SKKN Biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học tại trường THPT Hướng Hóa
Đại hội XI của Đảng xác định việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực là một trong mười ba định hướng phát triển lớn để hiện thực hoá mục tiêu phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nội dung quan điểm của Đại hội là bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ta về giáo dục và đào tạo.
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong thời đại ngày nay, mỗi một quốc gia đều đứng trước những thời cơ
và thách thức to lớn, đó là sự bùng nổ thông tin, sự phát triển như vũ bão của
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, dẫn đến sự hình thành xã hội thông tin
và nền kinh tế tri thức. Trong đó, trình độ dân trí, tiềm lực khoa học - công nghệ
trở thành một trong những nhân tố quyết định sức mạnh và vị thế của mỗi quốc
gia. Do đó, việc tập trung đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo là chiến
lược quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia.
Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII đã nhấn mạnh:
“Nâng cao dan trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt
Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”.
Đại hội XI của Đảng xác định việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục,
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực là một trong mười ba định hướng phát triển
lớn để hiện thực hoá mục tiêu phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Nội dung quan điểm của Đại hội là bước phát
triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ta về giáo dục và đào tạo.
Đại hội XII tiếp tục khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát
triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài”. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý
luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát
triển kinh tế- xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, với tiến bộ khoa học – công
nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động”. Đây là quan
điểm định hướng cho phát triển giáo dục và đào tạo ở nước ta trong những năm
tới. Quan điểm chỉ đạo này là kết quả của thành tựu nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn 30 năm đổi mới lĩnh vực giáo dục vào đào tạo trong công cuộc đổi
mới đất nước. Nội dung quan điểm thể hiện sự nhận thức đúng đắn và nhất quán
của Đảng ta trong quá trình đổi mới về vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục
và đào tạo. Điểm mới trong nội dung quan điểm có ý nghĩa chỉ đạo, định hướng
cho phát triển giáo dục và đào tạo là lấy phát triển, hoàn thiện con người làm
mục tiêu, động lực; xây dựng một nền giáo dục hiện đại, thực học, đáp ứng yêu
cầu đổi mới, phát triển đất nước.
Thực tế cho thấy, từ những năm cuối thể kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, cục
diện thế giới có nhiều thay đổi, cách mạng khoa học và công nghệ thế giới tiếp
tục phát triển với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền sản xuất và đời sống xã hội. Sự bùng nổ của
công nghệ thông tin nói riêng và khoa học công nghệ nói chung đang tác động
mạnh mẽ vào tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực giáo
dục.
1
Theo NIESAC: “ứng dụng công nghệ thông tin là việc làm hết sức cần
thiết ở Việt Nam nhưng chưa có nhiều công trình nghiên cứu tổng thể về ứng
dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học. Hiện nay, nhiều
trường THPT ở Việt Nam đã được trang bị phòng máy nhưng mới sử dụng để
dạy tin học như một môn học, còn việc sử dụng phòng máy cùng các phần mềm
dạy học như một công cụ dạy học còn là vấn đề cần giải quyết. Các trường chưa
có cơ sở khoa học lựa chọn phần mềm dạy học để dùng cho mình, ngay cả số
lượng phần mềm dạy học cũng rất ít, không đáp ứng nhu cầu sử dụng. Thực tiễn
này đòi hỏi cần nghiên cứu một hệ thống về cơ sở lý luận va thực tiễn quản lý
việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học”.
Như vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý và
dạy học là tất yếu, nhằm đáp ứng đòi hỏi của cuộc cách mạng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; bắt nhịp với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trên toàn
cầu. Hiểu được tầm quan trọng của vấn đề này, với vai trò là hiệu trưởng trường
THPT Hướng Hóa, tôi chọn đề tài: “Biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu
quả việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học tại trường THPT Hướng
Hóa” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm năm học 2018-2019.
2. Mục đích nghiên cứu:
Thông qua việc đánh giá thực trạng vấn đề nghiên cứu, đề xuất các biện
pháp quản lý tại trường THPT Hướng Hóa nhằm nâng cao việc ứng dụng công
nghệ thông tin vào quản lý và dạy học của nhà trường.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Công tác quản lý việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học tại
trường THPT Hướng Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Nhóm phương pháp phân tích, tổng hợp cơ sở lý luận; đánh giá thực
trạng; trao đổi, tổng kết kinh nghiệm về công tác quản lý việc ứng dụng công
nghệ thông tin tại trường.
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG CỦA VIỆC
QUẢN LÝ VIỆC ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TẠI CÁC
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở VIỆT NAM
1. Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm quản lý
Về nội dung, thuật ngữ quản lý có nhiều cách hiểu khác nhau, được định
nghĩa ở nhiều khía cạnh khác nhau do những quan điểm và cách tiếp cận khác
nhau.
Frederick Winslow Taylor (1856-1915), người sáng lập thuyết quản lý
theo khoa học đã định nghĩa “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn
người khác làm”. Đó cũng là tư tưởng cơ bản của ông về quản lý.
2
Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: “Định nghĩa
quản lý một cách kinh điển nhất là các tác động có định hướng, có chủ đích của
chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong
một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”.
Trung tâm nghiên cứu khoa học tổ chức, quản lý đã nêu ra: “Quản lý là
một nghệ thuật đạt được mục tiêu đã đề ra thông qua việc điều khiển, phối hợp,
hướng dẫn, chỉ huy hoạt động của những người khác”.
Những định nghĩa trên đây khác nhau về cách diễn đạt, nhưng đều chứa
đựng những nội dung cơ bản của quản lý.
Như vậy, từ sự phân tích cách tiếp cận và quan niệm của các học giả đã
nêu, có thể khái quát như sau: “Quản lý là các tác động có định hướng, có chủ
đích của chủ thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và
đạt được mục tiêu đề ra”.
1.2. Khái niệm quản lý giáo dục
Khái niệm “quản lý giáo dục” được các nhà nghiên cứu định nghĩa theo
nhiều cách khác nhau:
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là tổ chức các hoạt động
dạy học. Có tổ chức được các hoạt động dạy học, thực hiện được các tính chất
của nhà trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa mới quản lý được giáo
dục, tức là cụ thể hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối ấy thành
hiện thực, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, của đất nước”.
Tác giả Trần Kiểm cho rằng: Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống
những tác động tự giác của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân
viên, tập thể cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội nhằm thực hiện có chất
lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường.
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý giáo dục là hệ thống tác
động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý, nhằm cho hệ
vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện các tính
chất của nhà trường XHCN Việt Nam, đưa hệ thống giáo dục tới mục tiêu dự
kiến, tiến tới trạng thái mới về chất.”
Từ những quan niệm trên, ta thấy: “Quản lý giáo dục là hệ thống những
tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý bằng các
chức năng quản lý, thông qua các phương tiện và phương pháp quản lý nhằm
thực hiện mục tiêu giáo dục đề ra”.
1.3. Khái niệm quản lý nhà trường
Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “Quản lý nhà trường được hiểu là các
hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của
giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối đa
các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà
trường”.
Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục
nói chung là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm
của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới
3
mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và
từng học sinh”.
Như vậy, quản lý nhà trường thực chất là quản lý quá trình lao động sư
phạm của thầy và trò diễn ra chủ yếu trong quá trình dạy học và giáo dục.
Quản lý nhà trường là tập hợp những tác động tối ưu của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý nhằm thúc đẩy mọi hoạt động giáo dục của nhà trường thực
hiện mục tiêu và kế hoạch đào tạo.
1.4. Khái niệm quản lý dạy học
Theo tác giả Nguyễn Phúc Châu: “Quản lý dạy học là sự tác động hợp qui
luật của chủ thể quản lý đến chủ thể dạy học bằng các giải pháp phát huy tác
dụng của các phương tiện quản lý dạy học như: chế định giáo dục và đào tạo, bộ
máy tổ chức và nhân lực dạy học, nguồn tài lực và vật lực dạy học, thông tin và
môi trường dạy học nhằm đạt được mục tiêu quản lý dạy học”.
Như vậy, quản lý dạy học chính là tập hợp những tác động tối ưu (cộng
tác, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can thiệp) của chủ thể quản lý đến tập
thể giáo viên, học sinh nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
vốn có, tạo động lực đẩy mạnh quá trình dạy học của nhà trường nhằm thực
hiện có chất lượng, mục tiêu đào tạo, đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới.
Quản lý hoạt động dạy học là quản lý sự lao động của nhóm (người quản lý,
người dạy và người học). Cụ thể:
- Chủ thể quản lý hoạt động dạy học tác động đến người dạy và người
học thông qua việc thực hiện các chức năng quản lý: kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ
đạo và kiểm tra nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho dạy học.
- Người dạy cùng một lúc thực hiện kế hoạch hoá hoạt động dạy học, tự
tổ chức, chỉ đạo hoạt động dạy của mình và tổ chức, chỉ đạo hoạt động học của
người học, đồng thời tự kiểm tra; đánh giá kết quả dạy của mình và kết quả học
của người học dưới sự quản lý của chủ thể quản lý.
- Người học tự xây dựng kế hoạch, tự tổ chức, tự chỉ đạo và tự kiểm tra
hoạt động học của mình theo kế hoạch, theo sự chỉ đạo và phương thức kiểm tra
đánh giá của chủ thể quản lý và của người dạy trực tiếp. Như vậy, trong quản lý
hoạt động dạy học đã xuất hiện hoạt động tự quản lý của người dạy và người
học. Hơn nữa, dạy học là một trong những hoạt động xã hội cho nên nó có các
thành tố cấu trúc hoạt động như: chủ thể, khách thể, mục đích, phương tiện,
kiểm tra, kết quả. Các phương tiện - điều kiện xã hội là những yếu tố khách
quan của chủ thể hoạt động. Đó là: Các quy chế giáo dục và đào tạo đối với dạy
học; Bộ máy tổ chức nhân lực: cách thức sắp xếp cơ cấu và cơ chế hoạt động
của mỗi bộ phận, mỗi thành viên trong tổ chức do chủ thể quản lý ấn định;
Nguồn tài lực - vật lực: là tài chính, cơ sở vật chất và thiết bị… được sử dụng
cho hoạt động dạy học; Hệ thống thông tin cung cấp những hiểu biết cần thiết
cho chủ thể quản lý và chủ thể dạy học về mục đích, nội dung, chương trình,
phương pháp, hình thức tổ chức, thành tựu khoa học, công nghệ, những yếu tố
kinh tế - xã hội, kể cả những phản ánh của người học, người dạy, cộng đồng, xã
hội về kết quả dạy học để quản lý dạy học; để dạy và để học; Môi trường dạy
4
học: là môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và cả môi trường sư phạm tác
động tới hoạt động dạy học.
Như vậy, quản lý dạy học về mặt tổng thể là quá trình quản lý gồm năm
lĩnh vực chủ yếu sau:
- Quản lý việc thực hiện luật pháp, chính sách, điều lệ và quy chế dạy
học.
- Quản lý bộ máy tổ chức và nhân lực dạy học. - Huy động và sử dụng
nguồn tài lực và vật lực dạy học.
- Quản lý hoạt động dạy học.
- Quản lý hệ thống thông tin dạy học.
Tóm lại, quản lý hoạt động dạy học là quản lý hoạt động dạy của giáo
viên, hoạt động học của học sinh và quản lý các phương tiện, điều kiện cơ sở
vật chất, trang thiết bị, nguồn nhân lực phục vụ cho dạy học theo đúng pháp
luật, chính sách, điều lệ và qui chế dạy học.
1.5. Khái niệm Công nghệ thông tin
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Wikipedia thì “Công nghệ thông tin
(tiếng Anh: Information Technology, viết tắt là IT) là ngành ứng dụng công
nghệ quản lý và xử lý thông tin, đặc biệt trong các cơ quan tổ chức lớn.
Ở Việt Nam thì khái niệm công nghệ thông tin được hiểu và định nghĩa
trong nghị quyết 49/CP kí ngày 04/08/1993 về phát triển CNTT của Chính phủ
như sau: “Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các
phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại - chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn
thông - nhằm tổ chức, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên
thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con
người và xã hội”.
Luật Công nghệ thông tin của Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam số 67/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006 chương 1, điều 4
xác định: “Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, công
nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu
trữ và trao đổi thông tin số”.
Từ khi CNTT được ứng dụng vào giảng dạy đã xuất hiện một số thuật
ngữ như: giáo án điện tử, bài giảng điện tử… Về việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong giảng dạy, hiện nay nhiều người đang nhầm lẫn khái niệm về
giáo án điện tử với bài trình chiếu, bài giảng điện tử.
2. Nội dung quản lý của Hiệu trưởng
Luật Giáo dục 2005 đã xác định: “Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống
giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu
chuẩn nhà giáo, quy chế thi cử; tập trung quản lý chất lượng giáo dục, thực hiện
phân công, phân cấp quản lý giáo dục, tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của cơ sở giáo dục” Trong nhà trường trung học phổ thông với chủ thể
quản lý là Hiệu trưởng. Luật Giáo dục 2005 ghi rõ: “Hiệu trưởng là người chịu
trách nhiệm quản lý các hoạt động của trường, do cơ quan nhà nước có thẩm
5
quyền bổ nhiệm, công nhận. Hiệu trưởng các trường thuộc hệ thống giáo dục
quốc dân phải được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lý trường học”.
Theo Quyết định số: 07/2007/QĐ-BGD&ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo
ngày 02 tháng 4 năm 2007 về việc ban hành Điều lệ trường trung học cơ sở,
trường trung học phổ thông và trường trung học phổ thông có nhiều cấp học ghi
rõ: “Nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng:
a) Xây dựng, tổ chức bộ máy nhà trường;
b) Thực hiện các Nghị quyết, Quyết nghị của Hội đồng trường được quy
định tại khoản 2 Điều 20 của Điều lệ này;
c) Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ năm học;
d) Quản lý giáo viên, nhân viên; quản lý chuyên môn; phân công công
tác, kiểm tra, đánh giá xếp loại giáo viên, nhân viên; thực hiện công tác khen
thưởng, kỷ luật đối với giáo viên, nhân viên theo quy định của Nhà nước; quản
lý hồ sơ tuyển dụng giáo viên, nhân viên;
đ) Quản lý học sinh và các hoạt động của học sinh do nhà trường tổ chức;
xét duyệt kết quả đánh giá, xếp loại học sinh, ký xác nhận học bạ, ký xác nhận
hoàn thành chương trình tiểu học vào học bạ học sinh tiểu học (nếu có) của
trường phổ thông có nhiều cấp học và quyết định khen thưởng, kỷ luật học sinh
theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
e) Quản lý tài chính, tài sản của nhà trường;
g) Thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước đối với giáo viên, nhân
viên, học sinh; tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà
trường; thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục của nhà trường;
h) Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và
hưởng các chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật;
i) Chịu trách nhiệm trước cấp trên về toàn bộ các nhiệm vụ được quy định
trong khoản 1 Điều này.
Như vậy đối tượng quản lý của Hiệu trưởng là giáo viên và học sinh,
khách thể quản lý là toàn bộ các hoạt động giáo dục trong nhà trường, còn nội
dung cụ thể của công tác quản lý trường trung học phổ thông của Hiệu trưởng
bao gồm:
- Quản lý công tác giáo dục học sinh nói chung và dạy học nói riêng trong
và ngoài giờ lên lớp.
- Quản lý cơ sở vật chất, thiết bị dạy học hỗ trợ hoạt động giáo dục trong
nhà trường.
- Quản lý hoạt động thi đua khen thưởng.
- Quản lý các hoạt động khác như quản lý nhân sự, quản lý tài chánh,
công tác xã hội hóa giáo dục.
3. Chức năng quản lý nhà trường của Hiệu trưởng
Theo Giáo trình khoa học quản lý của Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh thì “Chức năng quản lý là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu
của chủ thể quản lý nảy sinh từ sự phân công, chuyên môn hóa trong hoạt động
quản lý nhằm thực hiện mục tiêu”. Bất kỳ một hoạt động quản lý nào cũng đều
6
thực hiện nhiều chức năng quản lý khác nhau, từng chức năng có tính độc lập
tương đối nhưng chúng lại được liên kết hữu cơ trong một hệ thống nhất. Chức
năng quản lý bao gồm chức năng cơ bản và chức năng cụ thể.
- Chức năng quản lý cơ bản: là chức năng mà bất kỳ dạng hoạt động quản
lý nào cũng đều phải thực hiện. Chức năng quản lý cơ bản phản ánh nội dung
của quá trình quản lý tức là các giai đoạn kế tiếp nhau từ lúc bắt đầu đến lúc kết
thúc một chu kỳ quản lý. Tùy theo cách tiếp cận mà có nhiều cách phân định
các chức năng cơ bản của quản lý nhưng tựu trung có thể chỉ ra được 4 chức
năng cơ bản được xem là các chức năng công cụ của quá trình quản lý, đó là:
lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
- Chức năng quản lý cụ thể: là chức năng được quy định bởi sự phản ánh
các nhiệm vụ cụ thể của đối tượng quản lý, nó do các chức năng hoạt động cụ
thể tạo ra. Chức năng cụ thể của quản lý nhà trường được tác giả Hà Thế Ngữ
xác định: “Mỗi chức năng của quản lý giáo dục là sự kết hợp giữa một chức
năng quản lý với một thành tố của hệ thống giáo dục nhà trường. Khi xây dựng
bốn chức năng cơ bản của quản lý đồng thời cũng xây dựng những nhiệm vụ (có
tính chức năng) của nhà trường chúng ta hiện nay. Những nhiệm vụ đó được
trình bày dưới dạng mục tiêu quản lý tương ứng với các thành tố của đối tượng
quản lý biểu hiện dưới dạng của các quá trình bộ phận”.
Dựa vào các cơ sở trên, chúng tôi cho rằng các chức năng quản lý nhà
trường của Hiệu trưởng có thể thực hiện thông qua các giai đoạn kế tiếp nhau
của một chu kỳ quản lý nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo đã đề ra, nó bao gồm:
lập kế hoạch hoạt động; tổ chức; chỉ đạo thực hiện kế hoạch và kiểm tra, đánh
giá việc thực hiện kế hoạch. Mỗi một giai đoạn thực hiện một chức năng nhất
định.
Lập kế hoạch quản lý trường trung học phổ thông là việc đưa toàn bộ các
hoạt động của nhà trường vào kế hoạch, trong đó chỉ rõ các cách thức, các biện
pháp thực hiện, thời gian thực hiện, thành phần tham gia thực hiện cũng như
việc đảm bảo các nguồn lực để đạt được các mục tiêu đã đề ra. Kế hoạch hoạt
động của nhà trường trung học phổ thông phải được xây dựng dựa trên cơ sở
trạng thái xuất phát của nhà trường trước khi bước vào năm học mới; những
thuận lợi, khó khăn của nhà trường trong việc xác lập hệ thống các mục tiêu để
đạt đến trạng thái mong đợi vào cuối năm học; các nguồn lực cần có và hệ
thống các biện pháp để thực hiện các mục tiêu đề ra. Kế hoạch hoạt động phải
mang tính pháp quy, tức là được Hội đồng Sư phạm nhà trường thông qua và
được cấp trên trực tiếp phê duyệt. Kế hoạch phải nhằm chương trình hoá hành
động của nhà trường trong suốt năm học, tức là đưa lịch thời gian và bộ phận
thực hiện vào nội dung kế hoạch. Một vấn đề cần lưu ý nhất khi lập kế hoạch,
đó là phải quan tâm đến nhân tố thực hiện kế hoạch chính là đội ngũ giáo viên
trong nhà trường. Chính vì thế, trước khi hoàn thiện, kế hoạch phải được thảo
luận, đóng góp ý kiến và có sự thống nhất của đội ngũ giáo viên trong Hội nghị
Công nhân viên chức đầu năm học.
7
Tổ chức thực hiện kế hoạch: đó là quá trình phân phối và sắp xếp nguồn
lực theo những cách thức nhất định để thực hiện tốt các mục tiêu đã đề ra. Chức
năng tổ chức có vai trò hiện thực hóa các mục tiêu và tạo nên sức mạnh của tập
thể bởi “tổ chức là phối hợp các tác động bộ phận lại với nhau làm cho chúng
tạo nên một tác động tích hợp, mà hiệu quả của tác động tích hợp này lớn hơn
tổng hiệu quả của các tác động bộ phận”.
Chỉ đạo thực hiện kế hoạch: Chỉ đạo là công việc của nhà quản lý thể
hiện ở việc đề ra yêu cầu, mệnh lệnh cho cấp dưới thực hiện, là quá trình HT
huy động các lực lượng trong nhà trường vào việc thực hiện kế hoạch nhằm
biến mục tiêu dự kiến thành kết quả, kế hoạch thành hiện thực. Theo tác giả
Nguyễn Ngọc Quang thì “Trên thực tế, chỉ đạo là tổ chức một cách khoa học lao
động của cả tập thể người cũng như của từng người”. Trong quá trình chỉ đạo,
người Hiệu trưởng nắm quyền chỉ huy, điều hành mọi bộ phận thực hiện các
công việc sao cho toàn bộ hệ thống quản lý vận hành một cách trơn tru và thuận
lợi. Để đạt được điều đó, Hiệu trưởng cần phải có các chế độ động viên, khích
khích kịp thời, đồng thời phải thường xuyên giám sát tiến trình thực hiện công
việc để có thể điều chỉnh, uốn nắn, sửa đổi những lệch lạc mà không làm thay
đổi hướng vận hành của hệ thống.
Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch: là quá trình xem xét thực tiễn để đánh
giá thực trạng thực hiện kế hoạch, khuyến khích các nhân tố tích cực, phát hiện
những sai lệch, tìm ra nguyên nhân và đưa ra các quyết định điều chỉnh kịp thời
nhằm giúp các bộ phận và các cá nhân đạt được các mục tiêu đã đề ra trong kế
hoạch. Để thực hiện được chức năng kiểm tra, Hiệu trưởng cần phải xác định
được chuẩn kiểm tra, đo lường việc thực hiện các nhiệm vụ, so sánh đối chiếu
với chuẩn kiểm tra để đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu từ đó đưa ra các
quyết định điều chỉnh cần thiết. Tuy nhiên, trong hoạt động của nhà trường có
nhiều hoạt động không thể định lượng, đo lường một cách chính xác được. Vì
vậy, để chức năng kiểm tra có tác dụng trong quản lý nhà trường, Hiệu trưởng
một mặt phải tuân thủ các nguyên tắc kiểm tra, mặt khác phải hết sức mềm dẻo,
linh hoạt vận dụng các hình thức kiểm tra khác nhau để việc kiểm tra đạt được
mục đích là bảo đảm cho kế hoạch hoạt động của nhà trường được thực hiện
thành công.
4. Thực trạng quản lý việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy của
Hiệu trưởng trường trung học phổ thông ở Việt Nam
Theo ông Quách Tuấn Ngọc: “Cho đến nay, giáo viên các trường chủ yếu
soạn bài trình chiếu Powerpoint và một số phần mềm dạy học. Nhiều người vẫn
có sự nhầm lẫn khái niệm giáo án điện tử với bài trình chiếu, bài giảng điện tử,
giữa thiết bị dạy học với phần mềm. Có thể giải thích thế này, giáo án là kế
hoạch lên lớp của giáo viên cho một bài giảng, tiết giảng; bài trình chiếu là bài
soạn từ các phần mềm như MS PowerPoint của Open Office vẫn thường được
chiếu tại các cuộc hội thảo, hội nghị không phải là bài giảng. Còn bài giảng điện
tử được soạn từ các phần mềm e-Learning, để người học có thể tự học, có đầy
8
đủ cả kiểm tra, đánh giá, trao đổi với giáo viên qua mạng. Cần tránh dùng khái
niệm giáo án điện tử để chỉ các bài trình chiếu PowerPoint”.
Theo định nghĩa của Tự điển Giáo dục học “bài giảng” là: “Phần nội
dung trong chương trình của một môn học được giáo viên trình bày trước học
sinh. Các yêu cầu cơ bản đối với bài giảng là định hướng rõ ràng về chủ đề,
trình bày có mạch lạc, có hệ thống và truyền cảm nội dung, phân tích rõ ràng, dễ
hiểu các sự kiện, hiện tượng cụ thể có liên quan và tóm tắt khái quát chung, sử
dụng nhiều thủ pháp thích hợp như: thuyết trình, chứng minh, giải thích, đàm
luận, làm mẫu, chiếu phim, mở máy ghi âm v.v”.
Một số chuyên gia của trường Đại học An Giang cho rằng: “Bài giảng
điện tử là một hình thức tổ chức bài lên lớp mà ở đó toàn bộ kế hoạch hoạt động
dạy học đều thực hiện thông qua môi trường Multimedia do máy tính tạo ra.
Multimedia được hiểu là đa phương tiện, đa môi trường, đa truyền thông. Thông
tin được truyền dưới các dạng: Văn bản (Text), đồ hoạ (Graphics), ảnh động
(animation), ảnh tĩnh (image), âm thanh (audio) và phim video (video clip). Đặc
trưng cơ bản nhất của bài giảng điện tử là toàn bộ kiến thức của bài học, mọi
hoạt động điều khiển của giáo viên đều được Multimedia hoá. “Bài giảng điện
tử” là một hình thức tổ chức bài lên lớp mà ở đó toàn bộ kế hoạch hoạt động
dạy học đều được chương trình hoá do giáo viên điều khiển thông qua môi
trường đa phương tiện (multimedia) do máy vi tính tạo ra. Cũng có thể hiểu bài
giảng điện tử là những tệp tin có chức năng chuyển tải nội dung giáo dục đến
học sinh, chẳng hạn tệp PowerPoint”.
Vậy, thuật ngữ “bài giảng điện tử” theo quan điểm của ông Quách Tuấn
Ngọc và nhóm chuyên gia của trường Đại học An Giang không hoàn toàn giống
nhau. Các thuật ngữ “giáo án điện tử”, “bài giảng điện tử” vẫn còn nhiều quan
điểm chưa thống nhất.
5. Nội dung ứng dụng CNTT vào giảng dạy
Chỉ thị 58-CT/TW của Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam ngày 17/10/2000 “Về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông
tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” ghi rõ: “Ứng dụng và phát
triển công nghệ thông tin ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật
chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển
nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế, tǎng cường nǎng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh, quốc
phòng và tạo khả nǎng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
Chỉ thị 29/2001/ CT-BGDĐT ngày 30/7/2001 của Bộ Giáo dục & Đào
tạo “Về việc tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành
Giáo dục giai đoạn 2001 - 2005” có ghi: “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo
dục và đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng
CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp giảng
dạy, học tập ở tất cả các môn học”.
9
Chương 2, mục 4, điều 34 của Luật công nghệ thông tin quy định về việc
“Ứng dụng CNTT trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.” ghi rõ:
1. Nhà nước có chính sách khuyến khích ứng dụng công nghệ thông tin
trong việc dạy, học, tuyển sinh, đào tạo và các hoạt động khác trong lĩnh vực
giáo dục và đào tạo trên môi trường mạng.
2. Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động giáo dục và đào tạo trên môi
trường mạng phải tuân thủ quy định của Luật này và quy định của pháp luật về
giáo dục.
3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền chịu trách nhiệm xây dựng, triển
khai thực hiện chương trình hỗ trợ tổ chức, cá nhân nhằm thúc đẩy ứng dụng
CNTT trong giáo dục và đào tạo.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định điều kiện hoạt động giáo dục và đào
tạo, công nhận giá trị pháp lý của văn bằng, chứng chỉ trong hoạt động giáo dục
và đào tạo trên môi trường mạng và thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục và
đào tạo trên môi trường mạng”.
6. Công tác quản lý việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy
Ở trường THPT, việc lập kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin, như bất
kỳ việc lập kế hoạch nào khác sẽ được tiến hành thông qua hai giai đoạn:
- Giai đoạn thứ nhất: chuẩn bị cho việc lập kế hoạch (số phòng học được
trang bị máy móc, thiết bị phục vụ ứng dụng công nghệ thông tin, trình độ ứng
dụng công nghệ thông tin của đội ngũ, xác định hướng phát triển cơ bản
- Giai đoạn thứ hai: lập kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin (dự báo
hệ thống mục tiêu ứng dụng công nghệ thông tin, phân loại ưu tiên cho từng
môn học, khối lớp học, định chuẩn đánh giá; lựa chọn hệ thống biện pháp tối ưu
nhằm huy động toàn bộ nguồn lực trong nhà trường tham gia; chương trình hóa
hành động của hệ thống trong suốt năm học, đưa lịch thời gian cùng các bộ
phận thực hiện vào nội dung kế hoạch)
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ VIỆC ỨNG
DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO CÔNG TÁC DẠY HỌC Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HƯỚNG HÓA
2.1. Khái quát tình hình về trường THPT Hướng Hóa
Trường THPT Hướng Hóa nằm ở trung tâm huyện lỵ huyện Hướng Hóa -
là huyện miền núi nằm về phía cực Tây tỉnh Quảng Trị, là huyện rộng nhất tỉnh,
chiều dài gấp ba chiều rộng, có diện tích 1179,9 km vuông, gần bằng một phần
tư diện tích tỉnh, có dân số 82.000 người (tính đến cuối năm 2013) với mật độ
dân cư là 54 người/km vuông. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Bình; phía Đông giáp
huyện Vĩnh Linh, huyện Gio Linh và huyện Đăkrông; phía Nam giáp Lào; phía
Tây giáp Lào. Huyện Hướng Hóa có Quốc lộ 9 băng qua chiều ngang, nối liền
với thị trấn Cam Lộ và thành phố Đông Hà ở phía Đông, cửa khẩu quốc tế Lao
Bảo qua Lào nối với đường Liên Á, lại có khu di tích lịch sử Khe Sanh, di tích
10
nhà tù Lao Bảo và khe suối, hang động, rừng già, cảnh trí thiên nhiên rất đẹp.
Do đó, huyện Hướng Hóa có vị trí kinh tế và du lịch quan trọng.
Địa thế núi rừng Hướng Hóa rất đa dạng: núi, sông xen kẻ nhau, tạo
thành địa hình chia cắt, sông suối đều bắt nguồn từ núi cao. Khí hậu mang nét
điển hình của khí hậu nhiệt đới - gió mùa, quanh năm nóng ẩm, nhiệt độ bình
quân cả năm tương đối cao (24,9 độ C). Các tiểu vùng khí hậu đã tạo cho huyện
Hướng Hóa là vùng tài nguyên khí hậu đa dạng, đây thực sự là một trong những
thế mạnh để phát triển nội lực và thu hút đầu tư vào địa bàn.
Trường THPT Hướng Hóa được thành lập năm 1985. Năm học 2018 –
2019, trường có 30 lớp gồm 1104 học sinh với 71 cán bộ, giáo viên. Trường
gồm có 11 tổ chuyên môn: Ngữ văn, Tiếng Anh, Toán, Tin, Lý, Hoá, Sử - Địa,
GDCD, Sinh - Kỹ thuật, Thể dục, Văn phòng.
Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên có trình độ đạt chuẩn và trên
chuẩn, 100% có chứng chỉ tin học và có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin
vào quản lý và giảng dạy. Đội ngũ cán bộ quản lý có 04 đồng chí. Trong đó có
01 đồng chí đạt trình độ thạc sỹ quản lý giáo dục, 03 đồng chí có trình độ đại
học. Đội ngũ giáo viên cơ bản nắm được yêu cầu, chương trình dạy học mới của
bộ môn mình phụ trách, nắm được nội dung kiến thức cơ bản của môn học cũng
như cấu trúc của chương trình, mục tiêu dạy học, phương pháp dạy học bộ môn
và thời lượng môn học. Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
chương trình dạy học mới cũng còn có những tồn tại trong từng giáo viên, từng
tổ chuyên môn, nhất là giáo viên có tuổi trung niên.
Về cơ sở vật chất: đến nay, trường THPT Hướng Hóa đã được đầu tư cơ
bản, đảm bảo đáp ứng nhu cầu dạy học, đổi mới, ứng dụng công nghệ thông tin
vào quản lý và giảng dạy trong toàn trường. Trường có 15 phòng học được
trang bị hệ thống internet, máy chiếu, ti vi; 02 phòng máy tính phục vụ việc dạy
môn tin học; 01 phòng học tiếng Anh; 03 phòng thực hành có đủ trang thiết bị
dạy học, đảm bảo dạy học 02 ca/ngày.
2.2. Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý các hoạt động
dạy học tại trường THPT Hướng Hóa
Qua quá trình triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý công
tác dạy học ở Trường THPT Hướng Hóa, chúng tôi nhận thấy:
- Về mặt nhận thức của cán bộ quản lý, giáo viên: giáo viên đã nhận thức
được tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động dạy
học để nâng cao chất lượng đào tạo; giáo viên cũng ý thức trách nhiệm của
người thầy trong việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn bằng việc phổ biến
đầy đủ các chế định về giáo dục và đào tạo thông qua các chỉ thị, quy chế,
chương trình giáo dục, điều lệ, chế độ chính sách, luật giáo dục. Tuy nhiên, một
bộ phận giáo viên chưa nhận thức sâu sắc được rằng việc quản lý việc ứng dụng
công nghệ thông tin vào giảng dạy là nhằm để nâng cao năng lực chuyên môn
của từng cá nhân để từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường. Đội
ngũ giáo viên chưa thật sự quan tâm đến việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
giảng dạy. Nhiều giáo viên thực hiện chiếu lệ, hình thức, do việc đầu tư vào
11
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học tại trường THPT Hướng Hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_bien_phap_quan_ly_nham_nang_cao_hieu_qua_viec_ung_dung.doc
- Bìa SKKN Nga THPT Hướng Hóa.doc
- Mục lục SKKN- Nga THPT Hướng Hóa.doc
- TÀI LIỆU THAM KHẢO- NGA THPT HƯỚNG HÓA.doc