SKKN Cách tạo nên một bài văn nghị luận hay

Một nhà phê bình văn học có uy tín nói rằng: giải một bài toán tìm được đáp số là xong, nhưng làm một bài văn, tìm được “đáp số” công việc xem như mới được một nửa. Bài văn hay là một bài văn diễn đạt tốt “đáp số”. Thực ra đối việc làm văn, nếu không diễn đạt được tốt “ đáp số ” (nhận thức và cảm thụ chính xác chân lí văn học) thì kết quả vẫn chỉ là một cái gì còn ẩn kín trong đầu người viết mà thôi.
PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO GIAO THUỶ  
TRƯỜNG THCS NGÔ ĐỒNG  
BÁO CÁO SÁNG KIẾN  
“CÁCH TẠO NÊN MỘT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN HAY”  
Lĩnh vực (mã)/ cấp học: Ngữ văn (01)/ THCS  
Tác giả:  
Nguyễn Thị Doan  
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Văn  
Chức vụ:  
Tổ trưởng tổ Khoa học hội  
Trường THCS Ngô Đồng  
Nơi công tác:  
Giao Thủy, ngày 12 tháng 05 năm 2020  
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN.  
1. Tên sáng kiến:  
“CÁCH TẠO NÊN MỘT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN HAY”  
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Ngữ văn (01)/ THCS  
3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 6 năm 2020.  
4. Tác giả  
Họ và tên:  
Nguyễn Thị Doan  
1975  
Năm sinh:  
Nơi thường trú:  
Bình Hòa - Giao Thủy - Nam Định  
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Ngữ văn  
Chức vụ công tác:  
Nơi làm việc:  
Điện thoại:  
Tổ trưởng tổ Khoa học hội  
Trường THCS Ngô Đồng  
0912 703 054  
Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100%  
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:  
Tên đơn vị: Trường THCS Ngô Đồng  
Địa chỉ:  
Khu 2, thị trấn Ngô Đồng, Giao Thủy, Nam Định  
Điện thoại: 02283 895 840  
1
BÁO CÁO SÁNG KIẾN  
I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN  
Một nhà phê bình văn học có uy tín nói rằng: giải một bài toán tìm được  
đáp số là xong, nhưng làm một bài văn, tìm được “đáp số” công việc xem như  
mới được một nửa. Bài văn hay là một bài văn diễn đạt tốt “đáp số”. Thực ra đối  
việc làm văn, nếu không diễn đạt được tốt đáp số (nhận thức cảm thụ  
chính xác chân lí văn học) thì kết quả vẫn chỉ một cái gì còn ẩn kín trong đầu  
người viết mà thôi.  
Đọc một bài thơ, một đoạn văn, một cuốn sách nhiều khi ai cũng thấy hay.  
Nhưng hay ở chỗ nào ? Vì sao? Nói cho ra lẽ đã khó, đặt bút viết còn khó hơn  
nhiều, chưa kể những điều hay mà tự họ chưa thấy được.  
Đáp ứng yêu cầu của giáo dục về đổi mới phương pháp dạy học môn  
Ngữ văn THCS là coi trọng tính thực hành, kĩ năng xây dựng một bài văn hoàn  
chỉnh. Từ việc chuẩn bị chất liệu, dựng khung cho bài văn đến việc viết một bài  
văn hoàn chỉnh phải trải qua một quá trình đầy gian khổ. Viết đúng, viết trúng  
đã khó, viết hay còn khó hơn. Do yêu cầu của bài văn càng ngày càng đòi hỏi  
cao hơn : không chỉ đúng, trúng mà còn phải đạt được mức độ hay nên tôi đã  
vận dụng phương pháp này trong quá trình giảng dạy .  
II. TẢ GIẢI PHÁP  
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến.  
Trong quá trình giảng dạy, tôi thấy các em thường gặp phải những tình  
huống này: Ý thì có, đã nghĩ ra mà không thể viết thành văn. Nhiều khi cố viết  
cũng được nhưng đọc lại thấy rời rạc, lời lẽ nhạt nhòa dẫn đến chất lượng bài  
làm không cao. Từ thực tế đó, khi rèn kỹ năng làm bài cho một học sinh tôi luôn  
chú trọng đến điểm yếu này và khắc phục bằng một vài kinh nghiệm. cụ thể  
bài văn chất lượng (vừa có ý, vừa văn, vừa tìm ra được kết quả đúng, chân  
nghệ thuật vừa biết diễn đạt tốt kết quả ấy).  
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến.  
Trong bố cục của một bài văn, vẫn biết rằng thân bài là quan trọng nhất.  
2
chuyển tải nội dung, yêu cầu của bài làm. Nhưng, điều tôi quan tâm hơn cả  
trước nhất phải một mở bài và kết bài hay.  
A. Mở bài hay  
Mục đích của mở bài, ai cũng biết rõ là nhằm giới thiệu vấn đề mà mình  
sẽ viết, strao đổi, bàn bạc trong bài. Có nhiều cách vào bài: Mở đề trực tiếp  
( còn gọi trực khởi ). Còn có một cách mở bài gọi là lung khởi, nghĩa là cách  
mở bài gián tiếp: nêu vấn đề sẽ bàn trong bài sau khi dẫn ra một ý khác có liên  
quan gần gũi với vấn đề ấy. Tôi đã chia ra làm bốn cách vào bài theo kiểu gián  
tiếp này để học sinh có ý thức thực hành, rèn luyện có bài bản đó là:  
- Diễn dịch ( suy diễn )  
- Quy nạp  
- Tương liên ( tương đồng )  
- Tương phản ( đối lập )  
Tuy vậy, trong thực tế khi làm bài, ít khi người viết suy nghĩ xem nên lựa  
chọn vào bài cách nào, tương liên hay tương phản, diễn dịch hay quy nạp, cứ  
theo yêu cầu của đề viết, song cũng không biết mình đã vào bài bằng cách  
nào nữa. Trong thực tế, đại đa số các em rất mất thời gian về khâu mở bài mà  
kết quả vẫn không có được một mở bài hay trong khi cùng một đề bài cũng có  
nhiều cách mở bài khác nhau:  
dụ: Cảm nhận vẻ đẹp của bài “ Sang thu” của Hữu Thỉnh, ta có thể mở  
bài như sau:  
Thời gian vẫn trôi đi bốn mùa luôn luôn chuyển. Con người chỉ xuất  
hiện một lần trong đời cũng chỉ một lần ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng.  
Nhưng những gì là thơ, văn, nghệ thuật đích thực thì vẫn còn mãi với thời  
gian. Đến tận hôm nay, chúng ta vẫn không quên nhắc đến một mùa thu thôn  
quê Việt Nam trong thơ Nguyễn Khuyến, một “ Mùa xuân chín” trong thơ Hàn  
Mặc Tử một “Sang thu” của Hữu Thỉnh – khúc giao mùa nhẹ nhàng mà sâu  
lắng".  
Hay: “Từ lâu mùa thu đã trở thành nguồn cảm hứng cho các nhà thơ, nhà  
văn sáng tác văn chương. Nếu như Nguyễn Khuyến nổi tiếng với chùm thơ thu,  
3
Tản Đà gửi cả nỗi niềm li biệt trong “Cảm thu, tiễn thu” thì với Hữu Thỉnh, nhỏ  
nhẹ, khiêm nhường, ông cũng góp vào bức tranh thu của đất nước một góc  
“Sang thu”.  
Sau đây là mô hình của mở bài:  
1. Dẫn dắt  
Mở bài  
2. Nêu vấn đề  
3. Giới hạn phạm vi vấn đề  
Nói tóm lại một mở bài hay cần phải:  
1. Ngắn gọn: dẫn dắt một vài câu, nêu vấn đề một vài câu và giới hạn vấn  
đề một câu.  
2. Đầy đủ: đọc xong mở bài, người đọc biết được bài viết bàn về vấn đề  
gì ? Trong phạm vi nào? Thao tác chính được vận dụng ở đây là gì ?  
3. Độc đáo: mở bài phải gây được sự chú ý của người đọc với vấn đề  
mình sẽ viết.  
4. Tự nhiên: Viết văn nói chung cần giản dị, tự nhiên. Mở bài và nhất là  
câu đầu chi phối giọng văn của toàn bài.  
Sau đây một bài tiêu biểu:  
những tác phẩm văn học đọc xong gấp sách lại là ta quên ngay, cho  
đến lúc cầm lại ta mới chợt nhớ là mình đã đọc rồi. Nhưng cũng những cuốn  
sách như dòng sông chảy qua tâm hồn ta để lại những ấn tượng khắc chạm trong  
tâm khảm. Điều đó được thể hiện rất tác phẩm “Làng” của nhà văn Kim  
Lân. Ấn tượng sâu sắc trong người đọc suốt hơn năm mươi năm qua tác phẩm  
này đó là hình ảnh ông Hai – một người nông dân giàu tình yêu làng, yêu nước  
và tinh thần giác ngộ cách mạng cao cả.  
B. Kết bài hay:  
Về cách kết bài, tôi thường giới thiệu cho học sinh một số cách sau:  
- Thứ nhất: tóm lược (tóm tắt quan điểm, nội dung đã nêu thân bài)  
- Thứ hai: phát triển (mở rộng thêm vấn đề đạt ra trong đề bài)  
- Thứ ba: Vận dụng ( nêu phương hướng, bài học áp dụng phát huy hay khắc  
phục vấn đnêu trong bài văn)  
4
- Thứ tư: Liên tưởng ( mượn ý kiến tương tự - những ý kiến có uy tín để thay  
cho lời tóm tắt của đề bài)  
Đó những nguyên tắc và cách thức có tính giáo khoa mà bất kỳ một học  
sinh nào cũng nên nhớ, rèn luyện để thể viết phần kết bài của một bài văn.  
Nắm vững nguyên tắc, thuần thục cách kết bài như trên, chúng ta sẽ thực hiện  
phần kết bài (nhẹ nhàng). Tuy nhiên, trong thực tế từ “đúng” đến “hay” là một  
khoảng cách. Vậy thế nào là một bài văn hay ?  
Một kết bài hay trước hết phải một kết bài đúng. Đúng nguyên tắc,  
đúng cách. Sau đây một số kết bài hay, tôi thường hướng dẫn học sinh làm:  
a. Kết theo lối “điểm nhấn” :  
dụ: Cùng với các nhà thơ khác trong phong trào thơ Mới, Vũ Đình  
Liên và bài thơ “Ông Đồ” của mình đã góp một giọng điệu thơ mới mẻ, đầy  
khởi sắc, đóng góp cho đời một cách nhận thức, cách hiểu biết một thái độ,  
một nhân sinh quan mới mẻ, mang giá trị nhân đạo và ý nghĩa nhân bản sâu  
sắc…  
b. Kết bài theo lối bình luận mở rộng và nâng cao  
dụ: Mặc được sáng tác cách đây nửa thế kỷ bằng thể thơ tứ tuyệt  
cổ điển, “Ngắm trăng” vẫn làm rung động chúng ta. Bài thơ sự kết hợp hài  
hòa giữa chất “thép” và chất “tình”, giữa người chiến sĩ người nghệ sĩ trong  
cùng một con người. Đó không chỉ một sáng tạo nghệ thuật đáng trân trọng  
mà còn là một bài học về phong cách sống, về nhân sinh quan cách mạng cao cả.  
c. Kết bài theo lối “đầu cuối tương ứng”. Kết bài ứng với mbài:  
Là cách kết bài láy lại mở bài mà không rơi vào tình trạng lặp lại  
nguyên văn lời lẽ ở mở bài. Vì nó là sự luyến láy để nâng cao, khẳng định chắc  
chắn lần cuối cùng những đã nêu thân bài bằng một giọng đầy tình cảm,  
một câu văn “nhỏ nhắn” như chính bài thơ nhỏ nhắn, đáng yêu, đáng nhớ đề  
bài đặt ra.  
d. Kết như không kết:  
Đây một cách kết bài hay ở chỗ rất hợp mục đích đặt ra, ở lời lẽ gọn  
5
gàng, giản dị, chân thành cảm thông với đối tượng lại rất tự nhiên như  
không, song để ý đến cái tự nhiên như không này người viết đã chuẩn bị.  
thể nói một kết bài hay thật đa dạng và thú vị nhưng đều chung nhau  
những điểm nhât định: đúng, song phải sáng tạo, gây được ấn tượng để lại dư  
vị trong người đọc. Kết bài hay vừa phải đóng lại, chốt lại vừa phải mở ra nâng  
cao và cứ ngân nga mãi trong lòng người  
Kết bài cũng mĩ học của vậy.  
C. Các yêu cầu về diễn ý và hành văn hay  
Sau khi đã có ý rồi, thì vấn đề quan trọng hơn cả biết diễn đạt hay. Tức  
biết diễn đạt một cách khéo léo những ý của bài viết thành lời văn cụ thể.  
Nhiều khi cùng một ý nhưng do cách diễn đạt khác nhau mà một đằng thi hay,  
một đằng thì chỉ bình thường. Diễn ý hay phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Để làm  
được điều đó tôi thường hướng dẫn học sinh thực hiện tốt một số kỹ năng sau:  
1. Giọng văn sự thay đổi giọng văn trong bài viết:  
Giọng văn sự thể hiện màu sắc biểu cảm của cả bài văn nhưng người  
viết cũng cần phải linh hoạt trong việc hành văn. Tránh cách viết một giọng đều  
đều từ đầu đến cuối, tạo cảm giác đơn diệu. Muốn thế trước hết cần sử dụng thật  
linh hoạt hệ thống từ nhân xưng. Chẳng hạn viết về Tố Hữu, ta có thể dùng khi  
thì Tố Hữu, khi thì nhà thơ, rồi tác giả, ông, người thanh niên cộng sản, người  
con xứ Huế, tác giả tập thơ Việt Bắc”, người nghệ sĩ, chiến sĩ…Trong một bài  
văn nghị luận, khi chưa xác định lứa tuổi của tác giả thì tốt nhất thì dùng danh từ  
để gọi như: Nhà văn, nhà thơ, tác giả… không chỉ ở cách xưng hô, giọng văn  
linh hoạt còn cần thể hiện ở cách dùng các tiểu từ như: vâng, đúng thế, không,  
điều ấy đã rõ, như vậy, như thế...những từ này tạo ấn tượng như người viết đang  
tranh luận đối thoại trực tiếp với người đọc.  
Trong quá trình viết bài văn nghị luận, nên luôn luôn thay đổi cách  
diễn đạt. Khi thì dùng diễn dịch, khi thì dùng quy nạp, khi thì phân tích trước,  
dẫn chứng sau, khi thì dẫn chứng trước phân tích sau, khi liên hệ, khi so sánh.  
Ba đoạn văn sau đây được viết cùng một bài văn, người viết đã sử dụng linh  
hoạt nhiều cách diễn đạt hay:  
6
Đoạn 1: “Ở đó, không gian, thời gian như ngưng đọng lại trong sự yên  
tĩnh đến vô biên. Câu thơ trùng xuống, nhịp thơ vẫn buồn tẻ nhưng hồn thơ cay  
đắng xót xa:  
“Lá vàng rơi trên giấy  
Ngoài trời mưa bụi bay”  
Đoạn 2:  
“Hoa tay thảo những nét  
Như phượng múa rồng bay”  
Câu thơ đang chật hẹp bỗng nhiên mở rộng cho ùa vào cái không khí tài  
hoa của con người…  
Đoạn 3: “ Nỗi buồn, nỗi nhớ Vũ Đình Liên đậm đà chất suy và  
mang nặng cái hồn quá khứ xa xưa. Ta thoáng gặp một chút gì gần gũi như thể:  
“Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời  
Lúc người còn sống tôi lên mười  
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội  
Áo đỏ người đem trước dậu phơi”  
Cũng như Lưu Trọng Lư nhớ về người mẹ một tuổi thỏ tươi đẹp, Vũ  
Đình Liên hướng về quá khứ, nỗi buồn của một thời đã qua…  
Giọng văn còn được thể hiện ở nhiêu phương diện khác nhau như dùng  
từ đặt câu, nêu ý, cách lập luận, cách dùng hình ảnh, so sánh, cách sử dụng dấu  
câu, từ cảm thán…  
Như vậy, giọng văn một cái gì đó bao trùm lên tất cả bài viết thể hiện ở  
mọi câu, mọi chữ, mọi yếu tố của bài viết. Trong văn chương nói chung, người  
ta gọi đó giọng điệu. Ở bài làm văn của học sinh ta gọi đó giọng văn.  
2. Dùng từ độc đáo:  
Nhà nghiên cứu phê bình Hoàng Ngọc Hiến một ý kiến rằng: Phải tìm  
được “ tác phẩm đích đáng, bài đích đáng, câu đích đáng, từ đích đáng mà phân  
tích và bình giá.  
Viết một bài văn nghị luận cũng thế, phải dùng được những từ hay, đoạn  
hay rồi mới có bài hay. Dùng từ hay là một trong những yếu tố quyết định để có  
7
cách diễn đạt hay. Một trong những yếu tố của văn hay là bài văn đó đọc lên từ  
ngữ cứ như “găm” vào tâm khảm người đọc, từ ngữ linh hoạt, dùng đúng lúc,  
đúng chỗ, lột tả được thần thái của sự vật, sự việc… Muốn thế, một mặt người  
viết vừa phải tích lũy cho mình một vốn từ ngữ phong phú, mặt khác phải có ý  
thức sử dụng khi viết. Trong giờ luyện viết, tôi thường cho học sinh tiếp xúc với  
một số đoạn văn mẫu của các nhà văn, nhà phê bình văn học chẳng hạn:  
"Chương XVII “ Tắt đèn” không khác gì một cái lòng chảo đã nguôi đi,  
đã váng đọng lại một thứ bùn lưu niên, trên đó oằn lên một số sinh vật. Sinh vật  
Nghị Quế chồng, sinh vật Nghị Quế vợ, mà lòng tham đã hết tính người”.  
Tử độc đáo mang tính hai mặt, sử dụng đúng lúc đúng chỗ ta có đoạn văn,  
câu văn hay, ngược lại dễ rơi vào sáo rỗng, khoe chữ. Đó chưa kể nhiều học  
sinh không hiểu đúng từ vẫn dùng bừa, dùng ẩu. Từ ngữ vốn chung của  
cộng đồng nhưng trong thực tế những từ không phải ai cũng sử dụng đúng,  
dùng hay. Tôi luôn có yêu cầu học sinh nên có một cuốn sổ tay dùng từ, giải  
nghĩa những từ dặc biệt và cách sử dụng chúng.  
3. Viết câu linh hoạt  
Bài văn hay là bài văn biết vận dụng tất cả các loại câu một cách thật linh  
hoạt. Tính linh hoạt trong việc sử dụng câu thể hiện ở chỗ: Tùy từng lúc, từng  
nơi, tuỳ từng giọng văn từng đoạn mà có những loại câu tương ứng để diễn đạt  
cho phù hợp.  
Có lúc để diễn đạt tình cảm và thái độ của mình, người viết sử dụng  
trực tiếp câu cảm thán như:  
“Than ôi ! Thời oanh liệt nay còn đâu ?”  
(Thế Lữ)  
Hay:  
Trời đất ơi ! Tú bà nói không đầy nửa phút mà nước bọt mép của mụ  
văng ra mãi tới ngàn năm”  
Khi muốn gây chú ý cho người đọc ta có thể dùng câu hỏi tu từ.  
dụ 1:  
8
“Thương thì đã vậy, còn oán ? Thực ra Nguyễn Du không biết oán ai, bởi  
vì theo Nguyễn Du thì bao nhiêu đau thương khác đâu phải đều do những kẻ  
“bài binh bố trận mà ngay cả những kẻ ấy, Nguyễn Du cũng thấy họ đáng  
thương…”  
dụ 2: Phải chăng tinh hoa ngàn năm văn hiến của dân tộc ta đã hội tụ  
thăng hoa nơi “Truyện Kiều”?  
dụ 3: … Có phải đám mây ấy vẫn còn vấn vương bầu trời bát ngát  
xanh của mùa hạ dễ thương?  
dụ 4: Phải chăng chính tình yêu thương chồng đã tạo nên sức mạnh phi  
thường của chị Dậu?  
Có lúc câu hỏi tu từ lại được đặt ở cuối đoạn, cuối bài. Kết thúc bằng câu  
hỏi như thế có tác dụng lôi cuốn người đọc, buộc họ phải suy nghĩ tiếp.  
thể dùng câu nhiều vế: Câu nhiều vế sẽ làm cho nội dung diễn đạt  
sinh động, sâu sắc hơn.  
VD1: Tuổi già, vợ mất sớm, con đi biền biệt phương xa, lão Hạc hiểu hơn  
ai hết nỗi buồn của cuộc đời độc.  
VD2: Hương ổi ngọt ngào, gió thu dịu nhẹ, sương chùng chình qua ngõ,  
sông dềnh dàng, những cánh chim vội vã, tất cả đã kết dệt lên một thời điểm  
giao mùa hạ thu tuyêt đẹp.  
VD3: Mẹ chồng qua đời, con còn nhỏ, chồng đi lính, Vũ Nương ở nhà đã  
làm tròn bổn phận của một người con dâu hiếu thảo, một người mẹ tốt, một  
người vợ thủy chung.  
thể dùng câu đặc biệt: câu đặc biệt có tác dụng nhấn mạnh ý, gây  
ấn tượng cho người đọc và có giá trị biểu cảm cao.  
VD1: Yêu thương! Đó là thông điệp thiết tha mà con người sống trên đời  
cần thực hiện.  
VD2: Thơ! Đó những rung động sâu xa nhất của trái tim.  
VD3: Đọc sách! Đọc sách có ý nghĩa vô cùng quan trọng.  
thể dùng câu văn có phép so sánh: cách viết câu này làm cho lời  
văn gợi cảm, hấp dẫn hơn.  
9
VD1: Như ánh chớp rực sáng chiếu rọi trời đông, Từ Hải- vị cứu tinh của  
đời Kiều đã xuất hiện.  
VD2 : Như một nét vẽ độc đáo tạo nên cái hồn của bức tranh, màu trắng  
tinh khôi của hoa lê đã phô bày nét thanh xuân tươi trẻ của mùa xuân.  
VD3 : Nếu tình mẫu tử giống như những con sóng liên hồi ở bề nổi thì  
phụ tử thâm tình giống như những con sóng ở bề sâu, không dễ gì nhìn thấy  
được.  
Một loại câu cũng được vận dụng làm thay đổi giọng vặn trong bài nghị  
luận loại câu có hai mệnh đề hô – hứng. Chúng thường kết cấu theo lối:  
“Tuy… nhưng”, “càng…càng”… Trong nhiều trường hợp, câu khẳng định được  
diễn đạt bằng câu phủ định của phủ định nhằm nhấn mạnh sự khẳng định này.  
Tuy nhiên, bài văn nhiều khi cần tránh sự khẳng định tuyệt đối. học sinh viết  
“Chỉ văn học mới đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con người” lẽ ra chỉ  
nên viết: “văn học góp phần đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con người”.  
* Ở những câu mang tính đánh giá khái quát trên, để biểu hiện sự trân  
trọng, chín chắn trong suy nghĩ, người ta thường viết câu mở đầu với những  
cụm từ như: nhìn chung, về cơ bản, về một phương diện nào đó, thường, hầu  
hết…tóm lại, trong một bài văn nghị luận, viết câu phải thật linh hoạt từ và  
câu là những đơn vị người đọc dễ nhận thấy cái hay của sự diễn đạt.  
4. Viết văn có hình ảnh  
Văn nghị luận nói chung là loại văn của tư duy, khái niệm của suy lý  
logic. Ý tứ cần chặt chẽ, sáng sủa, lập luận phải chắc chắn, bảo đảm độ chính  
xác cao, giàu sức thuyết phục đối với trí tuệ. Ngôn ngữ văn nghị luận cũng cần  
phải hấp dẫn, lôi cuốn bằng từ ngữ có tính hình tượng và có sức biểu cảm cao.  
Văn nghị luận cũng cần sự tươi mát trong cách riêng của mình. Bài văn  
nghị luận hay là bài văn giàu sức thuyết phục luận, vừa giàu hình ảnh. Hình  
ảnh làm tăng sức thuyết phục, làm cho chân lí vừa sáng tỏ, vừa thấm thía. Biện  
pháp cơ bản nhất để tạo nên bài viết có hình ảnh người viết dùng phép so  
sánh, đối chiếu, liên hệ. Những so sánh này phải chính xác, đích đáng vừa bất  
ngờ, thú vị. So sánh bao giờ cũng sức gợi cảm, gợi trí tưởng tượng phong phú  
10  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 20 trang minhvan 10/03/2024 1220
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Cách tạo nên một bài văn nghị luận hay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_cach_tao_nen_mot_bai_van_nghi_luan_hay.doc