SKKN Biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4

Đặc biệt, môn Tiếng Việt lại có nhiều phân môn khác nhau. Mỗi phân môn chứa những nội dung, kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau; song phân môn Tập làm văn là một trong những phân môn quan trọng nhất và khó nhất đối với học sinh Tiểu học.
SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NỘI  
------------------------  
Mã SKKN  
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM  
BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN MIÊU TẢ  
CHO HỌC SINH LỚP 4  
Giáo viên: Vũ Thị Thảo Giang  
Môn : Tập làm văn  
Cấp học : Tiểu học  
NĂM HỌC 2018 - 2019  
MỤC LỤC  
1
PHẦN 1 : ĐẶT VẤN ĐỀ  
1.1. Lí do chọn đề tài  
Như chúng ta đã biết, ở Tiểu học, môn Tiếng Việt một vị trí đặc biệt  
quan trọng. Đây là môn học hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử  
dụng Tiếng Việt để học tập và giao tiếp, góp phần rèn luyện thao tác duy, tạo  
điều kiện cơ sở cho học sinh học tốt các môn học khác.  
Đặc biệt, môn Tiếng Việt lại nhiều phân môn khác nhau. Mỗi phân  
môn chứa những nội dung, kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau; song  
phân môn Tập làm văn một trong những phân môn quan trọng nhất và khó  
nhất đối với học sinh Tiểu học. Nó trang bị kiến thức và rèn luyện kĩ năng sản  
sinh ngôn ngữ nói và viết, góp phần cùng với các môn học khác mở rộng vốn từ,  
rèn luyện khả năng tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, thẩm mĩ nhằm hình  
thành nhân cách con người. Ở lớp Bốn, văn miêu tả dạng bài dựa vào những  
căn cứ quan sát được, cảm nhận về đối tượng (cây cối, con vật, đồ vật) đã để lại  
ấn tượng. Từ những hình ảnh trực quan sinh động đó chuyển sang duy trừu  
tượng sản sinh ngôn ngữ. Đối với học sinh lớp Bốn, việc nói đúng, viết đúng,  
diễn đạt mạch lạc đã khó; vậy để làm văn hay có cảm xúc, giàu hình ảnh lại  
càng khó hơn nhiều. Để dạy tốt phân môn này, đòi hỏi người giáo viên phải luôn  
tìm tòi phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, tổ chức hướng dẫn các hoạt động  
linh hoạt nhằm kích thích các em hứng thú học tập, lĩnh hội được kiến thức có  
hiệu quả.  
Xuất phát từ thực tế như vậy, là giáo viên đứng lớp, tôi luôn không ngừng  
nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy học sao  
cho giảng dạy đạt hiệu quả. Vậy làm thế nào để dạy tốt phân môn Tập làm văn  
nhằm góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt? vậy tôi đã chọn nghiên  
cứu đề tài : “Biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4”  
1.2. Mục đích nghiên cứu  
- Tìm hiểu nguyên nhân khiến học sinh nhầm lẫn giữa miêu tả kể lại.  
- Tìm hiểu nguyên nhân khiến học sinh chưa biết cách diễn đạt suy nghĩ  
của mình, những điều mà mình quan sát được thành câu văn hay, đoạn văn hay.  
2
     
- Tìm ra phương pháp để giúp học sinh biết cách quan sát, miêu tả sao cho  
với bất sự vật nào thì học sinh cũng thể miêu tả được.  
- Nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn ở lớp 4 để  
học sinh phát triển được tư duy, nâng cao khả năng mở rộng, suy nghĩ để viết  
được những câu văn hay.  
1.3. Phương pháp nghiên cứu  
- Tìm hiểu, ghi chép lại những lỗi sai mà học sinh hay mắc phải khi viết bài  
văn miêu tả.  
- Xây dựng các tiết học Tiếng Việt ( trong đó có các phân môn Tập đọc,  
Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Kể chuyện ) để nâng cào vốn từ, cách  
đặt câu hay cho học sinh.  
- Cung cấp những tư liệu thực tế cho học sinh để các em có nhiều cơ hội  
quan sát để miêu tả.  
- Thường xuyên luyện tập, kiểm tra, đánh giá kĩ năng của học sinh qua từng  
giờ học, từng tháng, từng kì.  
- Học hỏi các bạn đồng nghiệp hoặc trên sách, báo, internet để tìm ra những  
phương pháp phù hợp với trình độ học sinh.  
1.4. Phạm vi nghiên cứu  
- Học sinh lớp 4A6 trường tiểu học Khương Đình  
- Số lượng học sinh : 62 em  
- Thời gian : năm học 2018 – 2019  
1.5. Nội dung nghiên cứu  
- Nghiên cứu một số vấn đề về thực trạng dạy học phân môn tập làm văn,  
thể loại văn miêu tả ở lớp 4.  
- Nghiên cứu về nội dung chương trình phân môn tập làm văn lớp 4.  
- Nghiên cứu đối tượng học sinh lớp 4 về: Đặc điểm tâm lí lứa tuổi, đặc điểm về  
nhận thức vốn từ, cách các em quan sát, suy nghĩ thể hiện suy nghĩ của  
mình qua các từ ngữ.  
- Dự giờ thăm lớp khối 4 để tìm hiểu về thực trạng của việc dạy học phân  
môn tập làm văn lớp 4.  
3
     
PHẦN 2 : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ  
2.1. CƠ SỞ LUẬN  
Như chúng ta đã biết dạy học Tiếng Việt ở trường Tiểu học gồm nhiều  
phân môn, nhưng Phân môn Tập làm văn một trong những phân môn khó,  
mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Nó có vai trò và vị trí quan trọng trong việc  
hoàn thiện và nâng cao dần kĩ năng sử dụng Tiếng Việt, học sinh đã được  
hình thành và xây dựng ở các phân môn khác. Học tốt được phân môn Tập làm  
văn là giúp cho các em học tốt các môn học khác. Vậy dạy phân môn Tập làm  
văn dạy các kiến thức kĩ năng giúp cho học sinh tạo lập sản sinh ngôn  
bản, đồng thời giáo dục cho các em tình cảm trong sáng, rèn luyện khả năng  
giao tiếp góp phần giữ gìn và phát huy sự trong sáng của Tiếng Việt.  
Mục đích của việc dạy văn miêu tả ở Tiểu học là giúp cho các em học sinh  
có thói quen quan sát, phát hiện những điều mới, thú vị về thế giới xung quanh,  
biết cảm nhận cái hay, cái đẹp trong bài văn, bài thơ, cuộc sống, biết rung động  
trước đối tượng được miêu tả. Rồi từ đó các em có cơ sở để tái hiện lại bằng  
ngôn ngữ giàu hình ảnh vào bài văn miêu tả. Nếu bài tập làm văn thiếu sáng tạo,  
thiếu cảm xúc, không dùng từ ngữ giàu hình ảnh thì trở nên bài văn khô khan,  
nghèo ý. Vậy để làm được bài văn miêu tả hay, không những phải thể hiện rõ  
nét, chính xác, sinh động của đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng  
tượng, tình cảm của mình đối với đối tượng miêu tả. Do đó đòi hỏi học sinh phải  
kiến thức sâu rộng và chính xác của phân môn này, nắm vững mục tiêu chung  
của từng bài, có những hiểu biết cơ bản về nội dung bài học, có trí óc tưởng  
tượng thật phong phú, biết cách dùng từ viết câu phù hợp, viết bố cục rõ ràng,  
diễn đạt mạch lạc...Là một giáo viên giảng dạy lớp Bốn, bản thân tôi luôn trăn  
trở, tìm mọi biện pháp để tạo điều kiện giúp đỡ các em học tốt phân môn này.  
Với những mục đích nêu trên, để giúp học sinh có kĩ năng viết văn miêu tả  
đạt hiệu quả việc làm vô cùng cần thiết.  
2.2. THỰC TRẠNG  
Qua quá trình tìm hiểu việc học phân môn Tập làm văn của học sinh lớp  
4A6 nói riêng và học sinh lớp Bốn ở trường Tiểu học Khương Đình nói chung,  
4
     
tôi nhận thấy trình độ học sinh trong lớp không đồng đều, số lượng học sinh làm  
văn hay ít. Phân môn Tập làm văn lớp 4 vô cùng khó, mang tính trừu tượng cao  
nên phần lớn học sinh không thích học phân môn này.  
Học sinh làm bài hời hợt, chung chung; chưa miêu tả để phân biệt đối  
tượng được miêu tả này với đối tượng khác. Những bài văn dạng này giống văn  
kể hơn văn miêu tả.  
Vốn từ của các em còn nghèo nàn nên dẫn đến diễn đạt lủng củng, dùng từ  
trùng lặp, sai nghĩa, sai lỗi chính tả trong bài Tập làm văn.  
Nhiều em chưa phân biệt từ ngữ sử dụng trong văn nói và văn viết.  
Đa số các em chưa tích cực đọc sách tham khảo để trau dồi cách diễn đạt và  
cách hành văn lưu loát hoặc nếu đọc, các em thường vay mượn ý của sách, lệ  
thuộc vào bài mẫu, thể chép vào làm bài của mình chứ các em chưa biết vận  
dụng, liên tưởng một cách sáng tạo và linh hoạt.  
Sở dĩ thực trạng học sinh nêu trên tôi thiết nghĩ là do những nguyên nhân  
sau:  
* Học sinh:  
- Học sinh chưa thực sự thấy yêu thích môn học.  
- Học sinh chưa biết quan sát đối tượng được miêu tả hoặc quan sát một  
cách qua loa và khi quan sát học sinh không ghi chép lại từng chi tiết cụ thể nên  
khi làm bài văn chưa đạt hiệu quả .  
- Vn tca các em còn nghèo nàn, li không biết sp xếp như thế nào cho bài  
văn mch lc, đảm bo bcc và chưa biết cách chn tng, hình nh miêu t.  
- Học sinh chưa biết cách lập một dàn bài cụ thể để tả.  
- Học sinh chưa biết cách sử dụng biện pháp nghệ thuật vào bài và bộc lộ  
cảm xúc.  
- Cha mẹ học sinh đa phần đều bận rộn công việc và không có chuyên môn  
nên việc hướng dẫn các con cùng cô giáo rất khó.  
* Giáo viên:  
- Giáo viên chưa phân loại từng đối tượng học sinh để đề ra kế hoạch dạy  
học phù hợp.  
5
- Giáo viên chưa khơi gợi sự ham thích học phân môn Tập làm văn, chưa  
phát huy tối đa năng lực học tập cảm thụ văn học của học sinh, chưa bồi  
dưỡng cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt.  
Đặc biệt sau mỗi bài văn, giáo viên chưa hướng dẫn học sinh nhận thấy  
được hình ảnh hay, câu văn hay cần học những chỗ sai cần khắc phục.  
2.3. BIỆN PHÁP  
Từ những thực trạng nêu trên, trong thời gian giảng dạy trên lớp, bản thân  
tôi có những biện pháp như sau:  
2.3.1.Tìm hiểu và phân loại đối tượng học sinh  
Quá trình dạy ở lớp khoảng vài tuần đầu, tôi căn cứ vào đó để phân loại  
từng đối tượng học sinh: học sinh có năng khiếu viết văn, học sinh biết cách  
diễn đạt câu nhưng chưa hay, học sinh chưa biết cách viết .  
Cụ thể:  
Lớp 4A6: 61 em Học sinh có năng khiếu : 5 em - chiếm 8,2 %  
Học sinh viết đúng nhưng chưa hay : 25 em chiếm 41%  
Học sinh chưa biết cách viết  
: 31 em chiếm 50,8 %  
Từ đó, tôi nắm chắc từng đối tượng học sinh để đề ra được kế hoạch dạy  
học phù hợp, phát triển được năng lực viết văn miêu tả, đồng thời giúp những  
em yếu biết vận dụng làm một bài văn miêu tả hoàn chỉnh.  
Chẳng hạn: Học sinh năng khiếu viết được bài văn miêu tả đúng bố cục, có  
sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh, tôi hướng dẫn thêm để học sinh biết sử dụng  
nhiều từ ngữ miêu tả giàu hình ảnh sử dụng các biện pháp nghệ thuật vào  
bài để bài viết hay hơn.  
Cụ thể: Đoạn tả chú gà trống: “Con gà trống ra dáng một con gà trống oai  
vệ. Chú khoác bộ lông tía sặc sỡ nhiều màu sắc. Trên đầu đội chiếc mào đỏ  
chót. Đôi mắt sáng, con ngươi đưa đi đưa lại. Cái đuôi cao vổng lên. Những  
ngón chân có móng vuốt sắc nhọn...(bài viết của em Phạm Tuệ Linh ).  
Tôi khen bài viết của em đã hay, đã biết dùng từ giàu hình ảnh, em cần sử  
dụng thêm phép nghệ thuật vào bài. Tôi hướng dẫn viết lại đoạn viết như sau:  
Chú gà trống ra dáng một chú gà oai vệ. Chú khoác trên mình một bộ trang  
6
   
phục màu tía sặc sỡ. Cái mào đỏ chót uốn cong, có nhiều ria nhọn như bông  
hoa mào gà. Đôi mắt sáng trong như hai viên ngọc. Cái đuôi cao vổng lên với  
những chiếc lông đủ màu như một cái cầu vồng trông thật đẹp mắt. Đôi chân có  
móng vuốt sắt nhọn thứ vũ khí lợi hại của chú.  
Còn học sinh chưa biết cách viết, tôi hướng dẫn bước đầu học sinh viết  
đúng đủ bố cục bài văn miêu tả, dùng từ ngữ phù hợp, viết đúng chính tả.  
Cụ thể: Nhà em có nuôi một con mèo lông nó màu trắng. Hai con mắt tròn,  
nó có bốn chân và cái đuôi. Nó có răng sắc nhọn. Em thích con mèo này. (bài  
viết của em Phạm Quang Minh ).  
Tôi đã hướng dẫn để giúp học sinh viết lại đảm bảo bố cục. Trước tiên, tôi  
cho học sinh nhắc lại cấu tạo bài văn miêu tả con vật gồm mấy phần? (ba phần)  
hệ thống cho học sinh từng phần viết như thế nào?(trình bày thành các đoạn)  
Chẳng hạn: Mở bài: Giới thiệu con vật ở đâu? Ai nuôi?(Nhà em nuôi được  
một chú mèo trông rất đáng yêu).  
Thân bài: Tả ngoại hình: Bộ lông thế nào?(Bộ lông màu xám tro, rất mượt),  
Hai mắt ra sao?(Hai mắt sáng và tinh) Tai như thế nào? (Tai vểnh lên để nghe  
ngóng. Mỗi khi có tiếng động nhẹ là chú phát hiện ngay) Bốn chân như thế  
nào?(Bốn chân thon thon và rất nhanh nhẹn, đi lại nhẹ nhàng)......  
Tả hoạt động: Bắt chuột thế nào?(Sau mỗi bữa ăn là chú ngồi ngay bao  
thóc để rình, hễ chú chuột nào đến là mèo nhảy ra vồ ngay)  
Kết bài: Cảm nghĩ của em về con vật? ( Em rất thích chú mèo này. Nhờ có  
chú mà nhà em đã hết chuột phá hoại)  
2.3.2. Hướng dẫn học sinh quan sát đối tượng miêu tả  
Để các em có thể vẽ lại được cụ thể, sinh động mọi vật trong đời sống  
hằng ngày, các em cần phải quan sát cụ thể vật đó: Quan sát phải kết hợp sử  
dụng nhiều giác quan (mắt – nhìn, tai – nghe, mũi ngửi, tay - sờ…) để thu  
nhận được càng nhiều chi tiết thì bài miêu tả càng giống với đối tượng miêu tả;  
quan sát theo trình tự từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ tổng quát đến cụ thể  
rồi ghi chép lại vào sổ tay văn học.  
7
 
* Nếu tả đồ vật: cần quan sát bao quát đồ vật, rồi quan sát tỉ mỉ từng phần  
của đồ vật theo trình tự hợp từ ngoài vào trong.  
dụ: Tả chiếc cặp: quan sát bao quát cặp có hình thù như thế nào ? Màu  
sắc gì ? quan sát từng phần đồ vật từ ngoài vào trong, đặc biệt quan sát các bộ  
phận đặc điểm nổi bật: phía trước cặp được trang trí hình gì? Sau cặp bộ  
phận gì ?(quai cặp, dây đeo) Rồi đến quan sát bên trong (cặp mấy ngăn?),  
dùng mũi ngửi thấy mùi gì? Và dùng tay sờ vào từng ngăn cặp cảm giác như  
thế nào?  
* Nếu tả cây cối: cần quan sát kĩ từng bộ phận của cây hay từng thời kì phát  
triển của cây và ích lợi.  
dụ: Tả cây xoài: Quan sát các bộ phận (thân, gốc, cành, lá, hoa,  
quả…) hay từng thời kì phát triển của cây (cây non, cây lớn lên và cây trưởng  
thành cho quả…) và ích lợi (cho quả, tăng thu nhập cho gia đình….)Ngoài ra  
cần sử dụng thêm các giác quan khác như mũi ngửi thấy mùi của xoài như thế  
nào?, tay sờ thấy vỏ cây, da của quả như thế nào? Và lưỡi nếm vị của quả ra  
sao?...  
* Nếu tả con vật: cần quan sát kĩ đặc điểm ngoại hình (bộ lông, mắt, mũi,  
chân, đuôi…), thói quen sinh hoạt một vài hoạt động chính của nó.  
dụ: Tả con gà trống: quan sát con gà to cỡ nào ? lông màu gì ? Mào ra  
sao ? chân to hay nhỏ, đuôi thế nào ? Thói quen của gà (gáy vào sáng sớm) Hoạt  
động chính (tìm mồi, chọi nhau với gà khác). Tôi còn hướng dẫn kĩ cho học sinh  
sử dụng những giác quan khác nữa để quan sát con vật như tay thì sờ vào bộ  
lông cảm thấy thế nào? Tai để nghe tiếng gáy ra sao?...  
Đối với việc quan sát, học sinh được học cụ thể một tiết “Luyện tập quan  
sát” Giáo viên tổ chức tiết học này thật kĩ và kèm theo hệ thống câu hỏi định  
hướng để học sinh biết cách quan sát phát hiện những đặc điểm riêng, phân biệt  
đối tượng miêu tả này với đối tượng khác và quan sát thật hiệu quả. Giáo viên tổ  
chức cho học sinh quan sát theo nhiều hình thức: tranh ảnh, vật thật như quan sát  
đồ chơi (vật thật) quan sát con vật (tranh ảnh hoặc quan sát con vật trước ở  
nhà).  
8
2.3.3. Mở rộng vốn từ ngữ lựa chọn từ ngữ miêu tả  
Để giúp học sinh viết văn miêu tả tốt, đòi hỏi phải trang bị cho các em có  
vốn từ phong phú, hiểu nghĩa của từ, nhận biết từ phổ thông, từ địa phương, từ  
cùng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ nhiều màu sắc biểu cảm…Để đáp ứng được nhu  
cầu như vậy, tôi đã giúp cho học sinh tích lũy vốn từ biết lựa chọn từ miêu  
tả phù hợp. Khi dạy các bài Tập đọc, giúp cho học sinh hiểu nghĩa một số từ có  
trong bài, học sinh nắm được nội dung và nghệ thuật của bài đó cảm nhận  
được cách sử dụng ngôn từ và hình ảnh của mỗi tác giả.  
dụ: Bài “Đôi giày ba ta màu xanh” (sách Tiếng Việt trang 81) Tôi chỉ  
cho học sinh thấy, tác giả sử dụng câu văn miêu tả đôi giày: “Cổ giày ôm sát  
chân. Thân giày làm bằng vài cứng, dáng thon thả, màu vải như màu da trời  
những ngày thu”. Tác giả đã dùng từ ngữ giàu hình ảnh sử dụng phép nghệ  
thuật so sánh để tô thêm vẻ đẹp cho đôi giày.  
dụ: Bài Con chuồn chuồn nước (sách Tiếng Việt trang 127) Tác giả đã  
sử dụng câu văn miêu tả con chuồn chuồn: ”Bốn cái cánh mỏng như giấy bóng.  
Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh như thủy tinh. Thân chú nhỏ và thon vàng  
như màu vàng của nắng mùa thu. Bốn cánh khẽ rung rung như đang còn phân  
vân”. Tác giả đã sử dung hình ảnh so sánh để miêu tả chú chuồn chuồn một cách  
sinh động, hấp dẫn.  
Không những phân môn Tập đọc mà còn các phân môn khác như Luyện từ  
và câu cũng giúp cho học sinh mở rộng vốn từ cho mình như các bài: Mở rộng  
vốn từ theo chủ điểm, các em cũng lĩnh hội thêm được một ít từ ngữ và phân  
môn Mĩ thuật cũng giúp cho học sinh rèn kĩ năng quan sát và trí tưởng tượng  
phong phú…và một số phân môn khác nữa (Kể chuyện, Khoa học…)  
Bên một cạnh đó, học sinh đọc các bài tham khảo cần phải biết học tập  
cách miêu tả chọn lọc số từ ngữ miêu tả. Từ đó học sinh bổ sung được vốn từ  
ngữ cho mình.  
Đặc biệt học sinh tích lũy vốn từ qua thực tế cuộc sống hằng ngày ví dụ  
như nghe và ghi nhớ tiếng kêu của con mèo(meo…meo), Tiếng gáy của con  
gà(ò..ó..o), tiếng sủa của con chó(gâu..gâu) …  
9
 
Ngoài ra, tôi còn giới thiệu thêm một số từ, ngữ cần thiết để làm giàu thêm  
vốn từ cho học sinh.  
Chẳng hạn:  
Tả cây cối  
Thân cây to xù xì, rễ cây ăn sâu xuống lòng đất, cành đâm ra tua tủa, hoa  
kết lại từng chùm, quả treo lúc lỉu, hương thơm ngào ngạt....  
Tả con vật  
Chú khoác lên mình bộ áo đẹp; đầu tròn, mắt sáng và tinh, tai vểnh lên để  
nghe ngóng, chân nhanh nhẹn, đi lại rất nhẹ nhàng, móng vuốt sắc nhọn vũ  
khí tự vệ rất lợi hại, khi kiếm được mồi, chú mang về cho con cùng ăn ...  
Từ vốn từ học sinh đã tích lũy được, tôi hướng dẫn cho học sinh lựa  
chọn từ ngữ, hình ảnh khi miêu tả, sử dụng cho phù hợp. Khi trình bày kết quả  
quan sát được hoặc khi học sinh luyện viết đoạn, tôi đã uốn nắn, chỉ chỗ sai cho  
học sinh ngay khi phát hiện học sinh dùng chưa đúng  
dụ: Thân bút màu xanh lá cây, thon thả như búp cây. (sử dụng từ  
không phù hợp)  
Sửa lại: Thân bút màu xanh lá cây, thon nhỏ như ngón tay em.  
dụ: Em viết lên trang giấy, nét bút trơn hiện lên những dòng chữ mềm  
mềm. (sử dụng từ không phù hợp)  
Sửa lại: Em viết lên trang giấy, nét bút trơn hiện lên những dòng chữ đều  
đều, mềm mại.  
2.3.4. Tìm ý lập dàn bài  
Trước tiên, tôi đã định hướng cho học đọc kĩ đề, xác định thể loại, kiểu bài,  
xác định nội dung tả gì? Và thể hiện tư tưởng tình cảm gì vào bài? Đối với bài  
văn miêu tả, quan sát đối tượng được miêu tả cơ sở để học sinh tìm ý. Sau khi  
học sinh đã quan sát và có những ghi chép chi tiết về đối tượng miêu tả, tôi  
hướng dẫn học sinh tìm ý cho bài văn của mình dựa vào hình ảnh đã quan sát và  
lựa chọn hình ảnh để lập dàn ý cho bài văn. Một bài văn hoàn chỉnh là bài văn  
phải có cách sắp xếp chặt chẽ. Mặc mở bài, thân bài, kết bài là ba phần riêng  
song chúng phải sự thống nhất về ý.  
10  
 

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 21 trang minhvan 18/12/2024 60
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_bien_phap_ren_ki_nang_lam_van_mieu_ta_cho_hoc_sinh_lop.doc