SKKN Các giải pháp nâng cao chất lượng học phân môn Tập đọc – Kể chuyện lớp 3
Chương trình Tiếng Việt lớp 3 không có tiết Kể chuyện riêng mà bố trí trong bài tập đọc hai tiết ở đầu mỗi tuần.Khi học sinh đọc, kể lại được tác phẩm văn chương con người không chỉ thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động về tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, được khơi dạy năng lực hành động, sức mạnh cũng như bồi dưỡng tâm hồn.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do CHän ®Ò tµi:
1. C¬ së lý luËn
Môn Tiếng Việt có vị trí quan trọng trong tất cả các môn ở trường.Việc
giảng dạy và học tập môn Tiếng Việt đã góp phần hình thành và phát triển bốn
kĩ năng khi sử dụng tiếng Việt, đó là: nghe, nói, đọc, viết để tiếp tục học lên các
bậc cao hơn và để giao tiếp trong sinh hoạt hằng ngày. Đồng thời nó rèn luyện
cho học sinh thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, khái quát, hệ thống…
Ngoài ra môn Tiếng Việt còn giúp nâng cao phẩm chất tư duy và năng lực về
nhận thức cho học sinh.
Khi học môn Tiếng Việt, các em sẽ được cung cấp các hiểu biết sơ giản về
hệ thông tiếng Việt và tri thức sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp. Song song với
nó, các em còn tiếp thu được những hiểu biết về xã hội, tự nhiên và con người,
về văn hóa và con người Việt Nam và nước ngoài. Tình yêu tiếng Việt của các
em sẽ được hình thành và phát triển thông qua việc học môn này, các em sẽ có ý
thức đối với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Tất cả những điều đó sẽ
góp phần hình thành nên nhân cách của con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tiếng Việt ở tiểu học gồm nhiều phân môn Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Tập
làm văn, Tập viết, Luyện từ và câu. Trong hệ thống đó, mỗi phân môn lại đóng
góp một vai trò vô cùng quan trọng. Dạy phân môn Tập đọc ở tiểu học nói chung
và dạy phân môn Tập đọc - Kể chuyện nói riêng ở lớp 3 đang là một vấn đề
không chỉ nhà trường mà các giáo viên cũng đặc biệt quan tâm. Tập đọc là môn
học mang tính chất tổng hợp vì ngoài nhiệm vụ dạy học nó còn nhiệm vụ trau
dồi kiến thức về tiếng Việt cho học sinh (về phát âm, từ ngữ, câu văn….) kiến
thức bước đầu về văn học, đời sống và giáo dục tình cảm. Bước vào bậc Tiểu
học, học sinh đã thật sự bước vào một quá trình học tập rèn luyện để làm giàu
vốn hiểu biết của mình bằng vốn tri thức của toàn nhân loại. Mà vốn hiểu biết
ấy được làm giàu bằng nhiều cách. Các em có thể dùng con mắt để quan sát, thu
nhận thông tin, mọi cảnh quan của thiên nhiên; dùng đôi tai tinh nhạy ghi nhận
1
âm thanh của trời đất, của cuộc sống và có thể dùng trí tuệ của mình để phân
tích, đánh giá các hiện tượng tự nhiên, xã hội theo một cách riêng.Để làm được
việc đó, các em rất cần được trang bị cho bản thân một kĩ năng đọc và khả năng
cảm nhận, ghi nhớ tốt nhất.
2. Cơ sở thực tiễn
Trong thực tế ở lớp 3, chương trình dạy Tập đọc vô cùng phong phú và đa
dạng. Trong phân phối chương trình gồm 31 bài Tập đọc – Kể chuyện ( mỗi bài
dạy trong 2 tiết ) và 31 bài Tập đọc ( mỗi bài dạy trong 1 tiết ) thuộc 15 chủ đề :
- Măng non, Mái ấm, Tới trường, Cộng đồng, Quê hương, Bắc – Trung –
Nam, Anh em một nhà, Thành thị và Nông thôn.
- Bảo vệ Tổ quốc, Sáng tạo, Nghệ thuật, Lễ hội, Thể thao, Ngôi nhà chung,
Bầu trời và mặt đất.
Chương trình Tiếng Việt lớp 3 không có tiết Kể chuyện riêng mà bố trí trong
bài tập đọc hai tiết ở đầu mỗi tuần.Khi học sinh đọc, kể lại được tác phẩm văn
chương con người không chỉ thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động về tình
cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, được khơi dạy năng lực hành động, sức
mạnh cũng như bồi dưỡng tâm hồn. Do đó Tập đọc - Kể chuyện đóng một vai
trò cực kì quan trọng trong dạy môn Tiếng Việt ở tiểu học. Đọc giúp học sinh có
thể giải mã được các tín hiệu ngôn ngữ, thông hiểu văn bản, giúp học sinh hiểu
biết hơn, bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện, dạy cho các em biết suy nghĩ
một cách logic cũng như có hình ảnh. Kể chuyện giúp cho các em cảm thụ tốt
hơn cái hay, cái đẹp của tác phẩm, góp phần tích lũy vốn văn học, mở rộng vốn
sống cho trẻ. Từ đó gieo vào tâm hồn các em những ước mơ, hoài bão về một
tương lai tươi đẹp. Góp phần rèn luyện và phát triển kĩ năng nói, kể trước đám
đông. Qua đó, các em sẽ tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp với mọi người
để thu hút sự chú ý của mọi người, các em phải tìm cách làm sao để đọc và kể
sao cho hấp dẫn nhất.
Nếu chất lượng phân môn Tập đọc – Kể chuyện được nâng cao, các em sẽ
có điều kiện thuận lợi trong quá trình học tập các môn khác. Vậy làm thế nào để
nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Tập đọc – Kể chuyện ? Đó là điều tôi
2
luôn băn khoăn suy nghĩ và trong năm học này tôi chọn cho mình đề tài nghiên
cứu “ Các giải pháp nâng cao chất lượng học phân môn Tập đọc – Kể chuyện
lớp 3. ”.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tôi nghiên cứu đề tài này với mục đích cụ thể như sau:
- Nâng cao hiểu quả dạy học phân môn Tập đọc – Kể chuyện lớp 3.
- Giúp học sinh có khả năng đọc diễn cảm và kể chuyện tự nhiên hơn.
- Tạo hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em nhận thấy tầm quan trọng của
phân môn Tập đọc – Kể chuyện, từ đó giáo dục động cơ học tập cho các em.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để đạt được những mục tiêu đã đề ra ở trên tôi đã thực hiện những nhiệm vụ
sau:
- Khảo sát và đánh giá thực trạng đọc và kể chuyện của học sinh lớp mình giảng
dạy.
- Cố gắng tìm ra một số biện pháp để tháo gỡ những khó khăn trong việc dạy
phân môn Tập đọc – Kể chuyện cho học sinh.
- Nghiên cứu những vấn đề lí luận có liên quan đến việc rèn kĩ năng đọc và kể
chuyện cho học sinh.
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã tiến hành sử dụng phối hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp quan sát sư phạm.
- Phương pháp phỏng vấn
V. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Học sinh lớp 3G trường tôi.
VI. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
Từ tháng 9 năm 2017 đến hết tháng 3 năm 2018.
3
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Môn Tiếng Việt ở trường có nhiệm vụ hình thành hoạt động ngôn ngữ cho học
sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong 4 dạng hoạt động, tương
ứng với chúng là bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết.
Vì những lẽ trên, dạy phân môn Tập đọc có một ý nghĩa vô cùng to lớn ở
Tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên với mỗi người đi học. Đầu
tiên trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. Từ đó giúp trẻ chiếm lĩnh ngôn
ngữ dùng để giao tiếp và học tập. Đọc là công cụ để học các môn học khác.
Bên cạnh đó, phân môn Kể chuyện có vị trí đặc biệt quan trọng không
kém trong dạy học tiếng mẹ đẻ, vì hành động kể là một hành động “nói” đặc biệt
trong hoạt động giao tiếp. Kể chuyện vận dụng một cách tổng hợp sự hiểu biết
về đời sống và tạo điều kiện để học sinh rèn luyện một cách tổng hợp các kĩ
năng Tiếng Việt như nghe, đọc, nói trong hoat động giao tiếp. Khi đọc, học sinh
đã tiếp nhận tác phẩm văn học ở dạng có âm thanh (đọc thành tiếng). Khi kể
chuyện, các em đang tái sản sinh một tác phẩm nghệ thuật ở dạng lời nói. Vì
truyện là một tác phẩm văn học nên kể chuyện có cả sức mạnh của văn học.
Truyện có khả năng bồi dưỡng tâm hồn trẻ thơ. Sự hiểu biết về cuộc sống, về
con người, tâm hồn, tình cảm của các em sẽ nghèo đi biết bao nhiêu nếu không
có môn học Kể chuyện trong trường học.Kể chuyện ở lớp 3 được gắn bó chặt
chẽ với phân môn Tập đọc, đều là kể lại câu chuyện học sinh đã đọc trong bài
tập đọc đầu mỗi tuần trong thời gian 0,5 tiết.
Dạy tốt phân môn Tập đọc – Kể chuyện là tạo cho học sinh một nền tảng
vững chắc để học tốt môn học Tiếng Việt và tất cả các môn học khác. Có đọc
đúng, đọc trôi chảy mới cảm thụ được bài văn và từ đó sẽ hiểu tất cả các văn bản
khác để diễn đạt bằng lời thật tốt. Nhà trường phải từng bước hình thành và
trường Tiểu học nhận nhiệm vụ đặt nền móng đầu tiên.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
4
Năm học 2017 – 2018 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 3G với tổng số 60
học sinh. Sau khi nhận lớp, qua quá trình giảng dạy học sinh, tôi thấy lớp tôi có
những thuận lợi và khó khăn như sau :
1.Thuận lợi :
- Đa số học sinh ngoan có ý thức phấn đấu vươn lên trong học tập. Trong lớp
có nhiều em yêu thích học môn Tiếng Việt; đọc to rõ ràng; học thuộc bài nhanh
và rất tích cực phát biểu xây dựng bài. Cha mẹ học sinh luôn quan tâm sát sao và
tạo mọi điều kiện tốt nhất cho con trong quá trình học tập.
- Cơ sở vật chất : Trường lớp sạch sẽ, thoáng mát. Lớp học đủ ánh sáng và
được trang bị đầy đủ đồ dùng học tập cũng như đồ dùng bán trú. Đây là yếu tố
luôn mang lại sự thoải mái giúp cho học sinh học tập tốt hơn.
- Các đồng chí trong Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm chỉ đạo sát sao
trong lĩnh vực chuyên môn. Nhắc nhở và giúp đỡ kịp thời tới từng giáo viên
trong quá trình giảng dạy, tạo điều kiện tốt giúp học sinh đạt được kết quả cao
trong học tập.
2. Khã kh¨n.
- Trong thực tế giảng dạy phân môn Tập đọc – Kể chuyện ở lớp 3 hiện nay
tôi nhận thấy giáo viên đã dạy đúng chương trình và sách giáo khoa, học sinh
nắm chắc nội dung bài và được rèn đọc tốt hơn. Tất cả học sinh đều được tham
gia đọc và kể (theo cá nhân, cặp đôi, nhóm). Tuy nhiên, không thể tránh khỏi
những tồn tại và khó khăn. Một số giáo viên phối hợp các hình thức dạy học còn
máy móc, chưa chú ý hướng dẫn đọc diễn cảm, sửa ngọng cho học sinh, phân bố
thời gian tiết dạy chưa hợp lý, chưa phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động cá nhân
với thảo luận nhóm của học sinh, chưa khuyến khích học sinh phát huy tính sang
tạo khi kể chuyện, chưa khai thác đồ dùng hợp lý….
- Đầu năm học, sau khi dạy xong một bài Tập đọc – Kể chuyện, tôi đã thu
được kết quả khảo sát cụ thể ở lớp tôi như sau:
5
Kĩ năng đọc và kể
chuyện chưa tốt
Kĩ năng đọc và kể
Kĩ năng đọc và kể
chuyện tốt
Tổng số
chuyện bình thường
HS
Số lượng
Tỷ lệ
Số lượng
Tỷ lệ
Số lượng
Tỷ lệ
60
22
36,6%
25
34,8%
13
21,6%
III . GIẢI PHÁP
Đứng trước tầm quan trọng, vị trí nhiệm vụ của phân môn Tập đọc – Kể
chuyện và dạy học phân môn này ở lớp 3 cũng như tình hình thực tế giảng dạy
hiện nay, tôi mạnh dạn xin trình bày các giải pháp nâng cao chất lượng dạy và
học phân môn Tập đọc – Kể chuyện lớp như sau:
1. Biện pháp 1: Điều tra về cấu trúc, kĩ năng, nội dung chương
trinh phần Tập đọc, Kể chuyện ở lớp 3
a. Kĩ năng đọc
- Đọc một số văn bản nghệ thuật, hành chính, báo chí, khoa học thưởng thức
(chú trọng đọc tên riêng nước ngoài, từ dễ đọc sai do ảnh hưởng của cách phát
âm địa phương).
- Đọc thầm tìm hiểu ý chính của đoạn, nội dung của bài; nhận xét về nhân vật,
hình ảnh, chi tiết; đặt đầu đề cho đoạn văn, tác phẩm.
- Đọc thuộc một số bài thơ, bài văn, đoạn văn ngắn.
b. Kĩ năng kể chuyện
- Kể từng đoạn hoặc kể lại toàn bộ câu chuyện sau khi đọc tác phẩm.
- Kể lại câu chuyện theo lời của nhân vật.
c. Cấu trúc dạng bài Tập đọc - Kể chuyện
Tập đọc được học trong 31 tuần (không kể 4 tuần ôn tập), được phân bố vào
từng tuần với các phân môn khác với 15 chủ điểm. Mối tuần có 2 tiết Tập đọc
trong đó Tập đọc đầu tuần là dạng bài Tập đọc - Kể chuyện. 31 tuần là 31 câu
chuyện giúp học sinh mở rộng tầm hiểu biết. Các dạng bài Kể chuyện thuộc
phân môn Tập đọc có cấu trúc và yêu cầu khác nhau như sau:
Cấu trúc dạng bài Tập đọc – Kể chuyện:
6
- Câu chuyện có lời thoại: 22 bài.
- Câu chuyện dạng tự sự: 9 bài.
Yêu cầu của phần Kể chuyện:
- Yêu cầu dựa vào tranh để kể: 17 bài.
- Yêu cầu dựa vào câu gợi ý: 7 bài.
- Các yêu cầu khác: 7 bài.
2. Biện pháp 2: Phân loại học sinh
Để giúp cho việc dạy học theo đối tượng học sinh có hiệu quả, ngay từ
đầu năm học, tôi đã điều tra và theo dõi việc đọc, kể chuyện của các em hàng
ngày để ghi vào sổ theo dõi; ghi chi tiết về ưu, nhược điểm của mỗi em; để lên
kế hoạch học theo nội dung, chương trình và thời điểm của năm học, đồng thời
theo dõi sự tiến bộ từng ngày của các em, dù là rất nhỏ.
Từ đó kịp thời động viên, khuyến khích các em và thay đổi kế hoạch dạy
học sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. Có như vậy mới có thể giúp
các em phát huy được ưu điểm, khắc phục được những mặt còn hạn chế. Tôi đã
sắp xếp chỗ cho các em học sinh đọc yếu ngồi cạnh các bạn đọc khá, đọc tốt để
trở thành đôi bạn cùng tiến, giúp đỡ nhau trong việc đọc khi hoạt động cá nhân,
nhóm hay cặp đôi. Đồng thời nêu tầm quan trọng, yêu cầu cơ bản về việc rèn kĩ
năng đọc diễn cảm giúp các em cảm thụ tác phẩm văn học, dựa vào đó mới có
thể kể lại, truyền đạt lại một cách sinh động, lôi cuốn người nghe.
3. Biện pháp 3: Nâng cao chất lượng dạy và học qua hoạt động
làm mẫu của giáo viên
Đối với đối tượng là học sinh tiểu học thì việc làm mẫu của giáo viên đóng một
vai trò quan trọng.
Chỉ chiếm 0,5 thời gian trong 1 tiết học nên việc giáo viên kể chuyện mẫu
thường diễn ra không thường xuyên. Thay vào đó giáo viên sẽ gợi ý cho các em
cách kể chuyện sao cho tự nhiên, giáo viên có thể hướng dẫn kể mẫu một đoạn
nào quá khó kết hợp với lời hướng dẫn. Giáo viên đưa ra một số cách kể mẫu,
khuyến khích học sinh dùng cử chỉ, điệu bộ sao cho sinh động và có thể làm mẫu
cho các em, từ đó học sinh mới phát huy được khả năng sáng tạo của học sinh.
7
4.Biện pháp 4 : Chú trọng sự chuẩn bị của học sinh
Học sinh ít đọc sách, không chịu đọc sách ở nhà. Nếu có đọc thì học sinh
cũng chưa biết cách đọc, chỉ đọc một cách đại khái qua loa, đọc cho có học, lười
tìm hiểu; học sinh đọc còn chậm, chưa biết cách ngắt nghỉ hơi khi đọc; chưa có
sự chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp với tiết kể chuyện.
Chính vì những tồn tại đó, trước khi kết thúc một tiết Tập đọc bao giờ tôi
cũng dành một ít phút dặn dò học sinh chuẩn bị trước bài sau. Đọc nhiều lần ở
nhà cho trôi chảy và chuẩn bị trước phần câu hỏi, tìm hiểu nội dung bài trong
sách giáo khoa để nắm rõ nội dung bài. Từ đó dặn học sinh tập kể chuyện miệng
trước ở nhà đối với tiết Tập đọc đầu tuần để khi lên lớp kể các em không bị lúng
túng do thiếu tự tin trước đám đông hay vì chưa nắm được nội dung truyện.
5. Biện pháp 5: Rèn kĩ năng Tập đọc, Kể chuyện cho học sinh
5.1.Tập đọc
a. Chuẩn bị đọc cho học sinh
Tôi luôn chú ý đến tư thế đọc của học sinh. Khi ngồi đọc cần ngay ngắn,
khoảng cách từ sách đến mắt khoảng 30- 35cm, cổ và đầu thẳng. Khi cô giáo gọi
đọc phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp đọc ngay. Trước khi đọc câu đầu, đoạn
đầu hay toàn bài phải đọc tên bài. Tư thế đứng đọc phải đoàng hoàng, thoải mái,
sách phải được mở rộng và cầm bằng hai tay.
b. Luyện phát âm đúng và sửa ngọng cho học sinh thông qua việc đọc thành
tiếng
Đầu năm tôi đã phân loại để nắm được trình độ của học sinh và chia các
đối tượng như đã nói ở trên. Sau đó tôi phân nhóm, mỗi nhóm có các đối tượng:
giỏi, khá, trung bình để các em tự hỗ trợ và có ý thức cùng nhau tiến bộ hơn.
Chú ý đến những học sinh phát âm nặng do ảnh hưởng địa phương để từ đó có
kế hoạch luyện đọc cho từng em. Tôi đặc biệt quan tâm đến những em học sinh
yếu, là giáo viên chủ nhiệm lớp tôi đã thường xuyên liên lạc với gia đình để
cùng hỗ trợ em trong việc luyện đọc ở nhà. Bên cạnh đó, tôi cũng quan tâm đến
8
những đối tượng khác để phát huy được năng lực, sở trường của từng em trong
lớp.
Để luyện phát âm đúng, sửa được ngọng cho học sinh, trước hết và thực
chất phải giải quyết vấn đề phương ngữ. Mục tiêu của chúng ta đặt ra là luyện
cho học sinh vươn đến một tiếng nói dân tộc Việt Nam thống nhất, đẹp đẽ về
mặt âm thanh. Muốn vậy, chúng ta phải luyện cho học sinh đọc đúng, hay trong
phạm vi giao tiếp rộng hơn phương ngữ hẹp của mình.
Khi hướng dẫn phát âm tôi phân tích cho các em thấy sự khác biệt của
phát âm đúng và phát âm sai mà các em mắc phải. Giáo viên làm mẫu hoặc mô
tả hệ thống môi, răng, lưỡi khi phát âm.
Ví dụ: Khi dạy bài“Cô giáo tí hon” (Tiếng Việt 3, tập 1)có đoạn:
“Mấy đứa nhỏ làm y hệt đám học trò, đứng cả dậy, khúc khích cười chào
cô”.
“Đàn em ríu rít đánh vần theo. Thằng Hiển ngọng líu, nói không kịp hai
đứa lớn. Cái Anh hai má núng nính, ngồi gọn tròn như củ khoai, bao giờ cũng
giành phần đọc xong trước”.
Để học sinh đọc tốt các từ khúc khích, ríu rít, ngọng líu, núng nính giáo
viên phát âm chuẩn là học sinh sẽ đọc đúng theo. Với nhiều em do quá ảnh
hưởng bởi địa phương, dù phát âm nhiều lần nhưng vẫn bị sai: núng nính đọc sai
thành lúng lính, ngọng líu đọc sai thành ngọng níu dù đã được nghe cô và các
bạn đọc đúng. Vì vậy, tôi đã hướng dẫn các em cách phát âm l - n (lờ/nờ) bằng
một số cách sau:
- Hướng dẫn học sinh đặt lưỡi đúng vị trí khi phát âm:
+ Âm n: đầu lưỡi đặt ở chân răng hàm trên vòm cứng, lúc này miệng hơi mở, khi
nói, lưỡi cứng và bật nhẹ đầu lưỡi xuống, phát âm “nờ”.
+ Âm l: đầu lưỡi đặt ở chân hàm răng trên, lúc này miêng hơi mở, khi nói uốn
nhanh đầu lưỡi cong lên, bật mạnh và rơi tự do xuống, phát âm “lờ”.
- Luyện phát âm bằng cách tìm những câu nói, bài thơ, cụm từ giúp dễ
phân biệt l/n:
+ Nếu nói lầm lẫn lần này thì lại nói lại.
9
+
Nói năng nên luyện luôn luôn
Nói lời lưu loát luyện luôn lúc này
Lẽ nào nao núng lung lay
Lên lớp lú lẫn lại hay nói lầm.
Ngoài ra, giáo viên cần chú ý luyện đọc đúng cho các em các vần dễ nhẫm
lẫn như: ưu, ươu, uyu, uya... trong các từ như lưu luyến, con hươu, đêm khuya,
khuỷu tay…;các tiếng có âm đầu s - x, ch - tr, hay r - d - gi.
Giáo viên vận dụng phương pháp luyện đọc theo mẫu, yêu cầu học sinh
nghe và nhìn; giáo viên đọc mẫu thật chuẩn, học sinh chú ý nghe và nhìn miệng
giáo viên để đọc theo, học sinh sẽ nhận diện và khắc sâu trí nhớ cách đọc sao
cho đúng. Khi đọc tên riêng nước ngoài như: Ê-đi-xơn, Cô-rét-ti, En-ri-cô… cần
phải đọc tốc độ vừa phải, không nên đọc chậm hay ngắt rời rạc từng
tiếng.Những phần luyện này tôi luôn kết hợp trong phần luyện đọc cá nhân. Vì
vậy, dù đọc ở mức độ nào cũng phải yêu cầu phát âm đúng, tuy nhiên cũng
không nên quá nhấn mạnh ở các phụ âm như: tr- ch, s - x, r – d- gi làm giọng
đọc mất tự nhiên.
c. Luyện cho học sinh đọc ngắt nghỉ đúng
Ngoài việc rèn đọc đúng, chính xác, giáo viên cần hướng dẫn học sinh
ngắt nghỉ hợp lý để đọc đúng nội dung. Thực tế trong lớp vẫn còn có một số học
sinh hiểu sai nghĩa nên ngắt sai. Đối với những bài văn xuôi, khi đọc phải nghỉ
hơi theo dấu câu nhưng có em lại đọc luôn một mạch. Các em cứ đọc mãi đến
khi nào hết hơi của mình rồi mới chịu nghỉ để lấy hơi đọc tiếp, hết hơi chỗ nào
lại ngắt hơi đúng chỗ đó. Khiến cho người nghe thấy khó hiểu ý nghĩa của câu
văn. Vì vậy, giáo viên có định hướng cho các em bằng các câu hỏi gợi mở:
Việc ngắt nghỉ hơi phải phù hợp với dấu câu: nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu
hơn ở dấu chấm. Phải dựa vào nghĩa và quan hệ ngữ pháp để xác định cách ngắt
nhịp đúng các câu. Khi đọc ngắt nhịp đúng câu, giáo viên gọi một số em đọc
đúng và cho cả lớp đánh dấu vào sách bằng kí hiệu cho dễ nhớ.Học sinh luyện
đọc đoạn cần luyện đọc đúng. Lưu ý tới việc ngắt nghỉ theo dấu câu và ngắt với
10
câu văn dài. Học sinh còn cần chú ý đến các bài tập đọc dạng bài thơ để ngắt
nghỉ đúng dòng thơ, khổ thơ, thể thơ.
Đối với bài thơ, tùy theo từng thể loại thơ mà tôi hướng dẫn học sinh cách
đọc sao cho đúng nhịp câu thơ. Tuy vậy cũng phải dựa vào từng dòng cụ thể để
ngắt cho đúng để ý nghĩa câu thơ, đoạn thơ được bộc lộ đúng.
Ví dụ:
Bài “Về quê ngoại” (Tiếng Việt 3, tập 1)
“Em về quê ngoại/ nghỉ hè,/
Găp đầm sen nở/ mà mê hương trời.//
Gặp bà/ tuổi đã tám mươi,/
Quên quên/ nhớ nhớ những lời ngày xưa”.//
d. Luyện đọc diễn cảm cho học sinh
Đọc diễn cảm ở đây được hiểu là đọc hay, được xem là một yêu cầu đặt ra
khi đọc một văn bản, một tác phẩm. Ở Tiểu học không yêu cầu học sinh có
phong cách đọc riêng mà yêu cầu học sinh có ý thức đọc đúng ngữ điệu để biểu
đạt đúng ý nghĩa, tình cảm mà tác giả đã gửi gắm vào trong tác phẩm, đồng thời
biểu hiện sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm.
Giáo viên có thể đọc mẫu sau đó dùng câu hỏi gợi mở cho học sinh để thôi
thúc khả năng tư duy, tự tìm ra cách đọc của các em. Tôi chỉ là người lắng nghe
và sửa cách đọc cho từng em học sinh. Tôi luôn khuyến khích các em cố gắng
đọc diễn cảm.
Ví dụ: Sau mỗi bài tập đọc tôi thường hướng dẫn các em đọc diễn cảm cả
bài hoặc một đoạn. Hướng dẫn học sinh đọc phù hợp với nội dung của đoạn. Tổ
chức các thi đọc diễn cảm, đọc phân vai…(đối với tác phẩm có nhiều lời thoại).
Chính vì vậy mà giờ Tập đọc lớp tôi, các em rất thích và hào hứng khi tham gia
đọc diễn cảm.
Dưới đây tôi xin đi vào chi tiết một số phương diện liên quan đến đọc diễn
cảm, nghiên cứu sâu để giúp các em đọc tốt hơn:
Cao độ: Khi nói đến việc sử dụng cao độ để đọc diễn cảm là muốn nói
đến những chỗ lên giọng, xuống giọng có dụng ý nghệ thuật. Phần tập đọc trong
11
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Các giải pháp nâng cao chất lượng học phân môn Tập đọc – Kể chuyện lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
skkn_cac_giai_phap_nang_cao_chat_luong_hoc_phan_mon_tap_doc.pdf