SKKN Áp dụng phương pháp dạy học “nêu vấn đề” bằng “tình huống gợi vấn đề” đối với việc giảng dạy môn Tin học tại trường THPT Lạng Giang số 1

Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tin học phổ thông theo đúng chỉ đạo của ngành, người giáo viên cần phải vận dụng những phương pháp dạy học tích cực. Phương pháp dạy học “Nêu vấn đề” hay còn gọi là dạy học “Phát hiện và giải quyết vấn đề” là một trong những phương pháp dạy học tích cực thích hợp đối với nhiều bộ môn, kể cả môn Tin học. Người giáo viên khi áp dụng phương pháp dạy học này đòi hỏi phải biết cách đưa ra “tình huống gợi vấn đề”.
MỤC LỤC  
1
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM  
ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC “NÊU VẤN ĐỀ” BẰNG “TÌNH  
HUỐNG GỢI VẤN ĐỀ” ĐỐI VỚI VIỆC GIẢNG DẠY MÔN TIN HỌC  
TẠI TRƯỜNG THPT LẠNG GIANG SỐ 1  
PHẦN I: MỞ ĐẦU  
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:  
Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tin học phổ thông theo đúng chỉ đạo  
của ngành, người giáo viên cần phải vận dụng những phương pháp dạy học tích cực.  
Phương pháp dạy học “Nêu vấn đề” hay còn gọi dạy học “Phát hiện giải quyết vấn  
đề” một trong những phương pháp dạy học tích cực thích hợp đối với nhiều bmôn, kể  
cả môn Tin học. Người giáo viên khi áp dụng phương pháp dạy học này đòi hỏi phải biết  
cách đưa ra “tình huống gợi vấn đề”.  
Sau một thời gian nghiên cứu cơ sở luận và áp dụng phương pháp dạy học “nêu  
vấn đề” với việc đưa ra các “tình huống gợi vấn đề” trong một số bài dạy tôi nhận thấy  
học sinh tích cực tư duy hơn, chủ động hơn trong quá trình nắm bắt kiến thức bmôn. Từ  
đó tôi chọn đề tài này là để ghi nhận những kinh nghiệm dạy học của mình qua quá trình  
“Áp dụng phương pháp dạy học “nêu vấn đề” bằng “tình huống gợi vấn đề” đối với  
việc giảng dạy môn Tin học tại trường THPT Lạng Giang số 1”.  
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:  
Mục đích nghiên cứu của đề tài là ghi nhận, phân tích, đánh giá quá trình áp dụng  
phương pháp dạy học “nêu vấn đề” của giáo viên bằng “tình huống gợi vấn đề” đối với  
việc giảng dạy môn tin học cho học sinh. Phân tích tính hiệu quả khi áp dụng phương  
pháp dạy học này phù hợp với đặc trưng của bộ môn và phù hợp với đối tượng học sinh.  
3
     
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:  
Bản chất của dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề” là giáo viên đặt ra trước học sinh  
các “vấn đề” của khoa học (các bài toán nhận thức) mở ra cho các em những con  
đường giải quyết các vấn đề đó. Vậy nên nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài này là căn cứ  
vào bản chất của phương pháp dạy học “Nêu vấn đề” để phân tích cách sử dụng các “Tình  
huống gợi vấn đề” sao cho mang lại hiệu quả nâng cao chất lượng nắm bắt kiến thức  
trong bộ môn Tin học của học sinh tại trường THPT Lạng Giang số 1, trong đó đánh  
giá các “Tình huống gợi vấn đềtheo các điều kiện bắt buộc đối với mỗi “Vấn đề”.  
IV. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:  
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là áp dụng phương pháp dạy học “Nêu vấn đề”  
bằng “Tình huống gợi vấn đề” phù hợp với đặc trưng bộ môn trên đối tượng học sinh học  
tại trường THPT Lạng Giang số 1.  
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:  
Phương pháp nghiên cứu của đề tài này là nghiên cứu thuyết về phương pháp  
dạy học “Nêu vấn đề”, về khái niệm “Tình huống gợi vấn đề” sau đó nghiên cứu thực  
nghiệm qua quá trình áp dụng và ghi nhận, phân tích, đánh giá kinh nghiệm dạy học.  
VI. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI:  
Theo hướng dẫn giảng dạy môn Tin học năm học 2011 - 2012 nói riêng và theo chỉ  
đạo của ngành nói chung về việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực cho học sinh phổ  
thông, việc áp dụng phương pháp dạy học “Nêu vấn đề” không phải điểm mới. Tuy  
nhiên nghiên cứu việc áp dụng phương pháp dạy học cho phù hợp với đặc trung bộ môn  
sao cho mang lại hiệu quả thiết thực, đó mới điểm mấu chốt cũng kết quả đạt đến  
của đề tài. Một điểm mới của đề tài nữa là nghiên cứu cách chọn ra “Tình huống gợi vấn  
đề” để áp dụng cho phương pháp dạy học “Nêu vấn đề”, đặc biệt áp dụng trong chương  
trình giảng dạy môn Tin học đối với học sinh của trường THPT Lạng Giang số 1.  
4
       
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU  
I. CƠ SỞ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN:  
1. Cơ sở luận:  
1.1. Khái niệm “Vấn đề” trong dạy học môn Tin học:  
thể hiểu “Vấn đề” là mâu thuẫn giữa sự hiểu biết và không hiểu biết, chỉ  
được giải quyết bằng con đường tìm kiếm lời giải đáp cho những câu hỏi đã nảy sinh ra.  
Vấn đề trong học tập hình thành từ một khó khăn về luận hay thực tiễn việc giải  
quyết khó khăn đó kết quả của tính tích cực nghiên cứu của bản thân học sinh.  
Để hiểu đúng thế nào là một “Vấn đề” đồng thời làm rõ một vài khái niệm có  
liên quan, ta bắt đầu từ khái niệm “Hệ thống”.  
“Hệ thống” được hiểu một tập hợp những phần tử cùng với những quan hệ giữa  
những phần tử của tập hợp đó.  
Một “Tình huống” được hiểu một “Hệ thống” phức tạp gồm chủ thể và khách  
thể, trong đó chủ thể thể “người”, còn khách thể lại một “Hệ thống” nào đó.  
Trong một “Tình huống bài toán”, nếu chủ thể đặt ra mục tiêu tìm phần tử chưa  
biết nào đó dựa vào một số những phần tử cho trước trong khách thể thì ta có một “Bài  
toán”.  
Một “Bài toán” được gọi “Vấn đề” nếu chủ thể chưa sở hữu một “Thuật toán”  
nào có thể áp dụng để tìm ra phần tử chưa biết của “Bài toán”.  
Một “Bài toán” yêu cầu viết chương trình cho máy tính cũng được gọi “Vấn đề”  
nếu chủ thể đã có trong tay một “Thuật toán” nhưng chưa biết cách mã hóa một cách hợp  
thuật toán đó thành chương trình cho máy tính.  
5
     
dụ:  
Cho một “Tình huống bài toán” như sau:  
Cho dãy số nguyên A={a1,a2,…,an}, hãy viết chương trình cho máy tính tìm phần  
tử thuộc dãy A có giá trị bằng k.  
Phần tử chưa biết “chương trình tìm phần tử thuộc dãy A có giá trị bằng k”  
Giả sử yêu cầu học sinh viết chương trình cho máy tính tìm phần tử chưa biết đó  
thì học sinh là “chủ thể” đi tìm “Phần tử chưa biết”. Lúc này “Tình huống bài toán” được  
gọi là “Bài toán”. Nếu học sinh chưa biết “thuật toán cho chương trình tìm phần tử thuộc  
dãy A có giá trị bằng k” thì đó “Vấn đề” cần giải quyết.  
Theo cách hiểu như trên thì “Vấn đề” không đồng nghĩa với “Bài toán”. Khái niệm  
“Vấn đề” nêu trên thường được dùng trong giáo dục cần phân biệt với vấn đề trong  
nghiên cứu khoa học. Việc “Chưa biết một số phần tử” mang tính khách quan chứ không  
phụ thuộc vào chủ thể tức học sinh chưa biết chứ không phải là nhân loại chưa biết. Khi  
được dùng trong giáo dục thì khái niệm “Vấn đề” mang tính tương đối. “Vấn đềchính là  
nội dung học sinh cần tìm hiểu, nắm bắt để giải quyết được “Bài toán”.  
Thế nên, người giáo viên muốn áp dụng phương pháp dạy học “Nêu vấn đề” trước  
hết cần lựa chọn được “vấn đề” tiềm ẩn trong đơn vị bài toán. Từ đó tạo ra tình huống có  
vấn đề để thu hút sự chú ý và hưởng ứng của học sinh, chuẩn bị cho các hoạt động tiếp  
theo của quá trình dạy học “Nêu vấn đề”.  
1.2. Khái niệm “Tình huống gợi vấn đề”:  
“Tình huống gợi vấn đề” còn gọi là “Tình huống vấn đề”, một tình huống gợi ra  
cho học sinh những khó khăn về luận hay thực tiễn họ thấy cần thiết và có khả năng  
vượt qua, nhưng không phải ngay tức khắc nhờ một thuật toán hay dựa theo một cách làm  
nào đó đã biết phải trải qua một quá trình tích cực suy nghĩ, hoạt động để biến đổi đối  
tượng hoặc điều chỉnh kiến thức sẵn có.  
6
Như vậy, “Tình huống gợi vấn đề” là tình huống cần thỏa mãn các điều kiện sau:  
1 Tồn tại một vấn đề:  
Tình huống phải bộc lộ mâu thuẫn giữa thực tiễn với trình độ nhận thức, chủ thể  
phải ý thức được một khó khăn trong duy hoặc hành động vốn hiểu biết sẵn chưa  
đủ để vượt qua, tức là theo các giải thích nêu ở phần trên thì có ít nhất một phần tử của  
khách thể chủ thể chưa biết hoặc chưa học cách giải quyết.  
2 Gợi nhu cầu nhận thức:  
Nếu như tình huống tồn tại vấn đề nhưng vì lý do nào đó học sinh không thấy  
có nhu cầu tìm hiểu, giải quyết; họ cảm thấy vấn đề xa lạ, không liên quan gì tới mình thì  
đó cũng chưa phải một “Tình huống gợi vấn đề”. Điều quan trọng là tình huống phải  
gợi nhu cầu nhận thức, chẳng hạn phải làm bộc lộ sự khiếm khuyết về kiến thức kỹ  
năng của học sinh để họ cảm thấy cần thiết phải bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện trị thức,  
kỹ năng bằng cách tham gia giải quyết vấn đề nảy sinh.  
3 Khơi dậy niềm tin ở khả năng bản thân:  
Nếu như tình huống tồn tại vấn đề học sinh có nhu cầu giải quyết vấn đề  
nhưng họ cảm thấy vấn đề vượt quá xa với khả năng của mình thì họ cũng sẽ không sẵn  
sàng tham gia giải quyết vấn đề. Tình huống cần khơi dậy ở học sinh cảm nghĩ là tuy họ  
chưa có ngay lời giải, nhưng họ đã một số tri thức, kỹ năng liên quan đến vấn đề đặt ra  
nếu họ tích cực suy nghĩ, tìm hiểu thì có nhiều hi vọng giải quyết được vấn đề đó. Như  
vậy học sinh có được niềm tin ở khả năng huy động tri thức kỹ năng sẵn để giải  
quyết vấn đề hoặc tham gia vào quá trình giải quyết vấn đề.  
1.3. Đặc điểm của dạy học “Nêu vấn đề”:  
1.3.1. Thế nào là dạy học “Nêu vấn đề”:  
Phương pháp này không phải mới, xuất hiện từ những năm 60 của thế kỷ XX.  
Theo Zinaiđa Iacốplépna Rez thì: “Dạy học nêu vấn đề một hệ thống các tình huống có  
7
vấn đề liên kết với nhau và phức tạp dần lên mà qua giải quyết các tình huống đó học sinh  
với sự giúp đỡ chỉ đạo của thầy sẽ nắm được nội dung của môn học, cách thức học  
môn đó, và phát triển cho mình những đức tính cần thiết để sáng tạo trong khoa học và  
trong cuộc sống”.  
Dạy học “Nêu vấn đề” hay còn được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác như dạy học  
“đặt giải quyết vấn đề”, “nêu và giải quyết vấn đề”, “phát hiện giải quyết vấn đề”,  
“giải quyết vấn đề”… những thuật ngữ thường được dùng trong lý luận dạy học các  
môn học khác nhau. Tuy thuật ngữ có khác nhau đôi chút nhưng đặc điểm chung của  
phương pháp và nêu và giải quyết được vấn đề, kết luận vấn đề để rút ra kiến thức cần  
lĩnh hội hoặc áp dụng kiến thức vào thực tiễn.  
Nét đặc trưng chủ yếu của phương pháp dạy học này là sự lĩnh hội tri thức diễn ra  
thông qua việc tổ chức cho học sinh hoạt động nắm bắt giải quyết các vấn đề mà bài  
toán đã đặt ra. Sau khi giải quyết vấn đề, học sinh sẽ thu nhận được kiến thức mới, kỹ  
năng mới hoặc thái độ tích cực.  
1.3.2. Đặc điểm của dạy học “Nêu vấn đề”  
Trong phương pháp dạy học nêu vấn đề, người thầy tạo ra những tình huống gợi  
vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, sáng  
tạo để giải quyết vấn đề, thông qua đó kiến tạo tri thức, rèn luyện kỹ năng đạt được  
những mục tiêu học tập khác. Dạy học nêu vấn đề sự tiếp thu tri thức trong hoạt động  
duy sáng tạo những đặc điểm chính như sau:  
Mục tiêu dạy học không phải chỉ là làm cho học sinh lĩnh hội kết quả của quá trình  
phát hiện giải quyết vấn đề mà còn ở chỗ làm cho họ phát triển khả năng tiến hành  
những quá trình như vậy. Dạy học “Nêu vấn đề” học sinh vừa nắm được tri thức mới, vừa  
nắm được phương pháp chiếm lĩnh tri thức đó, phát triển tư duy tích cực sáng tạo, được  
chuẩn bị một năng lực thích ứng với đời sống hội, phát hiện kịp thời giải quyết hợp  
những vấn đề nảy sinh.  
8
Học sinh được đặt vào một tình huống gợi vấn đề chứ không phải được thông báo  
tri thức dưới dạng sẵn.  
Học sinh chủ động, tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, tận lực huy động tri thức  
khả năng của mình để phát hiện giải quyết vấn đề chứ không phải chỉ nghe thầy  
giảng một cách thụ động.  
1.4. Những hình thức cấp độ dạy học “Nêu vấn đề”:  
Người học độc lập phát hiện giải quyết vấn đề:  
Đây một hình thức dạy học mà tính độc lập của người học được phát huy cao độ.  
Thầy giáo chỉ tạo ra tình huống gợi vấn đề, người học tự phát hiện giải quyết vấn đề  
đó. Như vậy trong hình thức này, người học độc lập nghiên cứu vấn đề thực hiện tất cả  
các khâu cơ bản trong quá trình học.  
Người học hợp tác phát hiện giải quyết vấn đề:  
Hình thức này chỉ khác hình thức thứ nhất ở chổ quá trình phát hiện giải quyết  
vần đề không diễn ra một cách đơn lẻ ở một người học mà là có sự hợp tác giữa những  
người học với nhau như học tập theo nhóm, làm dự án,…  
Thầy trò vấn đáp phát hiện giải quyết vấn đề:  
Trong vấn đáp phát hiện giải quyết vấn đề, học trò làm việc không hoàn toàn  
độc lập mà có sự gợi ý, dẫn dắt của thầy khi cần thiết. Phương tiện để thực hiện hình thức  
này là những câu hỏi của thầy những câu trả lời hoặc hành động đáp lại của trò. Như  
vậy sự đan kết, thay đổi sự hoạt động của thầy và trò dưới hình thức vấn đáp.  
Với hình thức này, ta thấy dạy học “Nêu vấn đề” phần giống với phương pháp  
vấn đáp. Tuy nhiên hai cách dạy học này thật ra không đồng nhất với nhau, nét quan trọng  
của dạy học “Nêu vấn đề” không phải những câu hỏi ở chỗ tình huống gợi vấn đề.  
Giáo viên thuyết trình phát hiện giải quyết vấn đề:  
9
hình thức này, mức độ độc lập của học sinh thấp hơn ở các hình thức nêu trên.  
Người thầy tạo ra tình huống gợi vấn đề, sau đó chính bản thân thầy phát hiện vấn đề và  
trình bày quá trình suy nghĩ, giải quyết vấn đề (không phải nêu lời giải). Trong quá trình  
đó sự tìm tòi, dự đoán, có lúc thành công, có khi thất bại, phải điều chỉnh phương  
hướng mới đi đến kết quả. Như vậy tri thức được trình bày không phải dưới dạng sẵn  
có mà là trong quá trình dạy học người ta sẽ khám phá ra chúng. Cách này thường áp  
dụng trong khi viết chương trình cho máy tính để giải quyết những bài toán mang tính  
phức tạp, cần vận dụng nhiều thuật toán phối hợp.  
Những hình thức trên đã được sắp xếp theo mức độ độc lập trong hoạt động học  
của học sinh trong quá trình phát hiện giải quyết vấn đề, vậy đó cũng đồng thời là  
những cấp độ dạy học cho phương pháp “Nêu vấn đề”. Nghĩa là xét theo mức độ độc lập  
của học sinh thì cấp độ 1 cao hơn cấp độ 2 nhưng xét theo phương diện mức độ giao lưu,  
hợp tác của học sinh thì cấp độ 2 lại cao hơn cấp độ 1. Đó là khi ta giả định xem xét trên  
cùng một vấn đề, còn nếu xét những vấn đề khác nhau thì việc người học độc lập phát  
hiện giải quyết một vấn đề không hẳn đã được đặt cao hơn việc thầy trò vấn đáp phát  
hiện giải quyết một vấn đề khó. Vì vậy đương nhiên có sự pha trộn giữa những hình  
thức khác nhau và tồn tại những nấc thang trung gian giữa các cấp độ khác nhau.  
2. Cơ sở thực tiễn:  
2.1 Trích nội dung hướng dẫn giảng dạy môn Tin học năm học 2011-2012  
Mục 1.1. Đối với các lớp Trung học phổ thông:  
Chương trình Tin học THPT thực hiện theo chương trình và sách giáo khoa của Bộ  
Giáo dục Đào tạo, khi triển khai thực hiện cần bám sát chương trình chuẩn kiến thức  
kỹ năng đã được Bộ Giáo dục Đào tạo ban hành, và hướng dẫn giảm tải.  
Mục 2.2. Phân phối chương trình Tin học THPT:  
10  
 
Thực hiện theo công văn số 1128/SGD&ĐT – GDTrH ngày 04/9/2008 của Sở GD  
ĐT về việc hướng dẫn thực hiện chương trình và kế họach dạy học THCS, THPT,  
HNDN năm học 2008 – 2009 áp dụng từ năm học 2008 -2009. Công văn số 1028  
/SGDĐT-GDTrH ngày 26/9/2011 về việc điều chỉnh chương trình giảm tải năm học 2011  
– 2012.  
Mục 4.2. Đổi mới PPDH:  
Cần kế thừa các phương pháp dạy học truyền thống có tính đến đặc điểm riêng của  
bộ môn, lưu ý tới các phương pháp sau:  
- Dạy học phát hiện giải quyết vấn đề  
- Dạy học hợp tác.  
- Dạy học dựa trên đề án, dự án.  
Chú trọng phương pháp thực hành trong dạy Tin học tăng cường kết hợp giữa  
giảng dạy thuyết thực hành. Bài thực hành được dạy ở phòng máy, học sinh học  
kiến thức mới kết hợp với thực hành ngay trên máy tính. Máy tính là giáo cụ trực quan,  
máy tính còn là phương tiện học tập học sinh dùng máy tính kiểm nghiệm ngay kiến  
thức vừa được học.  
2.2 Trích nội dung hướng dẫn “Cách tiến hành giảng dạy môn Tin học THPT” theo  
sách giáo viên Tin học Lớp 11.  
Để xây dựng phương pháp dạy học đúng đắn cần phần tích hoạt động lập trình về  
nhiều phương diện khác nhau.  
1 Về phương diện ngôn ngữ: Dạy lập trình có thể áp dụng quan điểm giao tiếp như khi dạy  
ngôn ngữ. Theo quan điểm này người ta không thiên về mặt hệ thống ngôn ngữ mà  
thường tạo các tình huống giao tiếp. Những tình huống này tạo ra nhu cầu phải học những  
(từ, qui tắc, cấu trúc câu…).  
11  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 32 trang minhvan 29/09/2024 650
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "SKKN Áp dụng phương pháp dạy học “nêu vấn đề” bằng “tình huống gợi vấn đề” đối với việc giảng dạy môn Tin học tại trường THPT Lạng Giang số 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_ap_dung_phuong_phap_day_hoc_neu_van_de_bang_tinh_huong.doc
  • docBia.doc