, nội dung  
diễn đạt có phù hợp với từ ngữ đó hay không. Đây lối “nói chữ”, dùng từ văn hoa  
bóng bẩy, “nói to giọng” nhưng nội dung lại chung chung, chứa đựng ít thông tin,  
thậm chí trống rỗng. Một số biểu hiện của học sinh về loại lỗi này như sau:  
- Gần bảy thập kỷ đã trôi qua, thời gian đã đóng dày lên trang thơ một lớp bụi mờ  
như năm tháng đi qua còn để lại và in hằn lên những vết chân rõ nét.  
- Những vần thơ chứa chan những giọt lệ nóng hổi trào dâng ấy vẫn sáng ngời  
long lanh như những vì sao giữa bầu trời, nhức nhối trái tim của muôn người và  
mãi mãi muôn đời sau.  
Các em dùng từ văn hoa bóng bẩy ngay cả với những từ mà mình không hề hiểu  
nghĩa.  
- Con đường mơ ước là con đường nhung huyền của những khát vọng sâu xa trong  
thẳm sâu tâm hồn khát khao cháy bỏng rực sáng niềm tin.  
- Bằng nhiệt huyết nam nhi và trái tim tuổi trẻ, bằng khát khao cháy bỏng tự do em  
sẽ học tập và rèn luyện tốt để vươn tới những tầm cao mới.  
Trên đây chỉ những dụ điển hình về biểu hiện lỗi sáo rỗng của học sinh.  
Thực ra những cách viết sáo rỗng như trên không phải là sai thật sự nhưng chỉ chứa  
quá ít thông tin hoặc chứa những thông tin không mấy liên quan đến nội dung cần  
diễn đạt, do đó kém tác dụng thiết thực.  
Nguyên nhân của lỗi này là do năng lực cảm thụ từ ngữ của học sinh quá yếu. Các  
em bắt chước lối viết của người khác một cách máy móc mà không quan tâm đến  
từ mình dùng có phù hợp ý đang nói hay không. Có quá nhiều sách tham khảo ở  
dạng bài văn hay, tạo điều kiện tốt cho tâm lý văn hoa bóng bẩy, thích bắt chước  
của học sinh phát triển.  
9
B. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỮA LỖI DÙNG TỪ TRONG DẠY HỌC LÀM  
VĂN  
I. Xây dựng hệ thống bài tập khắc phục ngăn ngừa lỗi dùng từ  
Trên cơ sở đảm bảo tính khoa học sư phạm, dựa vào đặc trưng của phân môn  
cũng như thực tiễn dạy học tiếng Việt nhất thực trạng mắc lỗi của học sinh, tôi  
đã xây dựng một hệ thống các bài tập có tác dụng trau dồi vốn từ tiếng Việt và  
ngăn ngừa các lỗi thông thường học sinh thường hay mắc phải. Các bài tập này  
được sử dụng trong các giờ trả bài, kiểm tra miệng hay kiểm tra 15 phút. Đây là  
những dạng bài tập thông thường, giáo viên rất dễ thiết kế mà tính hiệu quả đối với  
học sinh là rất rệt. Hệ thống bài tập cụ thể được phân làm ba dạng:  
- Bài tập làm giàu vốn từ cho học sinh  
- Bài tập rèn luyện kỹ năng sử dụng từ ngữ  
- Bài tập phát hiện khắc phục lỗi  
1. Bài tập làm giàu vốn từ cho học sinh  
Bài tập làm giàu vốn từ cho học sinh là cách thức cung cấp từ ngữ được dựa trên  
những cơ sở hệ thống nhất định. Qua sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ  
tìm tòi và chiếm lĩnh từ một cách tự giác và khoa học. Mục đích của hệ thống bài  
tập này là làm phong phú vốn từ cho học sinh, giúp các em tích lũy vận dụng  
vốn từ của mình tốt hơn vào thực tiễn giao tiếp. đây là cách học hữu thức, dựa trên  
những cơ stâm lý ngôn ngữ nên có tính bền vững cao.  
a. Bài tập làm giàu vốn từ theo quan hệ cấu tạo  
Đây dạng bài tập cho trước một “tiếng” và yêu cầu học sinh tìm được các từ láy,  
từ ghép có chung yếu tố cấu tạo đó.  
* Bài tập về từ láy:  
- Bài tập 1: hãy tìm các từ láy có chung yếu tố cấu tạo với các từ: nhỏ, mê, gắt,  
chán , vui, buồn.  
dụ: nhỏ: nhỏ nhắn, nho nhỏ, nhỏ nhoi  
- Bài tập 2: Cho các từ: đỏng đảnh, lấc cấc, líu lo, thì thụt, quanh quẩn, lóng lánh,  
thấp thỏm. Tìm dạng láy của chúng và nhận xét về hiện tượng láy này.  
dụ: đỏng đảnh: đỏng đa đỏng đảnh  
- Bài tập 3: Tìm 10 từ láy âm và 10 từ láy vần chỉ dáng điệu, cử chỉ, thái độ của  
con người.  
dụ: lạnh lùng (láy âm), xởi lởi (láy vần)  
- Bài tập 4: Tìm 10 từ láy 3 và cho biết cách sử dụng chúng  
dụ: sạch sành sanh. Chúng nó đã vét sạch sành sanh không chừa lại một  
thứ gì.  
- Bài tập 5: Tìm các từ láy có ý nghĩa giảm nhẹ (nhỏ- nho nhỏ)  
* Bài tập về từ ghép:  
- Bài tập 1: Tìm các từ có chung yếu tố: viên, bản, giáo, hạnh, trí  
dụ: viên: giáo viên, sinh viên, học viên…  
- Bài tập 2: Cho các yếu tố: tình, thiết, đỡ, học, bạn, gắn, thân, thư, dung, yêu. Tạo  
các từ ghép có ý nghĩa tổng hợp và ý nghĩa phân loại.  
10  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 27 trang minhvan 24/07/2024 890
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Chữa lỗi dùng từ trong dạy học làm văn ở trung học phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_chua_loi_dung_tu_trong_day_hoc_lam_van_o_trung_hoc_pho.doc